Cảm nhận tâm trạng nhân vật Tràng liên hệ với tâm trạng Chí Phèo

Tài liệu hướng dẫn cảm nhận tâm trạng nhân vật Tràng liên hệ với tâm trạng Chí Phèo gồm gợi ý cách làm bài, dàn ý chi tiết cùng một số bài văn mẫu hay tìm hiểu, so sánh tâm trạng Tràng (Vợ Nhặt – Kim Lân) và Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao).

Cùng tham khảo ngay…

Bạn đang xem bài: Cảm nhận tâm trạng nhân vật Tràng liên hệ với tâm trạng Chí Phèo

Hướng dẫn làm bài cảm nhận tâm trạng nhân vật Tràng liên hệ với tâm trạng Chí Phèo

Đề bài: Cảm nhận về tâm trạng của nhân vật Tràng trong đoạn trích. Từ đó liên hệ tới tâm trạng của Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao (Ngữ văn 11) để thấy sự thành công của hai nhà văn trong nghệ thuật trình bày tâm lí nhân vật.

1. tìm hiểu đề

– Yêu cầu của đề bài: nêu cảm nhận về tâm trạng của Tràng liên hệ với tâm trạng của Chí Phèo.

– Dạng đề: Liên hệ, so sánh hai nhân vật trong hai tác phẩm văn học có định hướng (sự thành công của hai nhà văn trong nghệ thuật trình bày tâm lí nhân vật)

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong hai tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao và Vợ nhặt của Kim Lân, đặc biệt là về hai nhân vật Tràng và Chí Phèo.

– Phương pháp lập luận chính : tìm hiểu, cảm nhận, so sánh.

2. Hệ thống luận điểm

Luận điểm 1: Cảm nhận về tâm trạng nhân vật Tràng

Luận điểm 2: Liên hệ tâm trạng của Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở

Luận điểm 3: Sự thành công trong nghệ thuật trình bày tâm lí nhân vật của hai nhà văn.

3. Lập dàn ý chi tiết

a) Mở bài

– Giới thiệu đôi nét về nhà văn Kim Lân và tác phẩm “Vợ Nhặt”; giới thiệu khái quát về nhân vật Tràng trong tác phẩm (đặc biệt được thể hiện qua đoạn trích của đề bài).

– Từ đoạn trích trên, giúp liên hệ tới tâm trạng của Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao (Ngữ văn 11).

– Qua việc khắc họa 2 nhân vật, ta thấy được sự thành công của hai nhà văn trong nghệ thuật trình bày tâm lí nhân vật.

b) Thân bài: Triển khai vấn đề

* Cảm nhận về tâm trạng nhân vật Tràng

– Tràng sung sướng, hạnh phúc, hãnh diện: thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”, việc có vợ đối với hắn vẫn hết sức bất thần.

– Tràng nhìn thấy sự thay đổi xung quanh khiến anh cảm động: “có cái gì vừa thay đổi mới lạ”: “Nhà cửa, sân vườn ngày hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn ghẽ. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc cây ổi đã kín nước đầy ăm ắp”, bà cụ Tứ lụi hụi giẫy cỏ, nàng dâu quét tước, nấu nướng. Tất cả những cảnh tượng đó thật thông thường nhưng đủ làm cho hắn cảm động vì chưa bao giờ Tràng được trải qua niềm hạnh phúc giản dị như thế.

– Tràng có sự thay đổi trong suy nghĩ: yêu thương, gắn bó với gia đình; thấy có trách nhiệm phải lo lắng cho vợ con; và ngời lên niềm tin vào tương lai tươi sáng. Tràng thấy thế cục mình bỗng nhiên thay đổi hẳn, hắn thấy mình trưởng thành (“nên người”) và cần có trách nhiệm với gia đình của mình:

Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ thường. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đó. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Bởi vì Tràng đã có một gia đình, và trong cái buổi sáng trước hết ấy, hắn đã được tắm mình trong không khí rét mướt, hạnh phúc của tổ ấm gia đình.

=> Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống độc đáo để nhân vật bộc lộ phẩm chất, tính cách; trình bày tâm lí nhân vật tinh tế, tiếng nói mộc mạc, giản dị, đậm chất nông thôn và có sự gia công sáng tạo của nhà văn. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc…

* Liên hệ tâm trạng của Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở

– Tâm trạng của nhân vật Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở được thể hiện tập trung trong buổi sáng tỉnh rượu của Chí. Nam Cao khắc họa rất thành công chuỗi diễn biến tâm lí của Chí Phèo:

+ Cảm nhận cuộc sống đời thường (lần trước hết sau một cơn say dài, Chí cảm nhận được những hình ảnh thân thuộc và lắng tai rõ nhất những âm thanh cuộc sống xung quanh mình);

+ Hắn nhớ lại quá khứ xa xôi, thấm thía cuộc sống hiện tại, lo lắng cho tương lai cô độc, buồn tủi;

+ Khi được Thị Nở cho ăn cháo hành thì hắn ngạc nhiên, cảm động, ăn năn hối hận, tủi thân khi lần trước hết được cho bởi một người phụ nữ; rồi hắn vui, thèm khát được trở lại thế cục lương thiện, hy vọng, tin tưởng được trở lại thế cục hoàn lương.

 * Sự thành công trong nghệ thuật trình bày tâm lí nhân vật của hai nhà văn

– Điểm giống nhau:

+ Cả Nam Cao và Kim Lân đều rất quan tâm tới đời sống tâm hồn của những người lao động nghèo Việt Nam trước cách mệnh tháng Tám. Hai nhà văn đều mô tả chi tiết, trung thực, sinh động diễn biến tâm trạng của mỗi nhân vật ở thời khắc buổi sáng – gắn liền với sự thức tỉnh/ thay đổi của mỗi nhân vật – thông qua xúc cảm và dòng ý nghĩ.

+ Có khi những nhà văn khách quan kể lại diễn biến đó nhưng cũng có khi Nam Cao và Kim Lân nhập thân vào nhân vật, tường thuật lại diễn biến tâm trạng thông qua lời văn nửa trực tiếp. Tài năng trình bày tâm lí nhân vật của mỗi nhà văn không chỉ tạo điều kiện cho những nhân vật nổi hình nổi sắc mà còn giúp những nhà văn thể hiện sâu sắc tình cảm nhân đạo của mình.

– Điểm khác nhau:

+ Qua diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau buổi sáng gặp Thị Nở, ta thấy đó là tâm trạng của con người đang đứng trước thảm kịch của đời mình; Chí Phèo “lần trước hết thức tỉnh” sau một cơn say dài – nhận thức sự bần cùng hóa dẫn tới tha hóa, lưu manh hóa của bản thân và khát khao muốn quay lại cuộc sống lương thiện; từ đó nhà văn Nam Cao thể hiện tin tưởng vào sự thức tỉnh lương tâm của người nông dân trước cách mệnh.

+ Trong đoạn trích của “Vợ nhặt”, cùng tả tâm trạng nhân vật vào buổi sáng, Kim Lân đã phát hiện ra sự thay đổi và trưởng thành trong nhận thức, tình cảm và hành động của nhân vật Tràng. Nó không phải quá đột ngột bất thần mà nó là một lát cắt trong chuỗi diễn biến tâm trạng đầy ngạc nhiên, có sự thay đổi dần dần của Tràng từ lúc “nhặt” được vợ cho tới cuối truyện.

=> từ đó, tác giả có cái nhìn trân trọng, truyền tụng người nông dân dù trong hoàn cảnh hết sức bi đát vẫn có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình. Nhân vật Chí Phèo tuy thức tỉnh để thèm khát hoàn lương như cuối cùng rơi vào thảm kịch bị cự tuyệt quyền làm người, còn nhân vật Tràng cuối cùng đã được đổi đời, tìm thấy hạnh phúc thực thụ của thế cục…

c) Kết bài:

– Đánh giá khái quát vấn đề: Qua hai đoạn trích đều thể hiện tài năng khắc họa nghệ thuật trình bày tâm lí nhân vật của hai nhà văn, từ đó cũng góp phần thể hiện trị giá nhân đạo sâu sắc.

Có thể bạn quan tâm: Hướng dẫn lập dàn ý tìm hiểu nhân vật Tràng trong Vợ nhặt

Bài văn cảm nhận hay về tâm trạng nhân vật Tràng sau khi lấy Thị làm vợ

Vợ Nhặt” là truyện ngắn được trích trong tập truyện “Xóm ngụ cư” của nhà văn Kim Lân. Câu truyện kể về nhân vật anh cu Tràng một người nông dân hiền lành chất phác trong nghịch cảnh lại có được hạnh phúc lứa đôi. Không chỉ xây dựng nhân vật thành công qua nét tính cách và ngoại hình, Kim Lân còn khắc họa rất thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật này.

Vợ Nhặt được lấy bối cảnh từ nạn đói kinh khủng năm Ất Dậu 1945 trong khi quốc gia ta có tới 2 triệu người chết đói. Nhân dân ta chịu cảnh áp bức một cổ hai tròng. Ở miền Bắc, phát xít Nhật bắt dân ta phải nhổ lúa trồng đay. Thực dân Pháp thì ra sức vơ vét thóc gạo của người nông dân. Hậu quả là tới cuối năm 1945, người dân rơi vào thảm cảnh bi thương khi hàng triệu người bị chết đói. Đây được xem là nạn đói lớn nhất trong lịch sử. Nhưng kỳ lạ thay ngay cả trong hoàn cảnh đói khát tăm tối nhất khi người ta kề cận bên mồm vực của cái chết thì những con người lao động Việt Nam vẫn lạc quan hướng về tương lai hạnh phúc hơn.

Nhân vật Tràng trong truyện ngắn được trình bày là một gã trai nghèo khổ. Nghèo tới tột cùng cái nghèo đó được thể hiện qua “chiếc áo nâu tang”, ngôi nhà thì “vắng teo đứng rúm ró bên mảnh vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại”. Và Tràng chỉ là một gã kéo xe bò thuê. tới cái tên của hắn cũng thể hiện sự thô kệch nghèo túng. Ngòi bút của Kim Lân đã khắc họa nhân hình của Tràng một cách rất sống động: “hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra”. khuân mặt thô kệch, thân hình to lớn, vạm vỡ, cái đầu thì trọc lốc…Dưới ngòi bút của Kim Lân, hắn chỉ như một bức chân dung vẽ vội một hình hài được tạo hóa mài giũa quá ư sơ sài, cẩu thả. Không chỉ xấu xí mà cái sự nghèo khổ còn khiến cho hắn bị dở tính có tật “vừa đi vừa nói”. Hắn hay “lảm nhảm than vãn những điều hắn nghĩ” thỉnh thoảng còn “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”.

Trong cái cơn thóc cao gạo kém đó, một người vừa xấu xí lại nghèo như Tràng không người nào có thể hình dung được là hắn có thể có vợ. Mà hoàn cảnh lấy được vợ cũng hết sức thú vị. Hắn nhặt được vợ trên phố đi đẩy xe bò chở thóc về nhà. Thị đã theo hắn về nhà sau lời mời chào tưởng như bông đùa và bốn bát bánh đúc ở chợ huyện.

Kim Lân đã dành rất nhiều trường đoạn để trình bày diễn biến của nhân vật Tràng sau khi nhặt được vợ. trước hết khi nghe những lời láng giềng xì xầm, bàn tán chê bai: ”chao ôi, thời buổi nào còn rước cái của nợ ấy về, có nuôi nổi nhau sống qua ngày không?”. Nhưng Tràng nghe thấy thế cũng chỉ “Chậc. Kệ” giờ đây hắn chỉ còn “tình nghĩa với người phụ nữ đi kế bên”. Hắn tủm tỉm cười hai mắt sáng lóng lánh mơ về niềm hạnh phúc tương lai.

Buổi sáng ngày hôm sau khi Tràng thức dậy tâm trạng của hắn thực sự thay đổi. Niềm vui lâng lâng trong người khi hắn nhìn thấy nhà cửa dọn sạch sẽ tinh tươm. Mẹ hắn đang nhổ cỏ vườn. Vợ đang quét sân tiếng thanh hao vang lên đều đều. Bỗng nhiên, hắn cảm thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn một cách lạ thường. Thế là từ đây hắn đã có một gia đình, hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà sẽ trở thành nơi che mưa che nắng cho vợ chồng hắn. Một nguồn sung sướng và phấn chấn dâng lên trong lòng Tràng. Lúc này, Tràng cũng biết trách nhiệm của người đàn ông trong gia đình cần lo lắng cho vợ. Hắn cũng chạy xăm xăm ra giữa sân và tham gia vào một phần giúp tu sửa ngôi nhà. Chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi mà Kim Lân đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất thần, bỡ ngỡ cho tới hạnh phúc tột cùng khi biết mình đã có gia đình.

Thông qua đoạn trích trên ta thấy nghệ thuật trình bày tâm lí nhân vật đặc sắc của nhà văn Kim Lân. Với những ngôn từ mộc mạc, giản dị dậm chất nông thôn có thêm sự gia công sáng tạo của nhà văn. Cùng lối kể truyện hấp dẫn sinh động giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về nhân vật anh cu Tràng. Một người nông dân tuy sống trong hoàn cảnh nghèo túng, khổ cực nhưng chưa bao giờ từ bỏ ước mong về một cuộc sống hạnh phúc sau này. Đó chính là tư tưởng nhân đạo được nhà văn khéo léo lồng ghép vào trong tác phẩm.

» Tham khảo thêm hướng dẫn cách làm bài văn liên hệ so sánh nhân vật Tràng với Chí Phèo để nhận xét về số phận của người nông dân Việt Nam xưa.

Bài văn liên hệ nhân vật Tràng với Chí Phèo ấn tượng của nam sinh Vũng Tàu

Tôi định viết một số truyện ngắn những ý khác là khi đói người ta không nghĩ tới tuyến đường chết mà chỉ nghĩ tới tuyến đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm tới đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hy vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người”. Đây là lời tự sự của chính tác giả truyện ngắn Vợ nhặt – nhà văn Kim Lân – người một lòng đi về với vẻ đẹp thuần phác nguyên thủy làng quê khuất lấp sau dãy tre làng. Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân để lại ấn tượng trong lòng độc giả không chỉ bởi thông điệp giàu ý nghĩa mà còn bởi trị giá ý thức và trị giá giáo dục giàu có của thiên truyện này. Truyện được lấy cảm hứng và viết từ nạn đói năm 1945. Sau đó, bị mất bản thảo nhưng khi hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào cốt truyện cũ viết nên truyện ngắn này và in trong tập Con chó xấu xí.

Cốt truyện xoay quanh ba nhân vật là Tràng, bà cụ Tứ (mẹ Tràng) và Thị – người vợ nhặt (vợ Tràng). Nhân vật nào cũng đều là hiện thân của những người nông dân trong nạn đói năm ấy, khốn khổ, đói rách. Hoàn cảnh nạn đói ấy đã tác động sâu sắc tới ngoại hình và tính cách của họ. Tuy nhiên, được sống trong tình thương của gia đình, của tình người, những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong họ mới lộ thiên.

Cùng với người vợ nhặt, nhân vật Tràng là một con người với hai phương diện tính cách đối lập như thế khi được sống trong những hoàn cảnh khác nhau “một gã trai quê nông nổi, liều lĩnh nhưng lại đầy khát khao và tốt bụng”. “Nông nổi” là xốc nổi, thiếu cân nhắc suy nghĩ trước khi hành động, “liều lĩnh” là hành động mà không nghĩ tới hậu quả tai hại có thể xảy ra. “thèm khát” là muốn có một cuộc sống hạnh phúc như bao người, “tốt bụng” có lòng tốt, thương người và sẵn sàng trợ giúp người khác. Đó là hai mặt tính cách đối lập do hoàn cảnh sống tạo ra. Tuy hai tính cách có đối lập nhau nhưng chúng lại bổ sung cho nhau để hoàn thiện nhân vật Tràng trong tác phẩm.

Tràng là dân ngụ cư, cuộc sống chịu thiệt thòi. Vì mưu sinh, họ phải tha phương cầu thực nơi đất khách quê người. Ở đây, để tồn tại, họ phải bưng mặt đi làm thuê, làm mướn cho những người có quyền thế, có tiền tài. Họ còn phải chịu cái nhìn ghẻ lạnh, khinh miệt từ người dân địa phương. Tràng làm nghề đẩy xe thóc thuê cho Liên đoàn Nhật. Một nghề cập kênh, ngắn hạn không ổn định. Tràng sống cùng người mẹ già trong một ngôi nhà “rúm ró” nằm trong một mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, xiêu vẹo, tối tăm, sống đời “mẹ quá, con côi” khốn cùng cùng bà mẹ già.

Trong cái nạn đói năm ấy, người đói chết thây chất đầy đường, thiếu ăn tới độ phải ăn rễ cây mà sống, có được bát cháo cám mà húp thôi đã là một ơn huệ vô cùng lớn. Gia đình Tràng cũng chẳng ngoại lệ, cuộc sống cập kênh khi tương lai của mình còn lo chưa xong, ở nhà “gạo chỉ đếm bằng hạt”. Thế nhưng, chỉ với hai lần gặp gỡ người phụ nữ xa lạ trong hai lần kéo xe bò lên tỉnh, Tràng đã sẵn sàng đãi người phụ nữ ấy bốn bát bánh đúc, cho không, biếu không Thị mấy cái thúng con,… Thế thì có nông nổi không?

Không chỉ thế, trong tình cảnh “tới cái thân mình còn lo chưa xong” mà Tràng lại dẫn Thị về nhà, thêm một mồm ăn là thêm một “thời cơ” chết đói. tính mệnh mình mà cũng không màng, thế có phải là liều lĩnh không? Lý giải cho hành động nông nổi, liều lĩnh này, phải kể tới tài năng của nhà văn Kim Lân.

Kim Lân đã rất thành công trong việc phác họa được một anh nông dân đúng thực chất khù khờ, hiền lành và chất phác. nếu như hiểu Tràng là người đầy khát khao và tốt bụng thì chẳng có gì nhân văn cả. Vậy Tràng bao dung, thương người ? Chính cái tính hồn nhiên, vô tư ấy là bước đệm, là nền tảng tạo dựng hạnh phúc cho Tràng sau này. Cái tính tốt bụng khởi đầu từ khi gặp người phụ nữ xa lạ, khi chưa có danh phận gì với nhau cả, chỉ là người lạ gặp qua đường. Anh đã cho đi, để rồi anh đã nhận lại thứ quý giá nhiều hơn thế.

Tràng tốt bụng nhưng thèm khát có vợ của Tràng rất mãnh liệt, dẫu trong vài chi tiết hé lộ khá kín đáo, nhà văn đã cho độc giả thấy được điều đó: Trong lần thứ nhất, Tràng đẩy xe bò lên tỉnh gặp Thị, Tràng hò một câu tưởng tình cờ cho đỡ mệt nhưng thật ra lại đầy ý tình:

Muốn ăn cơm trắng mấy giò này

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì

Khi Thị nhận lời, Tràng thích lắm. “Từ cha sinh mẹ đẻ tới giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế”. Rồi cả trong câu nói vu vơ nhưng đầy tình thương và thành ý: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”.

Nhà văn Kim Lân muốn nhấn mạnh với độc giả điều gì qua khát vọng hạnh phúc gia đình của Tràng ? Là dù trong hoàn cảnh nghèo đói khốn cùng hay thậm chí là cái chết đang chờ đón trước mắt thì thèm khát hạnh phúc của con người vẫn luôn dạt dào, mãnh liệt. Tình người, hạnh phúc luôn mang tới những điều kỳ diệu, tươi đẹp cho cuộc sống để con người cảm thấy muốn sống, sống đẹp hơn trong những ngày cằn cỗi, khắc nghiệt. Chính điều đó đã làm cái vẻ xấu xí, thô kệch của Tràng bị lấn lướt bởi vẻ đẹp tỏa sáng tự bên trong.

Những ấn tượng còn lại về Tràng: Anh là một con người bao dung, rét mướt và đầy tình yêu thương. Ngoài vườn mẹ đang lụi hụi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng thanh hao từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn thuần, thông thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ thường. Và nghĩ về tương lai tươi sáng sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đó. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có trách nhiệm phải lo lắng cho vợ con sau này.

Cuối tác phẩm, Tràng nghĩ về “đám người đói và lá cờ đỏ bay phơ phới” làm người đọc hình dung ra rằng khát khao hạnh phúc mãnh liệt tương lai tươi sáng vẫn đang bùng cháy le lói trong tâm hồn của Tràng. Với tiếng nói mộc mạc, giản dị, đậm chất nông dân được gạn lọc kỹ lưỡng giàu sức gợi, xây dựng tình huống truyện độc đáo, trình bày tâm lý nhân vật hấp dẫn sinh động. Nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành người lao động vật Tràng: “một gã trai quê nông nổi, liều lĩnh nhưng vừa lại đầy khát khao và tốt bụng” như ý kiến ở đề bài đã đánh giá.

Cùng viết về đề tài người nông dân nghèo vùng nông thôn, phải chịu nhiều thiệt thòi, sống khốn cùng, lầm than dưới chế độ phong kiến, thực dân, Nam Cao đã gây được tiếng vang lớn với hình tượng tiêu biểu Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên ra đời năm 1941, tức trước cách mệnh tháng Tám năm 1945.

Chí là một người hiền hậu, chất phác được dân làng Vũ Đại cưu mang. Anh cũng ước mơ có một cuộc sống bình dị như bao người “một cuộc sống nho nhỏi, chồng cày thuê, vợ dệt vải”. Chỉ vì cường quyền của chế độ phong kiến khi chưa có Đảng lãnh đạo mà đứa con ý thức của tác phẩm đã bị giày xéo không tiếc thương. Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho người nông dân bần cùng dẫn tới lưu manh hóa – quy luật có tính phổ biến trong xã hội trước cách mệnh. Còn Tràng lại tiêu biểu cho người nông dân vùng nông thôn trong nạn đói kinh khủng năm Ất Dậu (1945). Nhìn chung, số phận của Chí Phèo đáng thương, khổ đau hơn Tràng: bị cự tuyệt quyền làm người.

Ngoài những yếu tố chi phối như đề tài, cảm hứng, phong cách, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng, thiên hướng sáng tác của mỗi nhà văn có khác nhau thì có nhẽ bối cảnh ra đời của hai tác phẩm là yếu tố quyết định tới sự khác nhau trong số phận của hai người nông dân này.

Tác phẩm Chí Phèo ra đời trước cách mệnh tháng Tám, đồng nghĩa với việc số phận và thế cục người nông dân hoàn toàn bế tắc, không lối thoát. Không phải vậy mà Chí Phèo với thực chất vốn lương thiện đã không thể tồn tại trong xã hội ấy đó sao? Anh phải tìm tới cái chết để được làm người… lương thiện.

Còn với Vợ nhặt thì khác, dù lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu (1945) nhưng tác phẩm được viết lại vào năm 1955, tức sau cách mệnh tháng Tám. Văn học thời kỳ này phải gắn liền và phục sự cho sự nghiệp cách mệnh. Do vậy, số phận của người nông dân, mà chủ yếu qua nhân vật Tràng có rất nhiều điểm khác biệt: Có lối thoát với kết thúc có hậu.

Với Tràng, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một người nông dân với những nét phẩm chất, tính cách, trí tuệ, tiếng nói tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam. Với Chí Phèo, Nam Cao đã xây dựng được một nhân vật tiêu biểu cho một tầng lớp của xã hội. Đặc biệt, thông qua hai nhân vật này, người đọc cảm nhận được tấm lòng nhân đạo cũng như sự nhìn nhận đa chiều để trân trọng vẻ đẹp con người của hai nhà văn.

(Bài làm của bạn Lâm Ngọc Tú,

THPT Lê Quý Đôn, TP Bà Rịa – Vũng Tàu)

Trên đây là nội dung chi tiết phần dàn ý và bài văn mẫu cảm nhận tâm trạng nhân vật Tràng liên hệ với Chí Phèo để thấy sự thành công của hai nhà văn trong nghệ thuật trình bày tâm lí nhân vật. hy vọng bài viết đã giúp những bạn định hướng đúng nội dung cho bài tìm hiểu, có những cơ sở luận điểm để trở nên bài văn hoàn chỉnh cho riêng minh. Chúc những bạn làm bài tốt và đạt điểm cao !

Văn mẫu 12 hay và lựa chọn lọc / Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

 

[Văn mẫu 12] Tổng hợp những bài văn hay cảm nhận về tâm trạng của nhân vật Tràng sau khi lấy Thị liên hệ với tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.

Bản quyền bài viết thuộc Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: https://cmm.edu.vn

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục

Related Posts