Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất

Ở 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện thành công nỗi đơn chiếc, cùng những dự cảm không lành về tương lai của nàng Kiều. Với 8 bài Cảm nhận 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn gọn, sẽ giúp những em hiểu rõ hơn tâm trạng của người con gái hồng nhan bạc phận.

1. Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích – Mẫu 1

Phạm Quỳnh đã từng khẳng định rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, thi sĩ Chế Lan Viên đã từng lắng sâu và tinh tế khi đã đựng lên lời thơ: “Nguyễn Du viết Kiều quốc gia hóa thành văn”. Qua bao nhiêu thế kỷ, Truyện Kiều đã trở thành món ăn ý thức không thể thiếu với mỗi người dân nước Việt Nam. Những trang thơ có sức hút diệu kỳ, vương vấn mãi cho tâm hồn ta, mang tới cảm thương sâu sắc với tấm gương thống khổ, Thúy Kiều đem lại cho ta những khoái cảm thẩm mĩ đặc biệt trước những lời thơ như hoa, như gấm:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Bạn đang xem bài: Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất

Thuyền người nào thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Tám câu thơ trên trích trong đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là những vần thơ có sức sợ hãi nhất của đoạn trích, diễn tả thành công nỗi lòng tê tái của Kiều trong những chuỗi ngày trước tiên khi vừa tới kiếp đoạn trường. Hai tiếng “buồn trông” được lặp lại bốn lần trong đoạn trích, vừa như gói gọn trọn tâm thế của Kiều “‘trước lầu Ngưng Bích”, vừa tạo tiết điệu đều đều, buồn thương cho cả đoạn thơ. Ở nơi “khóa xuân”, Kiều chỉ biết lấy thiên nhiên làm lợi thế đó nàng đã nhận thức về số kiếp của mình. Với tầm nhìn của nàng trước hết hướng ra xa, vì tại nơi xa đó là nhà nàng, là nơi mà có những người thân yêu nhất.

” Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền người nào thấp thoáng cánh buồm xa xa?”

Với không gian bát ngát, rộng lớn, khá hiu quạnh nơi cửa bể như làm nổi lên thân phận nhỏ bé, đơn chiếc của thúy Kiều. Không gian ấy cộng hưởng cùng thời gian “chiều hôm” – thời khắc gợi nhớ, gợi buồn – khiến cho khoảng không như thấm sâu hơn làm tâm hồn người con gái ấy tới từ xứ lạ như nỗi niềm xót xa. Giữ quang cảnh ấy, trái tim cô quạnh, tâm hồn trống vắng rất cần một khá ấm, một sự hiện diện của sức sống

“Thuyền người nào thấp thoáng cánh buồm xa xa”

“Thuyền” đích thị là hình ảnh biểu tượng cho sự sống con người. Nhưng đó là sự hiện hữu mờ mờ, như có mà cũng như không, nó được diễn tả qua hai từ “thấp thoáng”, “xa xa”. Sự xuất hiện mờ ảo của cánh buồm không làm cho quang cảnh thêm thân tình rét mướt mà nó còn gợi ra sự đa sầu, đa cảm, gợi cảm giác cô liêu cho con người. Không tìm thấy sự sẻ chia tới từ nơi cửa biển xa xăm, Kiều hướng tầm mắt của mình về ” ngọn nước” sắp mình hơn:

” Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Giữa dòng nước, cánh hoa từ từ trôi man mác như gợi nhắc thân phận cảnh bèo dạt của người cùng cảnh. thắc mắc tu từ như xoáy vào tâm hồn người đọc. Thân phận cánh hoa hay chính là những nỗi trằn trọc, xót xa cho số kiếp mỏng manh, phiêu bạt của Thúy Kiều? Hai từ ‘về đây” ở cuối câu thơ với thanh không càng tạo cho ta cảm giác xa vắng, vô định, như tương hợp với tâm thế hiện thời của Thúy Kiều. Tìm tới với thiên nhiên mong sao vơi bớt đi mối sầu chất chứa trong lòng những hình ảnh, tâm trạng lại càng rối bời. nhường nhịn như nước gợi lên sự lạnh lẽo, bất định, chảy trôi nên Thúy Kiều đã tìm về với bờ cỏ xanh, với mặt đất. Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Nhưng cỏ cũng mang tâm trạng buồn thương của người: “rầu rầu”. Đâu còn là “cỏ non” xanh tận chân trời trong tiết thanh minh khi Thúy Kiều còn sống với những tháng ngày “Êm đềm trướng rủ màn che”. Cảnh vật nơi xứ lạ như thấu cảm nỗi niềm của Kiều nên nhuốm màu tâm tư của cả kiếp người đã phiêu bạt. Nỗi “rầu rầu” ấy đã tràn ngập, lan tỏa khắp không gian: chân trời mặt đất một màu xanh xanh

Cái nhìn bao quát từ “chân trời” xa xăm tới mặt đất sắp gũi, tất cả đều hòa chung một màu xanh xanh. Nó khác lắm cái sắc xanh tràn ngập sinh khí của tiết trời mùa xuân. Cỏ xanh tận chân trời và cũng không giống màu áo xanh tinh khôi của anh chàng Kim Trọng trong ngày đầu gặp gỡ:

“Tuyết in sắc ngựa câu giòn.

Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.”

Màu xanh xanh của không gian nơi lầu Ngưng Bích là một màu xanh gợi nỗi buồn. Một nỗi buồn của người pha vào cảnh vật, mang theo những nỗi tê tái điên dại. Không gian như mở ra rợn ngợp, cô liêu. Sự vắng lặng bao trùm cảnh vật tô đậm lên tiếng lòng thổn thức của người trong cảnh. Thúy Kiều cảm thấy mình cần một tiếng vọng của sự sống con người nhưng đáp lại với nỗi mong mỏi của cô chỉ có những âm thanh hào hùng, bi thương của cảnh vật thiên nhiên/

Gió gào, nước chảy xiết… tất cả đều gợi lên sự chảy trôi, như thân phận “Bên trời góc bể trật” của Thúy Kiều. Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm như tiếng gào thét của lòng người trong tình cảnh bẽ bàng, tê tái, đau thương. Tầm nhìn của Kiều hướng từ xa về sắp, từ cao tới thấp, mong mỏi tìm kiếm một sự hồi đáp. Thanh âm duy nhất đáp lại Thúy Kiều đó là tiếng sóng ầm ầm kêu quanh ghế ngồi. Nó không làm cho không gian vang động hơn mà nó khiến không gian trở nên tâm trạng đớn đau lẫn dự cảm lo lắng về tương lai của Thúy Kiều. Xót xa biết bao, đớn đau biết bao! Chỉ có những cảnh vật, thiên nhiên kế bên, chia sẻ tấm lòng với nagf. Đó chính là thời khắc Thúy Kiều thấm thía nhất nỗi niềm tự thương thân mình.

Thơ ca Việt nam chỉ tìm được bến neo đậu nơi lòng người lúc đó là tiếng lòng tha thiết được tạo ra bởi tài năng nghệ thuật chân chính, Cả đoạn thơ này của Nguyễn Du đã khiến cho độc giả trông thấy điều đó. Nó không chỉ khắc họa thành công nỗi lòng xót xa, tâm trạng bẽ bàng của Thúy Kiều mà còn cho ta thấy nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Âm hưởng của những dòng thơ đã và đang vang đọng mãi trong tâm trí người đọc về sau.

 

2. Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích – Mẫu 2

Chỉ với tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Nguyễn Du đã gián tiếp trình bày tâm trạng Kiều bằng văn pháp tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc. 

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền người nào thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

chân trời mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Hình ảnh những cánh buồm thấp thoáng ngoài biển khơi mênh mông trong buổi chiều tà gợi lên không gian xa lắc của quê nhà và không khí tĩnh lặng, trong đó nó thể hiện rõ nỗi nhớ quê hương của người con xa quê. Còn hình ảnh hoa trôi man mác là hình ảnh tả thực về những bông hoa trôi nổi, cập kênh trên mặt nước, bị sóng biển vùi dập, xô đẩy từ đó nó thể hiện tâm trạng buồn tủi của Thúy Kiều. Những cánh hoa mỏng manh như nàng Kiều đang ôm nỗi lo về số phận vô định trên dòng đời. Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” kéo dài tới tận chân trời vẫn chỉ một màu xanh xanh đang héo úa ấy đã vẽ lên một cảnh tượng u ám, héo hon, nó gợi cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn triền miên, vô vọng của Thúy Kiều.

Hai câu thơ cuối bài tả cảnh “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh của tiếng sóng gợi lên rất rõ mang cả hình ảnh và âm thanh của phong ba bão táp hung hãn chuẩn bị ập xuống, khiến ta cảm thấy lo sợ thay cho người con gái ấy. Hơn nữa, Nguyễn Du còn sử dụng điệp ngữ “buồn trông” đặt ở đầu những câu thơ nhằm liên kết những hình ảnh trong cả đoạn thơ thành một chuỗi cảnh thảm sầu.

Thêm vào đó, từ buồn trông mang hai thanh bằng lặp đi lặp lại bốn lần trong những cặp thơ lục bát tạo nên âm hưởng trầm, buồn diễn tả nỗi sầu như kéo dài dằng dặc của nhân vật trữ tình.

Trên đây Luật Minh Khuê vừa giới thiệu tới độc giả nội dung bài viết “Cảm nhận tám câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Mời những bạn đón xem. 

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Tổng hợp

Related Posts