Cảm nhận về Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Tổng hợp những bài văn nêu cảm nhận hay nhất về bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát để những em có thể thấy được thái độ phản kháng của tác giả đối với trật tự xã hội tầm thường thời bấy giờ và cảnh báo sự thay đổi thế tất trong tương lai.
Đề bài
Bạn đang xem bài: Cảm nhận về bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Cao Bá Quát)
: Trình bày cảm nhận của em về bài thơ
Bài ca ngắn đi trên bãi cát
của Cao Bá Quát.
» Xem thêm: Dàn ý nêu cảm nhận về Bài ca ngắn đi trên bãi cát
Cùng Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung tham khảo những bài văn mẫu tuyển lựa chọn sau đây nhé!
Cảm nhận về bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát ngắn nhất
Cao Bá Quát đã từng viết: “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” – suốt cả đời ông chỉ cúi đầu trước vẻ đẹp thanh nhã, cao sang của hoa mai, chứ nhất quyết không cúi đầu trước cường quyền. sinh tiền vào buổi tao loạn, nhiễu nhương dù mang trong mình cái hùng tâm cống hiến cho đời nhưng ông phải chịu nhiều bất công. Nỗi oán ghét thực tiễn, phường lợi danh đã được ông thể hiện biết bao xúc động trong bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”.
Tác phẩm ra đời khi tác giả nhiều lần đi vào kinh đô Huế dự thi, phải băng qua những bãi cát dài, mênh mông không biết đích tới. Chính trong hoàn cảnh đó ông đã sáng tác “Sa hành đoản ca” thể hiện thái độ trước hiện thực đời sống và phương lợi danh tầm thường.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bãi cát dài nuối tiếp nhau tới tận chân trời và trên nền không gian rộng lớn ấy người lữ khách đang từng chút phấn đấu vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt:
Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Câu thơ không chỉ mang ý nghĩa tả thực về những bãi cát tiếp nối nhau và những bước chân nặng nề của người lữ khách trên tuyến đường đó. Bãi cát còn chính là hình ảnh biểu tượng về “lợi danh” – nó như một miếng mồi béo bở, níu kéo, hấp dẫn người lữ khách. Nên đi hay nên quay đầu lại? nghi vấn ấy cứ vang vọng trong tâm tưởng người lữ khách. Trong không gian ấy, người lữ khách không còn làm chủ, mà bị nuốt trọn, lọt thỏm giữa không gian mênh mông, vô tận. Họ bé nhỏ trong cái rộng lớn của vũ trụ, những bước đi ngày một kiệt quệ, mỏi mệt nhưng vẫn phải tiếp tục gắng gượng gạo: “Mặt trời đã lặn, chưa ngừng được/ Lữ khách trên phố nước mắt rơi”. Những giọt nước mắt nhọc nhằn, đắng cay, không thể ngừng lại, bởi vậy khi mặt trời đã xuống núi kẻ tìm công danh vẫn phải mải miết bước tiếp. Giọt nước mắt ấy còn thể hiện nỗi đau, sự bất lực, chán nản, bế tắc của người lữ khách. Liệu có tuyến đường nào khác cho ông và những chí sĩ như ông không? Rồi chính người lữ khách lại tự trả lời: “Không học được tiên ông phép ngủ/ Trèo non, lội suối, giận khôn vơi”. Phường lợi danh vẫn là một lực hút quá lớn với người lữ khách, làm sao đê thoát khỏi chúng, làm sao để có một tâm hồn thư thái, thanh tú như ông tiên để lánh xa lợi danh tầm thương. Vì sao mãi phải nhọc nhằn trèo đèo, lội suối khi biết rõ chúng là tầm thường, giả dối, bởi vậy lữ khách tự giận với chính mình.
Xưa nay phường lợi danh
Tất tả trên phố đời
Đầu gió men thơm quán rượu,
Người say vô số tỉnh bao người.
lợi danh cũng như một thứ tương đối men, tuy nhẹ mà ngấm sâu, khiến người ta khó lòng có thể tỉnh táo để nhận định phải trái, đúng sai. Bởi vậy, người nào đã lỡ vướng vào phường lợi danh thường khó có thể dứt ra, người say thì vô số, người tỉnh còn được mấy người nào. Không chỉ vậy, gắn với lợi danh con người ta sẽ mất đi sự thanh u trong tâm hồn, phải đua chen vất vả, phải tranh giành, hãm hại lẫn nhau để đảm bảo lợi ích cho bản thân.
Bảy dòng thơ cuối cùng là kết tinh tư tưởng, là ý chí quyết tâm từ bỏ lợi danh của tác giả: “Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!/ Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt/ Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít”. tuyến đường đời lắm ngả, người lữ khách không biết phải lựa chọn hướng nào, không biết phải đi về đâu, giữa bãi cát dài mênh mông người lữ khách mung lung, tự đặt nghi vấn cho chính mình “tính sao đây” khi đường bằng mờ mịt, không lối thoát, đường ghê sợ chập trùng bủa vây trước mắt. Đọc câu thơ của ông ta chợt nhớ về đúc kết của Lí Bạch: “Hành lộ nan, hành lộ nan/ Đa kì lộ, ki, an tại?”. Đây đều là những băn khoăn của bậc đại trí thức về tuyến đường công danh mờ mịt, nhiều gian truân trong xã hối rối ren, bất ổn.
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt
Bốn phía đều là nghiêm trọng bủa vây, đó là một không gian tù hãm, không lối thoát. Đó cũng chính là số phận của biết bao tri thức Nho học cuối mùa khi họ không tìm thấy đường đi cho mình, rẽ lối nào cũng là tăm tối, đường cùng. Còn với Cao Bá Quát ông dứt khoát hơn, mạnh mẽ hơn, thoát ra khỏi tuyến đường tăm tối, tìm cho mình lối đi riêng: “Anh đứng làm chi trên bãi cát?”. nghi vấn tu từ cuối bài vừa là lời khẳng định của tác giả về việc từ bỏ tuyến đường lợi danh tầm thường, vừa như một lời động viên, thúc giục với những người khác hãy vững tâm, tự tin bước ra khỏi tuyến đường đó, tìm cho bản thân một tuyến đường khác. Cũng chính bởi tư tưởng đó đã dẫn tới cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát vào năm 1854, mặc dù thất bại, mặc dù bị đàn áp nhưng đã thể hiện được tầm vóc tư tưởng lớn lao của một con người vĩ đại.
Với hình tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa, tác phẩm đã để lại cho mỗi người đọc những bài học ý nghĩa trong cuộc sống. Không chỉ vậy, với tác phẩm này Cao Bá Quát đã thể hiện nỗi chán ghét sâu sắc với hiện thực đời sống tầm thường, với chế độ phong kiến nhà Nguyễn thối nát. Đồng thời còn thể hiện tư tưởng, tư cách cao đẹp của ông trước “bả công danh” tầm thường.
Top 3 bài văn hay nêu cảm nhận về Bài ca ngắn đi trên bãi cát
Bài mẫu số 1
Trong nền văn học Việt Nam có những nhà văn để lại một khối lượng tác phẩm khổng lồ với nhiều thể loại phong phú nhưng cũng có những tác giả chỉ để lại rất ít tác phẩm tuy nhiên những tác phẩm ấy lại được đánh giá cao và giàu ý nghĩa. Tiêu biểu đó là bài thơ Sa hành đoản ca của Cao Bá Quát. Bài thơ mang đầy sự phản kháng và giàu ý nghĩa sâu xa. Có thể nói đó là những lời nói hay dòng tâm sự của Cao Bá Quát muốn thổ lộ.
Trước hết là hoàn cảnh sáng tác của bài thơ này. Cao Bá Quát thi đỗ cử nhân vào năm 1831, tại Hà Nội để thi tiến sĩ thì cần phải vào Huế. do vậy ông đã nhiều phen vào Huế để thi hội nhưng tiếc thay những lần đi ấy lại không mang được kết quả tốt đẹp cho ông. Mà đường đi từ Hà Nội vào Huế thì trải qua nhiều vấn đề đó là phải trải qua những bãi cát trắng mênh mông. Chính những bãi cát mênh mông ấy đã gợi ý cho nhà thơ sáng tác bài thơ này. Hình ảnh tuyến đường cùng trong bài thơ thể hiện sự bế tắc của chính ông khi trên phố đời nhiều sóng gió này. Và đặc biệt ta thấy được ở bài thơ sự bất bình của tác giả về chế độ khoa cử của nhà Nguyễn. Thêm nữa thời bấy giờ văn hóa phương Tây cũng nhập khẩu vào nước ta thế cho nên không thể tránh được việc so sánh hai nền giáo dục hai nơi và những người nho sĩ hay chính là Cao Bá Quát thấy bất bình trước nền giáo dục nước nhà.
Ta hãy cùng đi tìm hiểu về thể hành ca. Có thể thấy hành ca thuộc một thể thơ cổ thể, không có gò bó vào luật, vần gieo tương đối tự do. Đặc biệt bài thơ có những câu thơ dài tạo cảm giác phóng túng, lời thơ đa dạng không bị gò bó. nhịp độ nhanh gấp, khẩn trương và trôi chảy không bị ngưng trệ. Đó chính là thể hành ca.
Đi vào tìm hiểu bài thơ trùng trùng như một lời thuật nên sẽ không thể tìm hiểu như kết cấu thông thường. Những câu thơ nối liền nhau nói lên một hình tượng, một hình ảnh, một tâm trạng nên không thể chia kết cấu vì vậy cho nên ta sẽ đi theo những ý trên. Đó là hình tượng con người, hình ảnh bãi cát và tâm trạng của con người khi đi trên bãi cát đó.
Trước hết là hình ảnh con người và hình ảnh bãi cát trong bài thơ. Đó là hình ảnh bãi cát dài vô tận, mênh mông, mênh mông một màu vàng trắng. Tác giả một mình đi trên đó suy ngẫm về thế cục mình và từ đó hai hình ảnh làm nổi trội nhau lên thành những ý nghĩa biểu tượng:
“Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn, chưa ngừng được,
Lữ khách trên phố nước mắt rơi.
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!. ”
Hình ảnh bãi cát dài vô tận thể hiện qua sự so sánh của thi sĩ trong khi bước lại như lùi. Khi người ta đi về phía trước thì phải có một cái đích để nhìn thấy nhưng bãi cát mênh mông dài rộng quá, cứ mỗi bước đi của tác giả lại vẫn cứ nhìn thấy bãi cát đó mà thôi vì vậy cho nên bước mà như lùi. Trong lúc đó hình ảnh con người đơn độc một mình bước trên bãi cát khi mặt trời đã lặn vẫn cứ phải đi tiếp. Người khách bộ hành nước mắt tuôn rơi thể hiện sự gieo neo của tuyến đường ấy. tuyến đường bãi cát hay chính là tuyến đường thi cử của nhà thơ. Nó phần nào khái quát lên hình tượng quá trình đi tìm chân lý của thi sĩ trước dòng đời mờ mịt như buổi mặt trời lặn và nhiều sóng gió xa xôi như bãi cát kia. Nguyên nhân đi khó khăn tương tự không phải do đường đi khó khăn mà lòng người thêm nản mà do chính tâm trạng của tác giả. Giận vì không học được tiên ông phép ngủ để giờ trèo đèo, lội suối mà giận khôn nguôi. có nhẽ tác giả đang giận chính mình vì sao lại theo đuổi vòng lợi danh để bây giờ lựa chọn tuyến đường mịt mù khó khăn này.
Tiếp theo thi sĩ nói lên quy luật phổ biến lúc bây giờ khi con người đua nhau đi vào vòng lợi danh:
Xưa nay, phường lợi danh,
Tất tả trên phố đời.
Đầu gió tương đối men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?”
Phường lợi danh là thứ mà người nào cũng ngóng chờ và phấn đấu đạt tới trong xã hội ngày xưa nói riêng và xã hội ngày nay nói chung. sức hút của nó như tương đối men trong quán rượu kia, tác giả đặt ra nghi vấn say cả tỉnh được bao người, nghi vấn hay chính là câu khẳng định về quy luật con người tìm tới phường lợi danh. Đã dấn thân vào tuyến đường ấy thì phải chấp nhận bôn ba trên phố đời, tuyến đường ấy là vô cùng khó khăn và cách trở. Biết vậy nhưng có biết bao nhiêu người vẫn sống vì nó, làm mọi việc để đạt lấy nó, giống như nó là hạnh phúc của họ vậy. Hình ảnh bãi cát lại hiện lên. Điệp từ bãi cát thể hiện sự mênh mang quá sức khiến cho người đi trên bãi cát ấy ngao ngán nản lòng.
Thế rồi hình ảnh bãi cát tiếp tục hiện lên mênh mông cùng với đó là hình ảnh đường cùng đầy sức gợi và giàu ý đồ nghệ thuật của thi sĩ:
“Bãi cát, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.
Anh đứng làm chi trên bãi cát?”
Dẫu là đường phẳng nhưng mờ mịt nguy hiểm. Chính những tuyến đường cát phẳng ấy tưởng chừng yên bình phẳng lặng thế nhưng lại đầy dãy những nguy hiểm đang rình dập đợi vồ lấy con người đi trên nó. Hình ảnh tuyến đường cùng hiện lên đầy ý nghĩa. Nó thể hiện sự bế tắc của chính thi sĩ. tuyến đường không thể không đi trên nó dẫu biết rằng rất gieo neo và vất vả thế nhưng không tránh khỏi quy luật của xã hội. Những hình ảnh của núi non trùng điệp hiện lên như muốn nói tới sự khó khăn hiểm trở sóng gió trên tuyến đường đi tới lợi danh. Giữa muôn trùng núi non đường ghê sợ còn nhiều chứ không ít.
Cuối cùng ta đi tìm hiểu tâm trạng của tác giả khi viết bài thơ cũng như đi trên bãi cát kia. Đó là một tâm trạng buồn chán nản, chán không phải ngại đường đi khó khăn hiểm trở mà chán vì chính sách giáo dục thời bấy giờ không thích hợp chút nào:
“Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn, chưa ngừng được,
Lữ khách trên phố nước mắt rơi.
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!”
Đó là tâm trạng chán nản khi ghét phường lợi danh nhưng vẫn muốn lao theo nó để giờ trèo đèo lội suối vất vả và tuyến đường trước sẽ có bao nhiêu gieo neo nguy hiểm đang chờ phía trước. thi sĩ tự giận mình đã chúa ghét phường lợi danh mà vẫn lao theo như quy luật của xã hội. Biết rằng nó hấp dẫn như tương đối men, biết người say thì nhiều mà người tỉnh thì ít, chính thi sĩ cũng đang biết đang tỉnh nhưng lại không thể dứt ra được nên trở nên chán nản hoài nghi, giận chính mình. Câu thơ cuối bài để một nghi vấn bỏ ngỏ không trả lời “Anh đứng làm chi trên bãi cát?”, thi sĩ hỏi người nào, thi sĩ hỏi chính mình vì sao cứ đứng hoài trên bãi cát, biết rằng phường lợi danh làm cho ông ghét nhưng mà lại không thể đi trái với quy luật. Rồi đây những gieo neo khó khăn của hành trình ấy còn đang chờ thi sĩ trên những bãi cát dài vô tận kia. thi sĩ của chúng ta liệu rằng có kiên cường để tiếp tục bước chân lên những miền cát mênh mông ấy ?
tương tự, qua bài thơ ta thấy được hành trình thi cử đỗ đạt của thi sĩ vô cùng gieo neo và nguy hiểm. Trên bãi cát mênh mông ấy con người hiện lên nhỏ nhoi đơn lẻ. Bãi cát ấy càng đi càng như lùi, một bước đi mà như lùi một bước. tuyến đường lợi danh làm cho thi sĩ cảm thấy chán nản, chúa ghét và ông biết rằng sự hấp dẫn của nó làm cho nhiều người mê mẩn say thì nhiều mà tỉnh thì ít. Ngay cả tác giả cũng biết điều đó tức là mình nửa tỉnh nửa say thế nhưng vẫn đứng hoài làm chi trên bãi cát dài lại bãi cát dài ấy. Qua đây thi sĩ bộc lộ tâm trạng cùng những thái độ của mình về nền giáo dục nước nhà. Phải chăng ông đã góp cho nền văn học Việt Nam một bài thơ hay đồng thời là một ý kiến cho quốc gia về sự nghiệp khoa cử.
Cảm nhận về Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Bài mẫu số 2
Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, Mãn Hiên, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội). Là người nổi tiếng học giỏi, có tài văn thơ và viết chữ Hán rất đẹp nên Cao Bá Quát được người đời tôn vinh là thánh (Thần Siêu, thánh Quát). Khí phách, bản lĩnh và hoài bão lớn lao của ông vượt khỏi phạm vi chật hẹp của chế độ phong kiến.
Cao Bá Quát sống ở giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX, khi nhà Nguyễn đã xoá sổ Tây Sơn, thiết lập một chính quyền phong kiến chuyên chế khắc nghiệt, sưu cao thuế nặng, không coi trọng tầng lớp trí thức Bắc Hà. Đây là thời kì có rất nhiều cuộc nổi dậy của nông dân; trong đó có cuộc khởi nghĩa ở Sơn Tây mà Cao Bá Quát đã tham gia. Thơ văn của ông thể hiện thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, hủ lậu và phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trước nguy cơ bị xâm lược bởi vậy lực thực dân phương Tây. Có người nghĩ rằng hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân chính là bóng vía của Cao Bá Quát.
Bài ca ngắn đi trên bãi cát được sáng tác sau những lần Cao Bá Quát vào kinh đô Huế thi hội. Hình ảnh những bãi cát trắng chạy dọc những tỉnh miền Trung khiến tác giả liên tưởng và hình dung ra tuyến đường lợi danh nhọc nhằn đáng ghét mà ông buộc phải theo đuổi, cũng như sự ngột ngạt, bế tắc của xã hội đương thời. Một giả thiết khác là bài thơ ra đời khi Cao Bá Quát đã làm quan cho triều đình nhà Nguyễn, khởi đầu cảm thấy thất vọng về lí tưởng mà mình theo đuổi lâu nay nay và lặng thầm tìm kiếm một lí tưởng khác đúng đắn hơn.
Nội dung bài thơ phản ánh tình cảnh tù túng, không lối thoát của tầng lớp trí thức trong thời kì khủng hoảng của chế độ phong kiến. Đồng thời thể hiện niềm bi phẫn trước thực trạng xã hội, thái độ khinh bỉ phường lợi danh và khát khao của những kẻ sĩ chân chính muốn sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa.
Chủ đề bài thơ được tác giả thể hiện qua ba hình ảnh: bãi cát dài, tuyến đường đi trên bãi cát và người đi trên bãi cát.
Bài thơ vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh bãi cát dài mênh mông không có điểm ngừng, gợi ra một tuyến đường vô tận, mờ mịt: Bãi cát lại bãi cát dài; … Bãi cát dài, bãi cát dài ơi. Hình ảnh bãi cát dài có ý nghĩa nghệ thuật độc đáo vì nó mang tính sáng tạo, không vay mượn từ văn học Trung Quốc như nhiều hình tượng thơ khác mà được lấy từ hiện thực là những cồn cát trẳng hoang vu, rợn ngợp mà tác giả đã từng vượt qua nhiều lần trên tuyến đường vào kinh ứng thí. Dải đất miền Trung, đặc biệt là hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị bề ngang rất hẹp, phía Tây là dãy Trường Sơn, phía Đông là biển. Trước mắt người đi chỉ thấy cát, núi và sóng biển mà thôi.
Cùng với hình ảnh bãi cát dài là hình ảnh những tuyến đường: Đường bằng mờ mịt, Đường ghê sợ, đường cùng. Hai câu thơ: Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng, Phía nam núi Nam, sóng dào dạt vừa là hình ảnh thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng cho đường đời đầy gieo neo, thử thách.
Tác giả cảm nhận rằng tuyến đường vượt bãi cát dài có những nét tương đồng với tuyến đường công danh khoa cử nhọc nhằn, thất bại thì nhiều, thành công thì ít, nhưng đã nhỡ bước vào nên không biết tính sao đây?
Bản thân Cao Bá Quát đã nếm trải đủ mùi đắng cay của việc thi cử. Đi thi từ năm 13 tuổi (1822), tới lần thứ tư (1831) mới đậu cử nhân, lại bị đánh tụt xuống tận chót bảng. Sau đó ông còn long đong thêm ba lần thi Hội nữa mà vẫn không đỗ. Ngay khi bước chân lên tuyến đường lợi danh gắn với lí tưởng của tầng lớp Nho sĩ trong xã hội phong kiến, thi sĩ đã nhận thấy sự bế tắc và tranh chấp không khắc phục nổi. Nên đi tiếp hay ngừng lại ? ngừng lại cũng không thể được. Còn đi tiếp thì không biết sẽ dẫn tới đâu ?
Hình ảnh con người đì trên bãi cát dài thật nhỏ bé và vất vả;
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn, chưa ngừng được,
Lữ khách trên phố nước mất rơi.
Người đi đường có rất nhiều loại, mỗi loại mang một tâm trạng khác nhau. Vô số kẻ say vì men thơm quán rượu thoảng từ đầu gió. Phải chăng tương đối men thơm tượng trưng cho sự lôi cuốn, dẫn dụ gớm ghê của công danh?! Trước ma lực ấy, liệu mấy người còn giữ được sự tỉnh táo, sáng suốt?!
Không học được tiên ồng phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường lợi danh,
Tất tả trên phố đời.
Đầu gió tương đối men thơm quán rượu,
Người say vồ số, tĩnh bao người ?
Câu thơ thấm đẫm xúc cảm tự oán. thi sĩ chán nản vì nhìn thấy rằng mình đã tự hành tội thể xác bằng cách theo đuổi công danh. vì sao mình đã biết tuyến đường công danh là gieo neo, mờ mịt, là đường cùng mà vẫn phải cố từng bước, từng bước dấn thân, nhưng càng đi lại càng như thụt lùi. Theo điển tích về “phép ngủ” của tiên ông trong sách Thần tiên thập dị thì Hạ Hầu Ấn lúc leo núi hay lội nước vẫn cứ nhắm mắt nhắm mũi ngủ say. Người kế bên nghe thấy tiếng ngáy mà ông vẫn bước đều không hề trượt vấp. vì vậy nên thiên hạ mới gọi ông là tiên ngủ. Cao Bá Quát ước ao có được phép ngủ như tiên ông, sống mà không nhìn thấy, nghe thấy gì hết trong thế cục.
Những câu thơ tiếp theo phần nào giảng giải lí do vì sao người ta cứ phải trèo non, lội suối. Đó chính là do cái bả công danh cám dỗ. Những kẻ ham lợi danh xưa nay đều tất tả chạy ngược chạy xuôi, cũng giống như người đời thấy quán rượu ngon ở đâu là tranh nhau đổ xô tới, mấy người nào tỉnh táo để thoát khỏi sự cám dỗ của rượu. lợi danh cũng là một thứ rượu mê hoặc con người. Cao Bá Quát tỏ thái độ khinh rẻ phường lợi danh chi biết say sưa với bả vinh hoa phú quý và ông khởi đầu cảm thấy sẽ là vô nghĩa nếu như vẫn tiếp tục đi trên con đựờng ấy. Những câu thơ chất chứa tâm trạng day dứt, băn khoăn: nên đi tiếp hay từ bỏ ? Mà câu trả lời thì không dễ dàng gì. thi sĩ nhận rõ sự vô nghĩa của tuyến đường công danh khoa cử trong hoàn cảnh thực tiễn, nhưng nếu như đi tiếp thì sẽ phải đi thế nào đây?
Người đi trên bãi cát dài bỗng nhiên ngừng lại. Nỗi chán ngán, vô vọng choán đầy tâm hồn bởi vì: Đường bằng mờ mịt, Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít ? có nhẽ đã tới bước đường cùng? nếu như không đi tiếp thì đi đâu?! Tâm trạng bế tắc và vô vọng bao phủ lên cả người đi, cả bãi cát dài. giận dữ tới thế thì người đi chĩ còn cách là chứa lên tiếng hát buồn thảm về tuyến đường cùng của mình:
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát ?
Tâm trạng của tác giả khi đi trên bãi cát dài là nhận thức rõ tuyến đường lợi danh đầy nhọc nhằn hóc búa, cần phải thoát ra khỏi bãi cát thế cục ấy nhưng chưa thể tìm được một tuyến đường nào khác. Người đi trên bãi cát dài tự thấy sự vô nghĩa trong hành động của mình và ngao ngán tới tột cùng: Bãi cát dài bãi cát dài ơi. Tỉnh sao đây đường bằng mờ mịt… và tự hỏi: Anh đứng làm chi trên bãi cát đó là cái cảm giác bất lực, vô vọng, đành đứng chôn chân trôn bãi cát, chịu một khối tranh chấp lớn đè nặng lên tâm hồn. Hình tượng người lữ khách ấy vừa cô độc, vừa quả quyết lại vừa vô vọng trên tuyến đường đi tìm chân lí gian truân, mờ mịt. Tâm trạng phức tạp của nhân vật dự đoán một hành động bứt phá, một sự phản kháng lặng thầm với trật tự hiện hành. Tư tưởng tiến bộ của Cao Bá Quát thể hiện ở cho ông đã nhận rõ tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử và tuyến đường tiến thân theo lề lối cũ.
Trong bài thơ, tác giả đã đặt mình ở nhiều vị trí khác nhau để bộc lộ tâm trạng và hội thoại với chính mình. Cao Bá Quát sử dụng nhiều đại từ xưng hô khác nhau, Có khi ông sử dụng từ khách (khách là một danh từ đối lập với chủ), có khi lại sử dụng từ quân (anh, ông – đại từ nhân xưng thứ bậc hai số ít), có chỗ lại sử dụng từ ngã (tôi, ta – đại từ nhân xưng thứ bậc nhất số ít). Tuy nhiên, tất cả đều để chỉ bản thân tác giả. Khi gọi là khách, thi sĩ nhìn mình như nhìn một người khác. Khi gọi là anh, thi sĩ như hội thoại với mình. Khi xưng ta, tác giả muốn trực tiếp thổ lộ tâm sự. những cách xưng hô trên đều thể hiện thái độ trằn trọc, giận dữ của thi sĩ trên tuyến đường tạo lập công danh, sự nghiệp.
Vậy là hình tượng người đi trên bãi cát dài được tác giả thể hiện không đơn nhất mà đa chiều. Khi thì được mô tả như một khách thể, khi lại như một người hội thoại, khi lại như một chủ thể tự thể hiện. Thậm chí có khi tác giả cho chủ thể ẩn đi. Mục đích là nhằm đãi đằng những tâm trạng, thái độ khác nhau, trước những hoàn cảnh khác nhau.
Nội dung Bài ca ngắn đi trên bãi cát phần nào lí hương nguyên nhân vì sao Cao Bá Quát đã đứng về phía nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn.
Trước hết, bài thơ cho thấy thái độ chán ghét lợi danh và nhận thức đúng đắn của tác giả về sự bế tắc của lối học hành khoa cử theo kiểu cũ. Diễn biến tâm trạng của tác giả là từ băn khoăn, phân vân tới gay gắt tự hỏi: Anh đứng làm chi trên bãi cát.
Bài thơ là tâm sự chân tình của một kẻ sĩ có tầm tư tưởng lớn, ý thức rất rõ về sự trì trệ, bế tắc của thời đại. Đây cũng là cảm giác thất vọng của tác giả trước lí tưởng mà mình tôn thờ. Sự bế tắc, vô vọng trước đường cùng đã được đẩy tới đỉnh điểm.
Cao Bá Quát đã thể hiện những tranh chấp sâu sắc trong tư tưởng của bản thân và của xã hội đương thời một cách nghệ thuật. Đó là tranh chấp giữa khát vọng sống cao đẹp với hiện thực đen tối; giữa ý thức dám xả thân của một kẻ sĩ chân chính với thói cầu an hưởng lạc của người đời giữa lí tưởng phò vua giúp nước của một đấng nam nhi với những vấn đề gian khổ khó vượt qua trên tuyến đường tiến thân.
Bài ca còn thể hiện xúc cảm bi phẫn và giác quan nhạy bén của Cao Bá Quát về một thời đại đen tối, đầy nghịch cảnh đối với những bậc trí thức tài hoa; đồng thời đánh dấu sự thức tỉnh của một số kẻ sĩ trước tuyến đường công danh truyền thống. Phải chăng điều đó đã gợi cho chúng ta một suy nghĩ và nhận xét: xã hội phong kiến đương thời không thể dung nạp được lí tưởng của Cao Bá Quát. Con người ấy nhất định không chịu đứng chôn chân trên bãi cát mà đang nung nấu thái độ phản kháng lặng thầm nhưng quyết liệt với trật tự hiện hành. Cao Bá Quát đã nhận thấy cần phải làm một việc gì đó lớn lao hơn, có ích cho đời hơn. Đó cũng là lí do đưa ông tới với cuộc khởi nghĩa của nông dân, lựa chọn tuyến đường phản kháng chống lại triều đình nhà Nguyễn, để rồi cuối cùng phải chịu kết thúc bi thảm.
Bài thơ được viết theo thể hành, khá tự do về kết cấu, vần và nhịp độ. những câu thơ dài ngắn khác nhau (câu 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ), nhịp ngắt của mỗi câu thơ cũng đa dạng thích hợp với việc phản ánh tâm trạng phức tạp đầy băn khoăn, dạy dứt của người đi trên bãi cát dài (nhịp 2/3: Trường sa / phục trường sa; nhịp 3/5: Quân bất học / tiên gia mĩ thụy ông; nhịp 4/3: Phong tiền tửu quán / hữu mĩ tửu). Nhiều câu có ngữ điệu cảm thán: (Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng), ngữ điệu hỏi: (Trường sa, trường sa nại cừ hà? Quân hồ vi hồ sa thượng lập?).
nhịp độ của Bài ca ngắn đi trên cát là nhịp khấp khểnh, trúc trắc của những bước đi nặng nhọc trên bãi cát dài, trên tuyến đường công danh khoa cử gieo neo, vất vả và đáng chán. Đặc biệt, câu thơ cuối cùng là một nghi vấn day dứt và sợ hãi. Lời ca mang âm hưởng u buồn, ngầm chứa thái độ phản kháng của tác giả đối với trật tự xã hội hiện hành và cảnh báo sự thay đổi thế tất trong tương lai.
Văn mẫu đề tài tương tự: tìm hiểu bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát
Bài mẫu số 3:
Tư tưởng tự do, phóng khoáng trong Bài thơ ngắn đi trên bãi cát
Nửa đầu thế kỉ XIX, ở Việt Nam, Cao Bá Quát được ca tụng là con người đa tài: học giỏi, thơ hay, chữ đẹp. Người ta ngợi ca ông: “Văn như Siêu quát vô tiền hán”. Quả thực, thơ ca của ông mang đậm một phong cách tư tưởng tự do, phóng khoáng với bản lĩnh kiên cường trước cường quyền. “Sa hành đoản ca” – “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là một trong số những bài thơ thể hiện rất rõ tư tưởng phong cách của thi sĩ.
“Sa hành đoản ca” được viết trong lúc đi thi Hội – khi ông đang muốn đem tài năng của mình ra để thi thố, thực hiện chí hướng, hoài bão giúp đời cứu nước. Cũng có ý kiến nghĩ rằng bài thơ được làm trong thời gian thực tập ở bộ Lễ.
Bốn câu thơ đầu là hình ảnh bãi cát và người đi trên bãi cát:
“Trường sa phục trường sa,
Nhất bộ nhất hồi khước.
Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.”
Bài thơ mở ra với không gian và thời gian đặc biệt. Không gian “Trường sa phục trường sa” – “Bãi cát dài lại bãi cát dài”, mênh mông hoang vắng tới rợn ngợp. Thời gian về chiều, nắng tắt. Nắng tắt và gió khiến bãi cát mênh mông không để lại vết đường mòn, khiến người đi đường dễ mất phương hướng. Trên nền không gian thời gian đó có người đi đường “Đi một bước như lùi một bước”. Hình ảnh trung thực, giàu sức gợi tả. Cách ngắt nhịp 2-3 liên tục như vẽ ra bước đi đầy trầy trậy, trúc trắc. Mặt trời sắp lặn mà một ngày vẫn chưa đi hết quãng đường dài. Câu thơ gợi tả hình ảnh bãi cát mênh mông, vô tận, nóng bỏng, trắng xoá tới nhức mắt. Đó là hình ảnh thiên nhiên đẹp dữ dội, khắc nghiệt và cũng có thể hiểu bãi cát dài là tuyến đường phải vượt qua để vào kinh thi Hương hay cũng chính là tuyến đường công danh sự nghiệp mờ mịt phía trước. Người đi trên tuyến đường ấy tuôn rơi những giọt lệ. Đó là nước mắt của khổ cực, một cõi lòng đầy oán hận.
Sáu câu thơ tiếp theo là tâm sự của người đi đường:
“Quân bất học tiên gia mỹ thuỵ ông,
Đăng sơn thiệp thuỷ oán hà cùng.
kim cổ lợi danh nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung.
Phong tiền tửu quán hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu, tuý giả đồng.”
Tâm sự u uất của kẻ đi trên bãi cát dài bật ra với lời tự oán trách mình đầy chua chát “Không học được tiên ông phép ngủ”. Tác giả thấy giận mình vì không có khả năng như người xưa – không thể thờ ơ trước sự đời mà phải tự mình hành xác theo đuổi đường công danh. Cao Bá Quát bất hoà sâu sắc với thực tiễn cát bụi mờ mịt nhưng dứt khoát từ chối kiểu tiên ngủ. Đó là cái đáng nể trọng trong tư cách kẻ sĩ lạc loài đơn chiếc giữa thế cục bế tắc.
“Xưa nay hạng người lợi danh,
Vẫn tất tả ở ngoài đường sá.
(Hễ) quán rượu ở đầu gió có rượu ngon,
(Thì) người tỉnh thường ít mà người say vô số!”
Đối lập hình ảnh người đi đường là hình ảnh đông đảo phường lợi danh. Vì công danh, lợi danh mà con người phải bôn tẩu. Từ chuyện lợi danh, người đọc nhìn thấy trằn trọc của tác giả về chuyện công danh. Công danh tự khi nào bị biến tướng, có sức mê hoặc gớm ghê tới con người. lợi danh phải chi cũng chỉ là thứ rượu ngon dễ cám dỗ lòng người. Nó khiến con người say sưa tranh giành, thu giãn mà quên đi trách nhiệm với thế cục. Hai câu thơ tác giả tạo ra nhiều đối lập giữa số đông kẻ hám lợi tầm thường với một người đơn chiếc, lạc loài, lẻ loi trên tuyến đường cát bụi. Từ đó ta nhìn thấy sự đối lập giữa tác giả và phường chạy theo lợi danh khẳng định tư cách tự trọng của mình.
Trước những vấn đề trằn trọc, người đi đường rơi vào bế tắc.
“Trường sa, trường sa nại cự hà”
Tác giả đặt ra nghi vấn nên đi tiếp hay ngừng lại. Tâm trạng người đi đường đầy băn khoăn, day dứt và có phần bế tắc. Trong suy nghĩ người đi đường hiện lên những tranh chấp giữa khát vọng sống với hiện thực đen tối mờ mịt, khát vọng xông pha trên tuyến đường tìm lý tưởng với cần an, hưởng lạc, tranh chấp đó tạo nên những vấn đề trên tuyến đường thực hiện lí tưởng.
Người đi đường nhìn thấy mình không chỉ cô độc trên phố đời mà đi trên phố cùng.
“Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc núi muôn trùng,
Phía nam núi Nam sóng muôn đợt.
Anh còn đứng làm chi trên bãi cát?”
Nhìn mọi phía đều thấy mênh mông bát ngát, đường cùng mất rồi. Tiếp tục đi trên tuyến đường lợi danh, chắc chắn không bao giờ, quay trở về ẩn mình giữ trong sạch là điều không thể và không muốn. Người đi đường đành đứng chôn chân trên bãi cát. nghi vấn chính mình “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát?” diễn tả một khối tranh chấp lớn đè nặng tâm trí.
Bài ca thể hiện niềm thất vọng và bi phẫn của thi sĩ trước đường đời trắc trở, bế tắc và vô vọng, phản ánh giác quan của Cao Bá Quát về thời đại đen tối của những người trí thức tài hoa trên tuyến đường công danh truyền thống.
Tìm hiểu thêm tài liệu:
- Soạn bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát ngắn gọn và đầy đủ ý
Trên đây là tuyển lựa chọn văn mẫu cảm nhận về Bài ca ngắn đi trên bãi cát do Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung sưu tầm được, mong rằng với nội dung này sẽ giúp những em hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!
[Văn mẫu 11] Trình bày cảm nhận của em về Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát để hiểu rõ sự chán ghét sâu sắc của tác giả tới chế độ phong kiến nhà Nguyễn thối nát
Bản quyền bài viết thuộc Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://cmm.edu.vn
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục