Đề bài: Bình giảng ba khổ thơ đầu bài Bếp lửa của Bằng Việt
Bạn đang xem bài: Bình giảng ba khổ thơ đầu bài Bếp lửa của Bằng Việt
Bài văn mẫu Bình giảng ba khổ thơ đầu bài Bếp lửa của Bằng Việt
Bài làm:
Có một thời gian khổ mà ta không thể nào quên. Có những người đã gắn bó với tuổi thơ chúng ta, trở thành kỉ niệm, mang theo bao tình thương nỗi nhớ sâu nặng trong lòng ta. Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt với hình ảnh người bà đã đem tới cho ta xúc cảm và nỗi niềm bâng khuâng ấy:
Một bếp lửa lẩn vẩn sương sớm
…
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Đây là phần đầu bài thơ Bếp lửa nói lên những kỉ niệm sâu sắc tuổi thơ với bao tình thương nhớ bà của đứa cháu đi xa.
Tràn ngập bài thơ, đoạn thơ là một tình thương nhớ mênh mông, bổi hổi. Ba câu thơ đầu nói lên hai nỗi nhớ: nhớ bếp lửa, thương nhớ bà. Bếp lửa “lẩn vẩn sương sớm “gắn bó với mỗi gia đình Việt Nam, với sự tảo tần chịu thương chịu thương chịu khó của bà. Bếp lửa “ấp iu nồng đượm” đã được nhen nhóm bằng sự nâng niu, ôm ấp của tình thương. Nhớ bếp lửa là nhớ tới bà “biết mấy nắng mưa”, trải qua nhiều vất vả, nặng nhọc. Điệp ngữ “một bếp lửa” phối hợp với câu cảm thán làm cho giọng thơ bổi hổi xúc động:
Một bếp lửa lẩn vẩn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Khổ thơ thứ hai nói về kỉ niệm tuổi thơ, kỉ niệm buồn khó quên: “năm đói mòn đói mỏi”, “khô rạc ngựa gầy “, “khói hun nhèm mắt cháu”, “sống mũi còn cay”. Bằng Việt sinh năm 1941, năm thi sĩ lên 4 tuổi, là cuối năm 1944 đầu năm 1945, nạn chết đói kinh khủng đã xảy ra, hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói. Đó là kỉ niệm về “mùi khói”, về “khói hun”, một cảnh đời nghèo khổ gắn liền với bếp lửa gia đình trước cách mệnh. Vần thơ là tiếng lòng thời thơ ấu gian khổ, rất trung thực cảm động:
Lên bốn tuổi, cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn, đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại tới giờ sống mũi còn cay!
“Nghĩ lại tới giờ” đó là năm 1963, đã 19 năm trôi qua, mà đứa cháu vẫn cảm thấy “sống mũi còn cay!”. Kỉ niệm buồn, vết thương lòng, khó quên là vậy!
Khổ thơ thứ ba nói về việc nhóm lửa suốt một thời gian dài 8 năm của hai bà cháu. nổi tiếng chim tu hú kêu gọi mùa lúa chín trên những cánh đồng quê. Tiếng chim tu hú, những chuyện kể của bà về Huế thân yêu đã trở thành kỉ niệm. “Tu hú kêu… “, “khi tu hú kêu… “, ” tiếng tu hú”…, cái âm thanh đồng quê thân thuộc ấy được nhắc đi nhắc lại nhiều lần càng trở nên tha thiết bổi hổi. Đó là tiếng vọng thời gian năm tháng của kỉ niệm về gia đình (bếp lửa), về quê hương (tiếng chim tu hú) yêu thương. Cháu thầm hỏi bà hay tự hỏi lòng mình về một thời xa vắng:
Tám năm ròng rã cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
“Cháu cùng bà nhóm lửa “, nhóm lửa của sự sống, nhóm ngọn lửa của tình thương.
Tám năm ấy, quốc gia có chiến tranh “Mẹ cùng cha bận công việc không về”, cháu ở cùng bà, cháu lớn lên trong tình thương và sự săn sóc nuôi dưỡng của bà. Hai câu thơ 16 chữ mà chữ bà, chữ cháu đã chiếm đúng một nửa. Ngôn từ đã tụ họp tất cả tình thương của bà dành cho cháu. Một tình thương ấp ủ, chở che:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm. bà chăm cháu học.
Hay nhất, súc tích nhất là từ ngữ: “cháu ở cùng bà”, “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm”. Vai trò người bà trong mỗi gia đình Việt Nam thật vô cùng to lớn. Năm tháng đã trôi qua vậy mà bà vẫn “nặng nhọc” vất vả “nhóm bếp lửa”. Nghĩ về ngọn lửa hồng của bếp lửa, nghĩ về tiếng chim tu hú gọi bầy, đứa cháu gọi nhắn thiết tha chim tu hú “kêu chi hoài”. Câu thơ cảm thán và thắc mắc tu từ diễn tả nỗi thương nhớ bà bổi hổi tha thiết. xúc cảm cứ trào lên:
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà nặng nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng tới ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Năm chữ “nghĩ thương bà nặng nhọc” nói lên lòng hàm ân bà của đứa cháu đã và đang mang nặng trong trái tim mình tình thương của bà dành cho.
Đoạn thơ đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ và dào dạt xúc cảm. Cháu thương nhớ và hàm ân bà không bao giờ quên. Bằng thể thơ tự do 8 từ (có xen 7 từ), tác giả đã tạo nên một giọng thơ thiết tha, chất thơ trong sáng truyển cảm, hình tượng đẹp. Bếp lửa, tiếng chim tu hú, người bà là 3 hình tượng hòa quyện trong tâm hồn đứa cháu xa quê, ở đây, tình thương nhớ bà gắn liền với tình yêu quê hương. Câu thơ của Bằng Việt có một sức lay, sức gợi gớm ghê!
———————HẾT———————-
Chi tiết nội dung phần Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt để cho thấy tình yêu quê hương quốc gia và nội dung chi tiết phần tìm hiểu hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa để tăng kĩ năng làm văn của mình.
Bản quyền bài viết thuộc THPTSocTrang.Edu.Vn. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: cmm.edu.vn
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục