Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn trong Hai đứa trẻ ngắn gọn, hay nhất bao gồm dàn ý chi tiết cùng 15 bài văn mẫu hay nhất sẽ giúp những em lớp 11 trau dồi vốn văn học, củng cố kỹ năng viết bài để hoàn thiện bài văn đạt kết quả cao trong những bài rà soát.
Đề bài: Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn trong Hai đứa trẻ
Bạn đang xem bài: Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn trong Hai đứa trẻ (7 Mẫu)
Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn được khắc họa trong tác phẩm thể hiện rất rõ phong cách, tài năng cũng như bức thông điệp nhân văn mà tác giả muốn truyền tải. Với 10 bài văn mẫu cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn sẽ giúp những em cảm nhận được bức tranh phố huyện buồn, vắng lặng cùng nhịp sống tẻ nhạt, vô vị của những người lao động nghèo nơi đây, từ đó thấy được tấm lòng thông cảm với số phận con người, sự trân trọng với ước mơ đổi đời của tác giả với người dân phố huyện.
Xem thêm:
Sơ đồ tư duy Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn
Dàn ý Cảm nhận bức tranh phố huyện lúc chiều tàn trong Hai đứa trẻ
Việc hiểu sơ đồ tư duy và lập dàn ý xoay quanh những ý chính sẽ giúp những em xây dựng bài cảm nhận bức tranh phố huyện lúc chiều tàn trong Hai đứa trẻ một cách hoàn thiện và đầy đủ ý nhất.
I. Mở bài
– Đôi nét về tác giả Thạch Lam và tác phẩm Hai đứa trẻ: Thạch Lam là một cây bút viết truyện ngắn tài hoa xuất sắc. Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của ông.
– Cảm nhận chung về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn: Đây là bức tranh thiên nhiên và cuộc sống giàu ý nghĩa
II. Thân bài
Bức tranh phố huyện vào thời khắc chiều tàn được vẽ nên bằng sự hòa phối giữa con người và cảnh vật, đó là quang cảnh ngày tàn, cảnh chợ tàn cùng những kiếp người nhỏ bé và đặc biệt nữa là tâm trạng của Liên trước thời khắc của ngày tàn:
1. quang cảnh ngày tàn
– Âm thanh:
- Tiếng trống thu không: Tiếng trống khép lại một buổi chiều quê lặng lẽ
- Tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng.
- Tiếng muỗi vo ve.
⇒ Âm thanh xuất hiện nhường nhịn như lại càng nhấn mạnh cho sự tĩnh lặng của buổi chiều tàn
– Hình ảnh, màu sắc:
- “Phương tây đỏ rực như lửa cháy”
- “Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”.
⇒ Màu sắc đẹp nhưng gợi lên một buổi chiều tàn lặng lẽ âm u
– Đường nét: dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời.
⇒ Bức hoạ đồng quê thân thuộc, bình dị, thơ mộng, gợi cảm, mang cốt cách Việt Nam.
– tiết điệu chậm, giàu hình ảnh và nhạc điệu
⇒ quang cảnh thiên nhiên đượm buồn, đồng thời thấy được sự cảm nhận tinh tế
2. Cảnh chợ tàn và những kiếp người nơi phố huyện
– Cảnh chợ tàn cộng hưởng với quang cảnh thiên nhiên ngày tàn
- Chợ đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất
- Chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía.
⇒ quang cảnh buồn, tàn tạ, trống vắng, quạnh hiu
– Con người:
- Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại ở chợ: nhường nhịn như gánh nặng thế cuộc cũng đè lên đôi vai chúng.
- Mẹ con chị Tí: với cái hàng nước đơn sơ, vắng khách.
- Bà cụ Thi: tương đối điên tới mua rượu lúc đêm tối rồi đi lần vào bóng tối.
- chưng Siêu với gánh hàng phở – một thứ quà xa xỉ.
- Gia đình chưng xẩm mù sống bằng lời ca tiếng đàn và lòng hảo tâm của khách qua đường.
⇒ Cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ: sự tàn lụi, sự nghèo đói, tiêu điều của phố huyện nghèo.
3. Tâm trạng của Liên trước thời khắc ngày tàn
– Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này” từ tâm hồn nhạy cảm
– Cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ: gợi cho Liên nỗi buồn thấm thía
– Động lòng thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng.
– Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu.
⇒ Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình.
⇒ Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn được Thạch Lam xây dựng trong tác phẩm mang vẻ trầm buồn hiu hắt của một vùng quê nghèo mà con người luôn quẩn quanh, tẻ nhạt nhưng đồng thời gửi gắm bao suy tư của tác giả về quê hương xứ sở.
III. Kết bài
– Đánh giá chung về những nét đặc sắc nghệ thuật làm nên thành công trong việc xây dựng bức tranh phố huyện lúc chiều tàn nói chung và toàn truyện ngắn nói riêng.
– Trình bày một vài cảm nhận tư nhân.
Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn – Mẫu 1
“Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, thương ôi, bước chẳng rời”
(Nhớ Đồng – Tố Hữu)
Trong những tháng ngày gông nô lệ đã đeo vào cổ, kiếp đọa đày đã định sẵn phần thì con người có muốn tìm được lẽ yêu đời cũng đâu phải dễ dàng. Có người mơ tiên, thoát tục, có người say hoa, say nguyệt, người lại trốn vào trong vỏ bọc của hạnh phúc ảo tưởng. Nhưng rồi có trốn tránh được đâu, có hạnh phúc được đâu khi ngoài kia là tiếng kêu thương của những kiếp người thống khổ, ngoài kia mới thực sự là đời. Mặc dù bén rễ từ dòng văn học lãng mạng, Thạch Lam lại vươn cành lá của mình chở che cho đời thực bằng tấm lòng thông cảm, yêu thương, trân trọng qua truyện ngắn Hai đứa trẻ. Với Thạch Lam tiểu thuyết không phải cứ là tiểu thuyết mà là những mảnh đời xấu số như chị em Liên, An và những số phận nhỏ bé ở cái phố huyện nghèo, là hiện thực xã hội đè nặng lên đôi vai con người.
Thạch Lam xuất thân là ngòi bút chủ lực trong Tự lực văn đoàn, thế nên văn học của ông ít nhiều mang tương đối hướng lãng mạn. Tuy vậy sự lãng mạn ấy không hề thoát ly, không khai sinh từ một toàn cầu khác mà mọc chồi ngay đời sống thực tế, tìm kiếm cái đẹp, cái dung dị đời thường. Không xây dựng một cốt truyện gay cấn, nhiều tình tiết, Thạch Lam hướng ngòi bút của mình tới đời sống nội tâm nhân vật với những xúc cảm nhẹ nhõm, sâu lắng, giàu chất thơ. Chính cái tình sâu xa gói gọn trong những trang văn giàu lòng trắc ẩn đã tạo một dấu ấn Thạch Lam khiêm nhượng, nhã nhặn mà rạng rỡ trong lòng người đọc.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn (1938) là hình ảnh tuổi thơ vất vả của chính nhà văn và người chị của mình. Trong những năm tháng khốn cùng khi cha mất sớm, mẹ tảo tần nuôi những con ăn học, Thạch Lam đã cùng chị trông coi một cửa tiệm bán hàng xén nho nhỏ kế bên ga xe lửa. Ở đây, nhà văn đã sống và tiếp xúc với những kiếp người bé mọn, trực tiếp cảm nhận cái xã hội thu nhỏ ao tù nước đọng và những phận đời quanh quẩn, cùng túng, bế tắc.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ kể về Liên và An, hai đứa bé từng sống những ngày sung túc ở Hà Nội phồn hoa. Nhưng rồi gia đình kiệt quệ nên phải về quê sống trong phố huyện nhỏ bé, mưu sinh bằng kinh doanh vụn vặt ở cái tiệm tạp hoá sắp ga tàu. Xung quanh hai đứa bé là những mảnh đời cũng héo hon, đáng thương như mẹ con chị Tí, vợ chồng chưng Xẩm, bà cụ Thi, gánh phở chưng Siêu…Tất cả những kiếp sống lay lắt, buồn tẻ chẳng khác nào bức tranh phố huyện nghèo. Vậy mà họ vẫn cố chờ đợi chuyến tàu đêm, một hoạt động cuối cùng của ngày như chút niềm yên ủi, như chờ đợi một niềm tin sáng sủa cho cuộc sống tăm tối hằng ngày. Hai đứa trẻ không người nào khác trong truyện chính là hai chị em Liên, An. Tuy nhiên nhan đề gợi ra không chỉ có Liên, An mà còn là những đứa trẻ xấu số, sống lay lắt trong cái ao tù mà chế độ nửa phong kiến thực dân gây ra. Nhan đề vang lên như lời thương cảm thực lòng của nhà văn dành cho những phận đời nhỏ nhoi, cô độc, sống tưởng chừng lạc loài trong một xã hội ngột ngạt. Nỗi trằn trọc về phận người và tình đời chi phối mạch truyện lắng sâu vào trong dòng tâm tưởng của nhân vật, hoà vào trong bức tranh phố huyện lúc chiều và tối.
Với một nhà văn thiên về nội tâm như Thạch Lam thì mỗi câu văn cũng thấm đẫm nỗi lòng, một nỗi lòng êm dịu đượm buồn như chính bức tranh phố huyện buổi chiều tàn và đằng sau ấy là cảnh sống tàn tạ của những thân phận con người. Buổi chiều tàn được báo hiệu bằng những âm thanh và cả hình ảnh nhưng cũng như tất cả những buổi chiều dễ gợi cho người ta nỗi buồn âm u. “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.” Tiếng trống thu không trỗi lên như một tín hiệu đặc biệt của bức tranh phố huyện. Tuy vậy âm thanh không đủ sức làm huyên náo cảnh vật mà nhường nhịn như nó chất chứa nỗi niềm con người nhiều hơn. Tiếng trống thu không “từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều” cũng là để gọi bao nỗi niềm xao xác của cuộc sống trở về. Thanh âm ấy như rời rạc, rệu rã chứ không vang động, hối thúc, cứ như việc vang lên mỗi chiều là việc phải làm.
nếu như ví tiếng trống thu không là nhịp thở của cuộc sống nơi phố huyện thì rõ đây là một nhịp thở nặng nề, khô khốc, chìm lấp trong bóng tối và không đủ sức gợi ra chút hăng say. Phải chăng khi đặt tiếng trống thu không đầu tác phẩm, Thạch Lam đã báo trước tương đối thở héo hon của những kiếp sống nơi này. Cả cái màu rực rỡ nhất của bức tranh là cảnh mặt trời lặn cũng dễ gieo vào lòng người nỗi mung lung khó tả của một ngày tàn. Bức họa đồng quê tiếp tục được vẽ bằng những nét rất dung dị, hiện thực, rất dễ tìm thấy ở bất cứ nơi nào “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng tương đối tối, muỗi đã khởi đầu vo ve”. Những sinh vật bé nhỏ này gợi vong hồn của một buổi chiều heo hắt, âm thanh của nó gây cho lòng người u sầu cứ như bản thân nó mang nỗi buồn của đồng quê nhỏ bé.
Câu văn chậm rãi, súc tích, không cầu kỳ, bóng bẩy nhưng lại giàu chất thơ và nhạc đã vô hình chung gieo vào lòng người một nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn “chiều, chiều rồi”. Chỉ cần một cảnh chiều đã đủ gợi những dự cảm bất an về số kiếp con người đang ẩn đằng sau bức tranh kia, những con người có tương lai vô định cũng mù mịt tối tăm như chính buổi chiều ấy vậy.
Thạch Lam đưa ngòi bút trình bày cảnh chợ vãn thông qua cái nhìn đầy thương cảm của nhân vật Liên: “Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, tương đối nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi thân thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Buổi chợ được xem là nơi đông đúc nhất, sôi động nhất với kẻ mua người bán, vậy mà cảnh chợ tàn nơi phố huyện này còn lại chỉ là tàn tích của một cuộc sống lam lũ, thiếu thốn “mấy đứa trẻ con nhà nghèo…đi lại nhặt nhạnh bất cứ cái gì đó có thể sử dụng được..” Thời gian và không gian nghệ thuật khéo phối hợp làm nền cho một bức tranh phố huyện tiêu điều, xơ xác. Nơi ấy chính là nơi sống của những con người vô vọng, những đứa bé lớn lên mà không biết tương lai ra sao, ngày mai thế nào. Những thứ tưởng chừng bỏ đi như rác rưởi, vỏ thị..mà lại tranh nhau nhặt, cái đói cái nghèo đã hiển hiện ra nét mặt của từng đứa trẻ, ẩn đằng sau là sự bám víu đời sống dằng dai, bám víu vào cả những thứ tưởng chừng đã bỏ đi.
Bức tranh thiên nhiên buổi chiều tàn nơi phố huyện đã cho thấy nghệ thuật tả cảnh tự nhiên, giàu chất nhạc, chất thơ và sự thấu hiểu tâm lý nhân vật ở nhà văn. Cảnh chiều tàn nơi phố huyện vừa có chút gì êm ái, mộng mơ nhưng vẫn thoang thoảng nỗi buồn mơ hồ. Cảnh và đời hòa quyện vào nhau tạo thành bức tranh: ngày tàn, chợ tan, những kiếp người tàn tạ.
Truyện ngắn được viết theo sự đi lại của thời gian từ chiều tàn tới nửa đêm, cảnh phố huyện cũng chuyển mình trong tâm trạng buồn tẻ của những thân phận mỗi lúc hiện ra trong cảnh túng cùng, bế tắc. Chút ánh sáng của buổi hoàng hôn đã tắt lịm, bóng tối được dịp ngông nghênh choáng ngợp khắp phố huyện. “Đường phố và những ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. những nhà đã đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh sáng…Tối hết cả, tuyến đường thăm thẳm ra sông, tuyến đường qua chợ về nhà, những ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa…Trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối…”
Có thể nói cảnh phố huyện được đặc tả bởi bóng tối, thứ bóng tối ngự trị khắp mọi nơi. Tối từ tiếng trống thu không tới lũy tre làng. Tối tuyến đường tối cả mọi hang cùng ngõ hẹp. Mỗi lúc bóng tối như dày đặc hơn, đen kịt lại tranh giành cả khoảng không để thở của con người. Bóng tối khiến cuộc sống tù túng nơi này thành ra ngột ngạt, không lối thoát. Thạch Lam đã mượn bóng tối, nói nhiều về bóng tối để bóng tối không còn trong phạm vi của tự nhiên mà trở thành nhân vật có vong hồn, có suy nghĩ và sự sống. vong hồn, suy nghĩ, sự sống của nó chính là khoảng trống vô thức và cả ý thức mà con người nhìn thấy ở chính mình. Vì lòng không ánh sáng, không nhiều hy vọng nên nhìn thấy đâu đâu cũng chỉ toàn là bóng tối.
Trong bức tranh phố huyện về đêm đâu chỉ có bóng tối mà vẫn có chút ánh sáng. Tuy nhiên sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối trong truyện ngắn của Thạch Lam là cuộc đụng độ không tương hợp. trong khi bóng tối càng bao trùm thì ánh sáng càng trở nên le lói, yếu ớt. Ánh sáng từ cửa nhà người nào chỉ để hé ra một “khe ánh sáng” hay “vệt sáng của những con đom đóm”, “quầng sáng” thân tình chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí. Bóng tối thì rộng lớn, bao trùm cả chiếc áo khổng lồ còn ánh sáng lại được tính bằng những đơn vị ít ỏi, hoạ hoằn tưởng chừng chỉ cần một ngọn gió thổi qua là có thể làm cho tan biến. Nhìn ngọn đèn đáng thương của chị em Liên, An trong cửa hàng như một sự đong đếm vừa vặn đầu ngón tay “từng hột sáng lọt qua phên nứa”. Nhiều nhất cũng chỉ là “chiếu sáng một vùng cát” của bếp lửa chưng Siêu toả ra, vậy cũng đã là một món xa xỉ với đời thường. Mượn ánh sáng để nói bóng tối, không gì có thể gợi hình hơn trong khi chúng ta trông thấy ánh sáng càng yếu ớt, càng nhạt nhoà thì chứng tỏ bóng tối càng sâu thẳm. Thủ pháp nghệ thuật này đã từng được Nguyễn Khuyến sử dụng trong bài thơ Thu ẩm: “Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe”. Chút ánh sáng góp nhặt không đủ đánh lùi bóng tối mà chỉ khiến cho bóng tối càng cô đặc, càng như vô tận.
Bóng tối và ánh sáng trong truyện ngắn là dụng ý nghệ thuật nên đều mang ý nghĩa biểu tượng. Bóng tối chính là tương đối thở của cuộc sống nghèo nàn, túng quẫn không lối thoát nơi bức tranh phố huyện. Ấy cũng là một xã hội thu nhỏ trước cách mệnh, trong khi con người chịu chung cảnh nô lệ thì đời sống của người lao động nghèo thấp cổ, bé họng lại càng chìm trong lầm than, cơ hàn. Cái ao đời phẳng lặng kia như Huy Cận đã từng nói: “Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu, vì quá thân nên quá đỗi buồn cười, môi nhắc lại cũng ngần ấy chuyện”. Bóng tối làm nền để ánh sáng xuất hiện. tới lượt mình, ánh sáng tượng trưng cho những phận đời nhỏ bé, lay lắt, sống trong nỗi thống tội nghiệp phận phải mòn mỏi chờ đợi những điều vô vọng. Dẫu không thể thắng được bóng tối nhưng ánh sáng chỉ cần le lói cũng đáng quý.
Hoà lẫn vào trong nền bóng tối dày đặc ấy chính là những kiếp người hẩm hiu, người nào nấy cũng chật vật tìm chút hy vọng để tiếp tục sống. Mẹ con chị Tí dọn hàng, một hàng nước đơn sơ vắng khách. kinh doanh chẳng được bao nhiêu nhưng ngày nào chị cũng siêng năng dọn hàng và chờ đợi bởi vì cũng chẳng còn công việc gì mà lựa chọn lựa trong cái thời buổi ấy. Gia đình chưng Xẩm gợi cho người đọc nhiều suy tư về số phận của con người và nghệ thuật trong bối cảnh âm u trước cách mệnh. chưng Xẩm, một người nghệ nhân hát dân ca Trù với tiếng độc huyền độc đáo mà lại rơi vào cảnh nghèo xơ xác, phải hát rong sống qua ngày. trị giá của nghệ thuật chẳng còn giữ được mình khi đứng trước cái đói, cái khổ. Tâm hồn con người cũng héo hon, bào mòn chẳng còn lòng dạ để thưởng thức cái hay.
Số phận những con người nhỏ bé nơi phố huyện quy tụ lại trong cái dáng “lảo đảo” và tiếng cười “khánh khách” của bà cụ Thi say rượu. Cái tù túng, ngột ngạt của phố huyện tưởng chừng phẳng lặng kia dễ khiến người ta hoá điên chẳng biết nên cười hay nên khóc. xúc cảm và điệu bộ của bà cụ Thi có khác đời cũng vì đời mà ra. Cái điên của bà và cái say của bà là biểu hiện cho sự bế tắc, chán ngán tới tột cùng. Phải chăng chính cuộc sống quá đỗi âm u đã đẩy con người ta triền miên trong những nỗi buồn. Muốn dứt khỏi cái buồn thì chỉ có rượu và điên dù hai thứ ấy đều không phải là giải pháp.
Trong những số phận ấy, có nhẽ hai chị em Liên, An khá hơn một tí khi có được một cửa hiệu be bé bán vài thứ vụn vặt. Tuy nhiên dấu vết của cái nghèo vẫn không chừa một người nào. Hai chị em bị cơm áo trói buộc vào cửa tiệm để rồi không thể tìm chút niềm vui với những đứa trẻ vô tư bên ngoài. Cả tuổi thơ bị mài mòn vì chẳng dám mơ tới một bát phở hiện tại chỉ có thể luyến tiếc những tháng ngày đầm ấm ở quá khứ. Nỗi hụt hẫng cùng bao thèm khát nhỏ nhoi đã khiến chị em Liên trở nên trưởng thành hơn ở tuổi đời còn quá bé. Nhất là chị Liên, một cô bé đảm đang, hiểu chuyện lại có đôi mắt nhạy cảm ẩn chứa nội tâm sâu sắc. có nhẽ đời sống nội tâm phong phú và tấm lòng biết yêu thương của Liên đã tạo nên chất thơ cho câu chuyện và cũng đặt ra vấn đề rất nhân văn. Tuổi thơ và những nỗi buồn không tên như tương đối nước bám vào cánh chuồn mỏng manh để từ đây tâm hồn những đứa trẻ buộc phải vững chãi hơn để vượt qua giông bão.
Đâu chỉ những người nghèo mọn như chị Tí, vợ chồng chưng Xẩm, cụ Thi..cả chưng Siêu, người có gánh phở xa xỉ cũng bán lẻ ế ẩm. người thân cụ thừa, cụ lục có tiền đánh tổ tôm cũng chỉ quẩn quanh, đơn điệu. Từng ấy người chôn chặt thế cuộc mình trong cái phố huyện chật hẹp. Họ chẳng biết đi đâu, làm gì khác vì ra khỏi sự chật hẹp này cũng chỉ là sự tù túng khác mà thôi. Hết cảnh chiều tàn đượm buồn rồi lại tới đêm tối thăm thẳm. Dù ánh sáng có len lỏi đâu đó nhưng tới cuối thì trong bức tranh chỉ còn lại những phận đời tàn tạ héo mòn. Lũ trẻ vẫn phải nhặt rác lúc tàn buổi chợ; gánh phở chưng Siêu vẫn lại kĩu kịt bước đi chỉ còn chấm nhỏ trong đêm; gia đình chưng Xẩm vẫn cố nán lại trên manh chiếu rách; mẹ con chị Tí cứ dọn hàng ra rồi lại dọn vào; bà cụ Thi thì cứ say và điên rồi cười khanh khách. Thương nhất vẫn là chị em Liên. Hai đứa trẻ thơ ngây để bóng mình lần vào nỗi buồn trên chiếc chõng tre đã cũ. Họ tuy có khác nhau về hoàn cảnh, có tương đối thở nhưng lại giống nhiều hơn cái bóng vật vờ. Cái bóng mà đêm tối đã tạo nên vô tận, thẳm sâu.
Bằng chất văn nhẹ nhõm như thơ, Thạch Lam đã khắc sâu vào trong lòng người những ấn tượng sâu đậm về bức tranh phố huyện trong buổi chiều tàn và đêm tối. Thủ pháp đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái ngột ngạt của phố huyện và những khát khao bé nhỏ của con người đã đem tới những tầng nghĩa cho tác phẩm. Một bức tranh bằng tiếng nói được vẽ ra trong trí tưởng tượng cả độc giả và cả trong trái tim rung động vì tình đời, tình người, biết yêu thương, thấu hiểu túc trực trong mỗi con người. Truyện mà không như truyện, chỉ có Thạch Lam, chỉ có tấm lòng khắc khoải của ông hướng về thế cuộc mới làm nên trị giá lâu bền của Hai đứa trẻ và dựng lên một quang cảnh phố huyện tiêu điều, lay động lòng người tới lạ.
Lời gửi của nghệ thuật là sự sống, lời gửi từ bức tranh phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ cũng là sự sống. Những sự sống vật vờ, lây lất xung quanh chúng ta mỗi ngày cần được san sẻ, được sự trợ giúp. Sức mạnh của tình thương mới là ánh sáng bất diệt nhất để xua tan cái đêm trường u ám. Đứng trước niềm hy vọng được sống, bóng tối sẽ hoàn toàn ngả mũ đầu hàng.
Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn – Mẫu 2
Thạch Lam là một nhà văn trưởng thành trong nhóm Tự lực văn đoàn với một phong cách sáng tác riêng biệt không giống với bất cứ nhà văn nào. Những trang văn của ông nhẹ nhõm nhưng lại sâu sắc, man mác và dìu dặt. Đó là những lời tâm tình thủ thỉ nhưng để lại những sự sợ hãi với người đọc. Những câu chuyện ông kể thường không có cốt truyện, mọi thứ được viết một cách tự nhiên nhất với chất liệu nhẹ nhõm và sâu lắng. “Hai đứa trẻ” là một tác phẩm tương tự của ông. Truyện ngắn này đã vẽ nên một bức tranh phố huyện nghèo với những mảnh đời nghèo túng, khốn cùng trong xã hội.
Thạch Lam luôn khiến cho người đọc trông thấy được sự tinh tế trong tâm hồn lẫn từng câu văn của ông. Sự nhẹ nhõm ấy đã tạo nên nét riêng trong văn của ông. “Hai đứa trẻ” là một câu chuyện xoay quanh cuộc sống của An và Liên tại nơi phố huyện nghèo cùng với những công việc lặp đi lặp lại hằng ngày. Thông qua hai nhân vật này, tác giả cũng muốn gửi gắm tới người đọc những thông điệp về cuộc sống, về khó khăn mà con người phải trải qua. Chất liệu làm nền cho câu chuyện này chính là quang cảnh của phố huyện nghèo luôn chập chờn, ẩn hiện trong mỗi trang viết. có nhẽ chính bức tranh ấy đã gợi lên những cảm hứng để tác giả bộc bạch xúc cảm của mình.
quang cảnh phố huyện nghèo hiện lên từ câu văn trước tiên “Tiếng trống thu không trên cái chợ huyện nhỏ, từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều…” Một tiếng trống vang lên trong một buổi chiều sắp tàn, có nhẽ cảnh vật và con người đang đắm chìm vào trong trạng thái lơ đãng. vì sao tác giả lại lựa chọn lựa một buổi chiều mùa thu để vẽ lên bức tranh phố huyện ấy? có nhẽ bởi mùa thu luôn gợi nên những xúc cảm buồn, gợi nhớ, gợi nhiều xúc cảm nhất. Hình ảnh hai đứa trẻ xuất hiện với những công việc thường nhật “thắp đèn” rồi “đóng quán” và ngắm nhìn đoàn tàu chạy từ Hà Nội trở về, vụt sáng lên và rồi rơi vào những hụt hẫng.
Hình ảnh của phố huyện buổi chiều tàn ấy được tác giả trình bày trung thực bởi những chi tiết: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, tương đối nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi thân thuộc quá khiến cho chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hoá, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu”. Đó chính là quang cảnh của khu phố nghèo lúc ngày tàn, một sự héo úa, tàn phai và cả những sự tiêu điều, hiu quạnh đã hiện lên trước mắt người đọc. có nhẽ đây cũng chính là hiện thực thời bấy giờ ở miền Bắc nước ta. Mọi thứ chông chênh, không có điểm nhấn, không có sức hút và nhường nhịn như chẳng có sự sống. Tất cả chỉ là những điều bình dị, sắp gũi phảng phất sự nghèo đói.
Những câu văn mềm mại, nhẹ nhõm ấy diễn tả một không gian quạnh quẽ, vắng lặng ở nơi phố huyện nghèo. Trên cái nền u ám đó xuất hiện lên bóng vía của những đứa trẻ nghèo “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lum khum trên mặt đất lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh trem hay bất cứ cái gì có thể sử dụng được.Liên động lòng nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng”. Một bức tranh đã âm u lại càng âm u hơn khi có những con người nghèo khổ xuất hiện, nhường nhịn như đã nhân đôi sự tiêu điều, buồn tẻ nơi mảnh đất này.
Trong bức tranh làng quê nghèo ấy vẫn còn rất nhiều những số phận khác, tất cả đã tạo nên một sự hỗn độn của nơi phố huyện buổi chiều tàn. Đó là hành ảnh của mẹ con chị Tí dọn hàng nhưng “chả kiếm được bao nhiêu”. Hay chính là hình ảnh của hai chị em Liên khi chuyển về nơi phố huyện nghèo này, hai chị em bán hàng tạo điều kiện cho mẹ trên một gian hàng bé thuê lại của người khác, một tấm phên nứa dán giấy nhật trình. Những con người ấy lẳng lặng nhìn cái nghèo, cái đó diễn ra trước mắt nhưng cũng không thể làm gì được. Xen lẫn những con người đói khổ vật chất ấy lại có hình ảnh bà cụ Thi bị điên vẫn thường hay tới mua rượu ở cửa hàng nhà Liên. Hình ảnh bà cụ Thi “ngửa cổ uống một tương đối sạch, đặt ba xu vào tay Liên và lảo đảo bước đi” khiến cho người đọc không khỏi động lòng về một kiếp người, một đời người vật vờ, không bến đỗ.
Giữa chốn phố huyện này nhường nhịn như người nào cũng ngóng trông một chuyến tàu từ Hà Nội chạy về đây mang theo sự ồn ào, huyên náo và tấp nập hơn nữa. có nhẽ chuyến tàu có ý nghĩa vô cùng lớn với những mảnh đời nơi đây. Bởi “con tàu như đã đem một tí toàn cầu khác đi qua”. Đó có thể là toàn cầu có sự phồn hoa ngày xưa của chị em Liên. Chuyến tàu ấy có nhẽ chính là ước mơ, là khát vọng được vươn ra ánh sáng của những ocn người tại nơi phố huyện nghèo này.
Thông qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, nhà văn đã lặng lẽ đưa vào một môi trường sống của vùng quê phố huyện nghèo trước cách mệnh tháng Tám. Từ môi trường sống này nhà văn đã gợi cho người đọc liên tưởng tới cảnh sống nghèo đói quẩn quanh, bế tắc của những người dân quê “trong cái giời tối đất của đồng lúa ngày xưa”. Qua quang cảnh buổi chiều tàn nơi phố huyện ấy, nhà văn Thạch Lam đã làm nổi trội lên những tâm hồn lạc quan, khát khao hạnh phúc dù hiện thực cuộc sống đói khổ. Tác phẩm đã làm sống lại những tình cảm nhỏ bé nhất trong lòng người đọc yêu văn Thạch Lam.
Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn – Mẫu 3
Trong giai đoạn văn học trước cách mệnh tháng Tám. Thạch Lam là một cây bút xuất sắc đa tài năng. Truyện ngắn Hai đứa trẻ rút trong tập Nắng trong vườn (1938) là một tác phẩm tiêu biểu của ông. Với cách viết giàu chất lãng mạn, truyện như một bài thơ trữ tình đượm buồn nhưng đầy cá tính nhân văn.
Trong mỗi tác phẩm truyện kể, ngoài yếu tố nhân vật còn phải kể tới một yếu tố khác, đó là hoàn cảnh. Xây dựng hoàn cảnh, tác giả nhằm xác lập mối quan hệ giữa nhân vật và môi trường xã hội mà nhân vật đó đang sống. Sự tác thành giữa hoàn cảnh và nhân vật sẽ tạo nên chất keo kết dính những chi tiết và nhờ vậy nội dung tác phẩm trở nên liền mạch, nghệ thuật của tác phẩm đó sẽ hoàn chỉnh hơn. Đó là một trong những yêu cầu bắt buộc không chỉ của văn học hiện thực (hoàn cảnh sinh tính cách).
Nhà văn Thạch Lam mở đầu truyện ngắn Hai đứa trẻ bằng những hình ảnh vào thời khắc của một ngày sắp tàn. Vào thời khắc đó cảnh vật của phố huyện nghèo hiện ra xơ xác, tiêu điều, với những con người mỏi mệt quẩn quanh nơi phố chợ. Cùng xuất hiện với những gì tàn tạ nhất ở phố huyện đó là nhân vật Liên và An. Qua cái cảm nhận của hai tâm hồn thơ ngây ấy, mọi cảnh vật được hiện lên một cách chi tiết và trung thực nhất.
Nhưng trước hết, cái cảnh chiều tàn nhưng vẫn được nhà văn trình bày đậm chất thơ. “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời… Một chiều êm đềm như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào…”.
Bức tranh ấy tuy đẹp nhưng ẩn ở trong đó cả một nỗi buồn mà người vẽ lên đã cố ý che lấp bằng những mảng màu sặc sỡ. Sở dĩ phải trình bày cảnh vật ấy. Thạch Lam như muốn giúp người ta đi tìm chút cảm giác nhẹ nhõm sau những trằn trọc của thế cuộc. Văn Thạch Lam bao giờ cũng giàu xúc cảm để rồi khiến người đọc như chìm vào cõi mộng của một bài thơ tình lãng mạn. Từng câu chữ cứ nhè nhẹ lan thấm vào lòng người trong cảm giác say mê. Có người thụ hưởng xét văn Thạch Lam vừa chứa chất hiện thực vừa giàu tính lãng mạn. Ý kiến đó rất thích hợp khi nói về truyện ngắn Hai đứa trẻ, bởi vì trong truyện ngắn này hiện thực của cuộc sống tủi buồn, mòn mỏi luôn vây hãm lấy những con người sống chung trong phố huyện, ở đây gọi là phố huyện nhưng thực chất mới chỉ là cái chợ xép nhỏ. “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cùng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, tương đối nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi thân thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất của quê hương này…”.
Chỉ cần nhìn vào cái chợ tiêu điều này cũng có thể thấy cuộc sống của người dân khổ cực thế nào? những người bán hàng về muộn đứng nói chuyện với nhau ít câu như thể trao lại cho nhau những nỗi buồn tẻ cuộc sống, ống kính tác giả không quên ghi lấy hình ảnh những đứa trẻ con nhà nghèo, đang mưu kế sinh nhai bằng những truất phế phẩm của phiên chợ. Những số phận ấy “cúi lum khum trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay hất cứ cái gì có thể sử dụng được của những người bán hàng để lại”. Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó. Đây là hiện thân đầy đủ nhất của sự khốn khổ. Sự nỗ lực thì đã quá sức, còn hy vọng thì vẫn mơ tưởng. Ở truyện ngắn này, những nhân vật đều đang tìm cách cầm cự trong cuộc sống hiện tại. Chị Tí với hàng nước bên cái móc gạch nhưng không biết bán cho người nào.
Khá hơn đôi chút là hàng chưng phở Siêu, nhưng đó cũng chỉ hé lên một mảng ánh sáng đèn dầu leo lét. vậy mà với cuộc sống ở phố huyện nghèo này thì hàng của chưng vẫn là một thứ “xa xỉ”.
Cảnh của phố huyện thật là tiêu điều xơ xác. Cuộc sống của những con người ở đó thì mòn mỏi, nặng nề. Mọi hoạt động như để chống chọi lại với sự nghèo nàn khốn khó nhưng tất cả chỉ lâm vào bế tắc. Hoàn cảnh đó thường sản sinh ra những con người quái đản, đó là bà cụ Thi “tương đối điên”, với tiếng cười khanh khách đi vào bóng đêm. Cụ Thi điên là chứng tích của sự sa sút về cuộc sống, một biểu hiện tiêu biểu cho quá trình tìm tòi lối thoát trong vô vọng. Sự xuất hiện của nhân vật cụ Thi “tương đối điên” càng làm cho nhân vật truyện ngắn Hai đứa trẻ thêm cụ thể, sinh động, tạo cho bức tranh cuộc sống trở nên ngột ngạt.
Cảnh chiều tàn nơi phố huyện nghèo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ là một góc thu nhỏ của xã hội cũ. Ở đó những số phận con người được hiện lên rõ ràng nhất. Tất cả tập hợp lại trong một không gian chật hẹp và tăm tối.
Thông qua phần đầu của truyện, nhà văn Thạch Lam đã tái tạo lại bối cảnh cuộc sống của những năm trước cách mệnh tháng Tám. Bằng việc phác họa cảnh phố huyện ngày tàn, truyện ngắn Hai đứa trẻ đã chứng tỏ nhà văn tinh thông sâu sắc cuộc sống tù túng của người nông dân lao động đồng thời lên tiếng bảo vệ quyền sống và sự công bằng cho xã hội thời bấy giờ.
Với văn pháp tả cảnh đạt tới chuẩn mực truyện mang âm hưởng của một bài thơ trữ trình nhưng gợi xúc cảm buồn man mác. Nghệ thuật trình bày cộng với niềm cảm hứng lãng mạn được tác giả sử dụng đã đưa truyện ngắn này xứng đáng với những tác phẩm xuất sắc cùng thời.
Đáng quý là trong cái cảnh chiều tàn ấy, tình cảm con người vẫn còn chưa tàn tạ. Dù không khấm khá hơn, nhưng Liên vẫn mong có tiền để đưa cho những đứa trẻ lam lũ đang tìm kiếm những vật rơi rớt lại sau phiên chợ tiêu điều. Liên không chỉ thương mình và An mà còn hướng tới cả bao số phận khốn cùng khác. Tất cả những con người trong phố huyện này, từ mẹ con chị Tí, ngày nào cũng như ngày nào quẩn quanh với những công việc chẳng có gì khác là ban ngày đi bắt tép, tối về dọn quán bán nước cho mấy chú lính tuần, cho tới hàng phở Siêu leo lét ngọn đèn dầu, bà cụ Thi “hai điên” với tiếng cười khanh khách… Tất cả chỉ nói lên cái mòn mỏi của cuộc sống nơi phố huyện mà chưa phải là những gì tha hóa, khiến con người phải độc ác.
Thạch Lam không phải là nhà văn hiện thực phê phán như Nam Cao hay Ngô Tất Tố, nên ngòi bút của ông không khai thác cái trần truồng của thế cuộc lam lũ. Mặc tuy vậy, trong cái bài thơ rất đỗi tinh tế là truyện ngắn Hai đứa trẻ này, Thạch Lam đã gián tiếp phản ánh và tố cáo cái xã hội ngột thở, tù đọng, trong đó, cuộc sống con người đang mất hết ý nghĩa, đang bị dồn tới chân tường bế tắc. Và từ thực tế ấy, tác giả đã chuẩn bị cho đoạn tiếp theo trình bày cái khát vọng được đi xa, mơ hồ, kín đáo trong hình ảnh chuyến tàu đêm với tâm trạng phấn chấn của hai đứa trẻ.
Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn – Mẫu 4
Thạch Lam là cây bút trưởng thành trong nhóm Tự lực văn đoàn với phong cách sáng tác không thể lộn lạo với bất cứ nhà văn nào. Những trang viết của ông nhẹ nhõm, sâu lắng, man mác và dìu dặt. Đó như là những lời tâm tình thủ thỉ nhưng lại có sức sợ hãi đối với người đọc. Những câu chuyện ông kể thường không có cốt truyện, mọi thứ được viết bởi một chất liệu nhẹ và sâu nhất. “Hai đứa trẻ” là một câu chuyện tương tự. Truyện ngắn này đã vẽ lên bức tranh phố huyện nghèo với những mảnh đời nghèo túng, khốn cùng trong xã hội.
Thạch Lam luôn khiến cho người đọc trông thấy được sự tinh tế trong tâm hồn, trong những câu văn. Sự nhẹ nhõm đã làm nên nét độc đáo trong văn của Thạch Lam. “Hai đứa trẻ” là câu chuyện xoay quanh cuộc sống của An và Liên tại phố huyện nghèo với những công việc nhàn nhạt được lặp đi lặp lại hằng ngày. Cũng qua hai nhân vật này, tác giả muốn gửi gắm tới người đọc nhiều thông điệp về cuộc sống, về những trắc trở mà con người đã trải qua.
Chất liệu làm nền cho câu chuyện chính là quang cảnh phố huyện nghèo luôn chập chờn, ẩn hiện trong mỗi trang viết. có nhẽ chính bức tranh này đã làm gợi nên cảm hứng để Thạch Lam bộc bạch xúc cảm của mình. Và có phải đây chính là phố huyện nghèo Cẩm Giàng – nơi mà ông đã sinh ra và lớn lên.
quang cảnh phố huyện nghèo hiện lên ở những câu văn trước tiên “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ, từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều…”. Một tiếng trống vang lên trong một buổi chiều sắp tàn, và có nhẽ cảnh vật và con người đang đắm chìm vào trong trạng thái lơ đãng. vì sao tác giả lại lựa chọn lựa một buổi chiều mùa thu để làm cảm hứng vẽ lên bức tranh phố huyện? Là bởi mùa thu luôn gợi buồn, gợi nhớ, gợi nhiều xúc cảm nhất. Hình ảnh hai đứa trẻ xuất hiện với những công việc thường nhật “thắp đèn” rồi “đóng quán” và ngắm nhìn đoàn tàu chạy từ Hà Nội trở về, vụt sáng lên và rồi lại rơi vào hụt hẫng.
Hình ảnh phố huyện buổi chiều tà được tác giả phác họa qua những chi tiết “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, tương đối nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi thân thuộc quá khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu”. Đó chính là quang cảnh của khu phố nghèo lúc ngày đã tàn, một sự héo úa, tàn phai và cả sự tiêu điều hiu quạnh hiện lên trước mắt người đọc. có nhẽ đây chính là hiện thực thời bấy giờ ở miền Bắc nước ta. Mọi thứ nhường nhịn như chông chênh, không điểm nhấn, không sức hút và nhường nhịn như không có sự sống. Tất cả chỉ là những điều bình dị, sắp gũi nhưng lại phảng phất nghèo đói.
Những câu văn mềm mại, mượt mà diễn tả một không gian quạnh quẽ, vắng lặng ở phố nghèo. Trên cái nền u ám đó xuất hiện bóng vía những đứa trẻ nghèo “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lum khum trên mặt đất lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể sử dụng được. Liên động lòng nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng”. Một bức tranh thêm ảm đảm hơn khi những con người nghèo khổ xuất hiện, nhường nhịn như đã nhân đôi cái nghèo, cái khốn khó của mảnh đất này. Và người đọc thấy toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Liên, thánh thiện và cao cả.
Trong bức tranh làng quê nghèo ấy còn có rất nhiều số phận khác nữa, tất cả đã tạo nên sự hỗn độn của phố huyện buổi chiều tàn. Đó là hình ảnh mẹ con chị Tí dọn hàng nhưng “chả kiếm được bao nhiêu”. Hay chính là hình ảnh của chị em Liên từ khi dọn về phố nghèo này, hai chị em bán hàng tạo điều kiện cho mẹ trên một gian hàng bé thuê lại của người khác, một tấm phên nứa dán giấy nhật trình. Những con người lẳng lặng, những con người cần mẫn lặng nhìn cái nghèo đói diễn ra trước mắt nhưng cũng không thể làm gì được.
Xen lẫn những con người nghèo khổ vật chất còn là hình ảnh bà cụ Thị bị điên vẫn thường hay mua rượu tại cửa hàng nhà Liên. Hình ảnh bà cụ Thi “ngửa cổ uống một tương đối sạch, đặt 3 xu vào tay Liên và lảo đảo bước đi” khiến người đọc động lòng về một khiếp người, một đời người dật dờ, không bến đỗ.
Giữa chốn phố huyện này, nhường nhịn như người nào cũng ngóng trông một chuyến tàu từ Hà Nội chạy về đây mang theo sự ồn ào, huyên náo và tấp nập hơn nữa. có nhẽ chuyến tàu có ý nghĩa to lớn đối với những phận người nơi mảnh đất này. Bởi “con tàu như đã đem một tí toàn cầu khác đi qua”/ Đó có thể là toàn cầu có sự phồn hoa ngày xưa của hai chị em Liên, có cuộc sống sung túc và bình an hơn. Chuyến tàu có nhẽ chính là ước mơ, là khát vọng được vươn ra ánh sáng của những con người tại phố huyện nghèo này.
“Hai đứa trẻ” là một câu chuyện nhẹ nhõm, không có tình huống gay cấn nhưng lại khiến cho người đọc thấy sợ hãi về những mảnh đời, mảnh đất nghèo nàn những năm quốc gia ta còn chìm trong bom đạn.
Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn – Mẫu 5
“Tự lực văn đoàn” là nhóm bút phát triển mạnh mẽ trong thời kì văn học lãng mạn 1930 – 1945. Nhóm bút này có những cây viết rất độc đáo, sáng tạo và có tầm tác động tới phần lớn những nam thanh, nữ tú thời bấy giờ. kế bên những bài thơ được ví von như “ngôn tình thời xưa” được viết bởi thi sĩ Xuân Diệu, Chế Lan Viên… thì nhà văn Thạch Lam lại là một cái tên nổi trội trong làng truyện ngắn xuất thân từ nhóm bút này. Với những “Gió đầu mùa”, “Nhà mẹ Lê”….đã khẳng định được vị trí của ông đối với nền văn học nước nhà. Một trong những tác phẩm nổi trội của ông là truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Trong tác phẩm đã khắc hoạ một cách trung thực, rõ nét nhưng cũng vô cùng lãng mạn cái quang cảnh buổi chiều tàn bên con phố huyện vắng vẻ, nổi trội lên là hình ảnh cô bé Liên với những dòng xúc cảm, hồi ức xốn xang tới nao lòng.
Gọi là truyện, thế nhưng truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam thường không mang tính kể hay có những diễn biến phức tạp. “Hai đứa trẻ” được viết như một chuyến du hành thời gian, có hiện tại, có quá khứ nhưng lại không có tình huống mở đầu hay thắt nút. Tác giả nhường nhịn như muốn đặc tả không gian phố huyện nghèo có đường tàu chạy qua, nơi mà niềm vui của những đứa trẻ được gói gọn trong ngắm nhìn đoàn tàu đêm. Nhà văn sử dụng những chất liệu đời thường rất bình dị, trình bày bức tranh phố huyện hiện lên với sự buồn bã từ con người tới cảnh vật, thêm vào đó là diễn biến tâm trạng của cô bé Liên khi chứng kiến khoảnh khắc lụi tàn của một ngày dài, điều đó đã mang tới cho người đọc những sự đồng cảm với những con người nơi đây.
Nhà văn Thạch Lam đã vẽ nên một bức tranh phố huyện vào thời khắc hoàng hôn, khi đã trải qua một ngày dài thì vạn vật đều mang một màu sắc âm u thiếu sức sôngs. Bức tranh ấy mang cái vẻ buồn bã, não nùng từ con người cho tới cảnh vật xung quanh. Ngày tàn, chợ vãn, những kiếp người nỗ lực bám trụ vào mảnh đất nghèo ấy…. tất cả đã tạo nên một không khí nghèo khổ, hẻo lánh cho nơi phố huyện. quang cảnh ngày tàn ấy lại càng trở nên sinh động hơn với những âm thanh “tiếng trống thu không” báo hiệu kết thúc một ngày lao động từ “trên cái chòi huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”, “tiếng ếch nhái kêu ran” ngoài đồng ruộng và cả những “tiếng muỗi vo ve”. Chiều tàn buông xuống đã làm phai mờ cảnh vật, màu chiều buồn báo hiệu cho một ngày đã trôi qua. Mặc dù rõ ràng là tả âm thanh, những thứ âm thanh dằng dai, réo rắt nhưng người ta lại không cảm thấy được sự vui tươi, sôi động của con người sau một ngày dài lao động mà nó lại hiện lên sự não nùng. Tiếng động vật, tiếng trống vẳng lại từ xa ấy cho ta cảm nhận được sự yên ắng, cô liêu của nơi phố huyện bởi chỉ vài âm thanh nhỏ bé ấy đã khuấy động được không gian nơi đây. Trên nền âm thanh ấy là những hình ảnh, màu sắc đượm buồn, “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy”, những đám mây “ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Màu của ráng chiều, màu cam, màu đỏ ối hòa quyện vào nhau, sắc hoàng hôn chỉ có thể nhìn ngắm khi sống ở vùng nông thôn. Và chỉ một lát nữa thôi, những màu sắc ấy sẽ bị thay thế bởi một màu đen thăm thẳm của màn đêm, bóng tối sẽ bủa vây và bao trùm lên tất cả. nhường nhịn như có những sự tiếc nuối, sự mong muốn níu giữ trong câu văn của tác giả. Những con người nơi phố huyện phải chăng là đang nỗ lực cảm nhận, lắng tai và ghi nhớ những khoảnh khắc cuối cùng của ngày tàn. Một bức tranh phong cảnh thiên nhiên thân thuộc ấy vậy mà sao lại buồn thương tới thế. Hoàng hôn đẹp đẽ, tráng lệ là vậy mà sao hiện lên lại thật âm u, não nùng”.
Và trên cái nền không gian âm u, não nùng ấy hình ảnh con người hiện lên cũng mang những nét đượm buồn, ủ dột. Cảnh phiên chợ tàn cùng với sự xuất hiện của con người lại càng làm tăng thêm những sự xơ xác, quạnh quẽ của nơi phố huyện nghèo ấy. “Chợ đã vãn từ lâu”, “chỉ còn một vài người bán hàng về muộn ở lại dọn hàng, họ trò chuyện vội vã với nhau vài câu”, trên nền chợ chỉ còn lại rác rưởi, vỏ thị, vỏ bưởi,…”. Con người ở đây xuất hiện tuy không lẻ loi, cô độc nhưng cái nghèo nhường nhịn như đã ăn vào máu xương, vào cuộc sống của họ, “những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lum khum trên mặt đất, đi tìm tòi, nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất kì thứ gì còn sót lại”. Những đứa trẻ nhà nghèo chỉ biết tìm những thứ người ta bỏ lại sau phiên chợ để có cái ăn, có đồ chơi.những người dân ở nơi phố huyện này tuần tự được xây dựng với những tính cách đối lập, những hoàn cảnh khác nhau nhưng họ giống nhau bởi một chữ “nghèo”. “Mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ốc, đêm lại dọn hàng nước bán, dù siêng năng làm lụng nhưng vẫn không đủ sống”, bà cụ Thí nghiện rượu lúc nào cũng say xỉn, cùng với tiếng cười khanh khách đầy sợ hãi, hai chị em Liên và An – những đứa trẻ còn nhỏ nhưng đã tự coi giữ một cửa hàng tạp hoá giúp mẹ. Rồi gánh phở nhà chưng Siêu, một thức quà xa xỉ ở cái phố huyện quanh năm nghèo đói này, rồi gia đình chưng Xẩm mù sống bằng nghề hát dạo qua ngày mong mỏi chút tấm lòng hảo tâm của những vị khách qua đường… Những số phận ấy, những con người tưởng nghe đâu đang ngày một lụi tàn, héo mòn nhưng vẫn ngày ngày bám víu, nương tựa vào mảnh đất này, cùng nhau tồn tại. Cuộc sống của họ mòn mỏi, lay lắt, sống nhường nhịn như chỉ để qua ngày. Phải chăng cái nghèo, sự buồn chán đã rút hết đi sức sống của họ, hay chính cái hoàn cảnh trái ngang đã đưa đẩy họ về vùng đất này, để cùng cmar thông và chia sẻ với nhau.
Bức tranh phố huyện tạm bợ, nghèo đói nay lại càng trở nên âm u, ủ dột hơn dưới con mắt của bé Liên. Là nhân vật trung tâm, điểm nhìn của tác giả cũng bắt nguồn từ nhân vật này. Cô bé đã cảm nhận được sự tiêu điều nơi phố huyện, cô xót thương cho những số phận xấu số, long đong của mẹ con nhà chị Tí, cho bà cụ Thi, tiếc nuối cái quãng thời gian mà gia đình khá giả còn được sống nơi phố thị sung túc, đủ đầy. Tâm hồn nhạy cảm, từng trải và lối suy nghĩ già trước tuổi của mình, bé Liên đã cảm nhận được “mùi âm ẩm bốc lên trọn lẫn với mùi cát bụi thân thuộc”, sự ẩm mốc ấy lại trở thành một thứ gì đó thân thuộc trong cuộc sống. Đáng lẽ ra, trẻ con phải có được một cái nhìn thơ ngây, non nớt, lạc quan, yêu đời, thế nhưng với Liên, cô bé như cảm nhận cùng cảnh vật, có yên tĩnh, có buồn thương, có tiếc nuối, có buông bỏ. Dù trong hoàn cảnh cùng cực, cô bé vẫn nhận thấy được sự siêng năng, cần mẫn nỗ lực, yêu thương nhau của mẹ con nhà chị Tí, vẫn “rót đầy một cút rượu ty” cho bà cụ Thi điên dở, động lòng thương cho những đứa trẻ đang nhặt rác nhưng đành ngậm ngùi quay đi bởi không có tiền cho chúng, và cũng không quên dành những tình cảm của một người chị cho đứa em – cậu bé An. Liên là nhân vật duy nhất trong tác phẩm được trình bày có diễn biến xúc cảm, đồng thời nhà văn Thạch Lam cũng lấy điểm nhìn của bé Liên để trình bày cảnh sắc buổi chiều của nơi phố huyện nghèo. Qua góc nhìn đó, những trình bày vừa đảm bảo được tính cụ thể, trung thực lại có sự trữ tình, lãng mạn theo cảm nhận của một cô bé đang lớn.
Bức tranh phố huyện hiu hắt, buồn thương được Thạch Lam khắc họa bằng cả tài và tình, người đọc vừa có dịp được sống trong không khí của một phố huyện nghèo, vừa xót thương cho những số phận xấu số, tẻ nhạt nơi đây. Thế nhưng ẩn sâu trong những con người ấy vẫn là niềm tin, là sự nỗ lực, tin vào thực chất tốt đẹp của con người và cùng mong chờ vào ánh sáng của thế cuộc sẽ soi chiếu cho họ. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp nhưng buồn, sự quẩn quanh bế tắc của con người cũng đã đặt ra những nỗi niềm băn khoăn cho người đọc về một kiếp đời sống mòn, đồng thời thể hiện sự tôn trọng, cảm mến với những con người có ước mơ, có nghị lực. Giọng văn trình bày độc đáo mà sắp gũi đã làm nên cái chất của Thạch Lam, làm nên tên tuổi để đời của một thời kì văn học đỉnh cao của nước nhà.
Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn – Mẫu 6
Thạch Lam là một trong những nhà văn có lối viết độc đáo nhất trong nền thơ ca Việt. Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện nhưng qua toàn cầu xúc cảm, tâm trạng của nhân vật, tác phẩm của ông vẫn toát lên cái tình, cái chất thơ tự nhiên mà tha thiết, xúc động. Qua những tác phẩm của mình ông bộc lộ nỗi thương cảm, xót xa với cuộc sống và những số kiếp con người nghèo khổ. “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm như thế! Bằng sự nhạy cảm của mình, Thạch Lam đã vẽ lên bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” – bức tranh với những kiếp người lam lũ, với những cuộc sống tối tăm, đơn điệu giữa thế cuộc.
“Hai đứa trẻ” kể về cuộc sống của hai chị em Liên trong một con phố huyện nghèo, với những kiếp người sống khốn cùng trước cách mệnh Tháng Tám. Mà từ đó, Thạch Lam muốn bộc lộ sự trân trọng của ông trước những ước mong nhỏ nhoi của người lao động nghèo trong một phố huyện nhỏ nghèo nàn, trong một xã hội chật hẹp, tù túng.
Bức tranh phố huyện được dựng lên ngay từ đầu câu chuyện, bằng những nét vẽ đơn thuần, nhẹ nhõm nhưng không kém phần huyền ảo. Thạch Lam đã huy động hết cả thảy những giác quan: thị giác, thính giác và xúc cảm giác của mình để dựng lên quang cảnh một phố huyện tiêu biểu của xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc.
Bức tranh phố huyện khởi đầu bằng cảnh thiên nhiên lúc chiều tàn thông qua lời kể và diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên, mà khởi đầu là hình ảnh và âm thanh của thiên nhiên và khu chợ tàn.
Bức tranh thiên nhiên chiều tàn được gợi lên bằng hình ảnh trời chiều: “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Một quang cảnh buổi chiều đẹp rực rỡ, đẹp lộng lẫy tới nao lòng, mang trong đó là vong hồn của quê hương xứ sở. Và trong quang cảnh ấy, không thể thiếu âm thanh của “tiếng trống thu không” vàng đều vào không gian đang dần đi vào tĩnh mịch lẫn trong đó là tiếng “ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” và “tiếng muỗi vo ve”, tất cả hòa vào nhau tạo nên một âm thanh thân thuộc, gợi lên vẻ đẹp yên ả của một buổi chiều quê hương “chiều êm như ru”.
Bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ của của quê hương, vẫn giữ nguyên nét thơ mộng, mang đậm vong hồn xứ sở. Thế nhưng, từng lời, từng câu chữ trong quang cảnh ấy lại mang một sự tẻ nhạt tĩnh lặng, tàn tạ tới thê lương. quang cảnh hoàng hôn đẹp như mơ ấy như phút rực sáng cuối cùng, lóe lên rồi chợt vụt tắt, buồn tới nao lòng người. Rồi những âm thanh thân thuộc như “tiếng trống thu không”, “tiếng ếch nhái, tiếng muỗi” đều gợi lên sự đều đặn, trầm buồn, đơn điệu, nhạt nhẽo.
Tiếp theo quang cảnh thiên nhiên lúc trời chiều là hình ảnh của một khu chợ quê lúc đã tàn. Hình ảnh những phiên chợ quê luôn gợi cho người ta sự sôi động, tấp nập với không khí náo nức với vẻ đẹp của quê hương thế nhưng hình ảnh phiên chợ ở đây lại là một phiên chợ đã tàn trong khi “Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất” và “trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cái quang cảnh ấy đã gợi lên một phố huyện thê lương, tàn tạ trong mắt người đọc chúng ta. Và không chỉ vậy, nó còn gợi lên cả cuộc sống nghèo đói của một miền quê nữa. trong khi hình ảnh chợ phiên quê có nhẽ là hình ảnh náo động nhất của một vùng thì ở đây, nó lại gợi lên một sự tàn tạ, buồn bã tới não nùng.
nổi trội trong hình ảnh thiên nhiên nơi phố huyện là tâm trạng của Liên – một trong những cư dân của phố huyện nghèo này. Bao trùm lấy tâm trạng của chị là một nỗi buồn sâu thẳm từ trong tâm hồn nhạy cảm và trong sáng. Chị có một tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương mình, chẳng vậy mà chị có thể ngửi được cái mùi quê hương, cái mùi đặc trưng nhất của mảnh đất phố huyện nghèo này “một mùi âm ẩm bốc lên, tương đối nóng của ban ngày lẫn với mùi cát thân thuộc quá, khiến cho chị em Liên tưởng lại mùi riêng của đất, của quê hương này”. Cái tâm trạng của Liên cũng như cái hình ảnh của nơi phố huyện nghèo này, cứ trầm lặng mà buồn bã. Đó là cái buồn của một cô gái mới lớn, nhạy cảm với những xúc cảm xung quanh, mơ hồ, phong thanh mà vô cùng thấm thía “cái buồn của chiều quê thấm thía vào tâm hồn thơ ngây của chị”, “chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ phút của ngày tàn”. Nỗi buồn của Liên cũng chính là nỗi buồn của Thạch Lam trước xã hội đương thời, một xã hội mà thời gian nhường nhịn như ngưng đọng lại thành khoảnh khắc, không biến chuyển, tàn tạ tới thê lương lòng người.
Bức tranh phố huyện ấy không chỉ hiện lên bằng quang cảnh hoàng hôn rực lửa nhưng buồn bã mà còn hiện lên ở những kiếp người nơi phố huyện – những kiếp đời tàn.
Bắt gặp trước tiên là hình ảnh của những đứa trẻ hiện lên nơi phố huyện. Không phải hình ảnh những đứa trẻ vui đùa, tinh nghịch chạy nhảy trên thảm cỏ xanh công viên mà là hình ảnh “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven cái chợ cúi lum khum trên mặt đất, đi lại tìm tòi” trên nền cái “chợ tàn” của phố huyện ấy. Cuộc sống quá lam lũ, nghèo đói đã đẩy những kiếp sống phải lụi tàn, những đứa trẻ phải sống trên những đống rác rưởi bị bỏ lại sau phiên chợ, phải gieo hy vọng “nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể sử dụng được của những người bán hàng để lại” trên đống rác của phiên chợ tàn kia. thế cuộc của chúng, tương lai của chúng thật tăm tối, thật bế tắc biết chừng nào. Và chính nhân vật Liên cũng cảm thấy động lòng thương cảm trước những số phận đó, vậy nhưng “chính chị cũng chẳng có gì để cho chúng”. Liên thương cảm nhưng bất lực và đó cũng chính là xúc cảm mà Thạch Lam dành cho những người lao động nghèo.
Kế tiếp hình ảnh của những đứa trẻ là hình ảnh của mảnh đời chị Tí. Chị xuất hiện giữa không gian đang dần về tối của phố huyện với hình ảnh “đội cái chõng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đoàn”. Chị Tí cũng là một người lao động nghèo trong cái phố huyện tối tăm ấy. Hàng ngày, buổi ban ngày, “chị đi mò cua bắt tép”, tới đêm lại mở hàng nước “từ chập tối cho tới đêm” chỉ để thêm vài đồng xu lẻ mà cũng “chả kiếm được bao nhiêu”. Thân chị như là hình ảnh cái cò lặn lội bờ sông, tảo tần sớm hôm, một hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ lao động:
“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng”
Mà cái quán nước của chị cũng nhỏ nhoi, còm cõi như chính bản thân chị, bởi “tất cả cái cửa hàng của chị” là tất thảy những thứ chị có thể mang, đội, xách, vác. Cái quán ấy chỉ bán nước chè xanh, điếu thuốc nào cho “mấy người phu gạo hay phu xe, thỉnh thoảng mất chú lính lệ trong huyện hay người thân thầy thừa đi gọi chân tổ tôm”. Khách hàng của chị cũng chỉ là những con người có cuộc sống như chị, kiếp sống như chị. Họ cũng chỉ cao hứng mới vào hàng của chị, vậy là biết cái quán của chị cũng không kiếm được bao nhiêu đồng lời. Bởi vậy, đáp lại tiếng hỏi thăm của Liên chỉ là một lời than vãn: “Ối chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì”. Đó phải chăng chính là tiếng thở dài cho thế cuộc bế tắc của chị, tiếng thở dài ngao ngán vì cuộc sống quá đơn điệu, chỉ quẩn quanh, không có chút ánh sáng tương lai –một cuộc sống vô ý nghĩa.
Không chỉ số phận của chị Tí, của những người phu xe phu gạo mà chính cảnh đời của chị em An, Liên cũng là một kiếp sống tàn nơi phố huyện này. Chuỗi ngày sống tàn của gia đình Liên khởi đầu bằng sự kiện khi “thầy Liên nghỉ việc”, chính điều này đã đẩy gia đình vào bế tắc. Không còn đủ sức trụ lại nơi phố phường Hà Nội náo nhiệt, gia đình Liên chuyển về quê để tìm cách tháo gỡ cái bế tắc đang bủa vây. Về quê, mẹ Liên trở thành hàng xáo, còn chị em Liên được giao trông coi “một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm”. Hàng tạp hóa bé xíu ấy chỉ có vài bao diêm, vài bánh xà phòng, chút rượu, … Mà khách mua cũng chỉ mưa “nửa bánh xà phòng”. Chính cái gian hàng bé xíu ấy đã khắc thành ấn tượng trong mắt người đọc cái nghèo nơi phố huyện và cái bế tắc của gia đình Liên. Thế nhưng, có nỗ lực bao nhiêu thì bế tắc vẫn hoàn bế tắc trong khi “ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì”, cuộc sống chẳng có lấy một tí hy vọng. Cuộc sống của gia đình Liên, chị em Liên vẫn cứ quẩn quanh, đơn điệu như thế, vẫn là tiết điệu “sáng dọn ra, tối dọn vào”, “ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên lại tạt ra thăm hàng một lần”. Tất cả những gì chị em Liên đang sống không phải là chút niềm vui của trẻ thơ mà là một cuộc sống ngột ngạt, tù túng, tới sự thơ ngây của con trẻ cũng chẳng còn.
Liên thương cảm, xót xa cho số phận chị Tí, cho cuộc sống nghèo đói, tăm tối của một người tán thành cảnh. Thế nhưng, khi hình dung ra cuộc sống của gia đình mình, Liên cũng tự thấy xót xa cho chính bản thân mình, chị thương cảm cho sự bế tắc của gia đình, của cha, sự lam lũ của mẹ, xót xa trước sự tù túng của bản thân và đứa em trai khi phải trải qua những tháng ngày vô nghĩa của thế cuộc. Tâm trạng ấy của chị hiện lên qua từng câu chữ đầy thương cảm, ngậm ngùi của Thạch Lam.
Những kiếp sống tàn ấy không chỉ có vậy, nó còn được thể hiện điểm xuyết qua hình ảnh của chưng Siêu, của chưng xẩm, của cụ Thi điên nữa. Chỉ là thoáng qua thôi, những hình ảnh những kiếp người ấy cũng khiến cho chúng ta không thể nào quên được.
Hình ảnh chưng Siêu hiện lên với gánh phở rong trên vai, với đòn gánh kĩu kịt giữa đêm tối. Gánh phở của chưng là “một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền” mà ít người có thể mua được. Chính vì vậy, gánh phở của chưng trong phố huyện này luôn ế khách. Ngày nào cũng là một điệp khúc đơn điệu, chiều tối nhóm lửa, tới đêm thì gánh vào làng. Cuộc sống của chưng Siêu cũng đơn điệu, tẻ nhạt, lặp đi lặp lại như thế cuộc của chị Tí, của chị em Liên vậy.
Thêm vào nữa là hình ảnh của gia đình chưng xẩm mưu sinh trên manh chiếu, họ cũng lại là những kiếp người tàn nơi phố huyện này. Gia đình chưng xẩm sống bằng nghề hát rong, tha phương cầu thực, chẳng có lấy một ngôi nhà trú nắng trú mưa, chỉ biết lấy tạm gầm cầu, vỉa hè làm nơi nghỉ chân. Tài sản của chưng chỉ là manh chiếu rách, chiếc độc huyền và chiếc thau sắt, đó là tất cả những gì mà gia đình chưng có được. Thế nhưng, hình ảnh khắc sâu nhất vào trong lòng người đọc là hình ảnh “thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Đứa con – những thế hệ tương lai đang trườn bò khỏi manh chiếu, thế nhưng cũng chẳng thoát nổi cái kiếp nghèo, kiếp đời tăm tối đang bủa vây lấy gia đình nó.
Cuối cùng là hình ảnh của bà cụ Thi điên nghiện rượu. Cụ chính là biểu tượng cho một kiếp người tàn khi tới sắp cuối thế cuộc, vẫn thê lương, tàn tạ như thế. Khép lại bức tranh con người nơi phố huyện là hình ảnh bà cụ Thi điên “đi lần vào trong bóng tối” với “tiếng cười khanh khách”. Đó là tiếng cười rùng rợn cho một kiếp người tàn, một thế cuộc tàn nơi phố huyện nghèo này.
Toàn bộ bức tranh phố huyện đều hiện lên qua đôi mắt Liên, từ quang cảnh chiều tàn thê lương tới những kiếp đời tàn tạ, tăm tối cùng tình cảnh. Đó là những thế cuộc buồn với những thảm kịch về vật chất, nghèo đói và cả những thảm kịch về ý thức của những con người cả đời quẩn quanh với cuộc sống đơn điệu, nhàm chán, ngột ngạt, tù túng, vô ý nghĩa. thế cuộc của họ tăm tối tới mức không hề có le lói một tí ánh sáng nào của tương lai. Bức tranh ấy được nhìn qua cái nhìn của Liên – một cô gái mới lớn, với tâm hồn thơ ngây, nhạy cảm, trong sáng, lại tán thành cảnh với những con người kia. Ẩn sau Liên là tâm hồn của một nhà văn tiểu tư sản đang sử dụng tình thương, sự chiêm nghiệm của mình hòa cùng với những tâm hồn người lao động kia để mà cùng thương cảm, cùng xót xa cho số phận của họ.
Thạch Lam viết về người lao động nghèo, nhưng ông không đi sâu vào trong những nghèo đói của họ mà xoáy sâu vào trong trong thảm kịch ý thức của những con người đang sống kiếp đời mòn mỏi, vô ý nghĩa. Hiểu được những thảm kịch ý thức đầy thống khổ ấy, phải chăng Thạch Lam đã thức tỉnh được ý thức tư nhân, ý thức được quyền sống của con người, vậy nên ông mới thương cảm tới xót xa cho những mảnh đời vô ý nghĩa đó? Và có nhẽ chính nhờ điều này đã làm nên chiều sâu trong ý nghĩa nhân đạo cho tác phẩm mà Thạch Lam muốn gửi gắm.
Bức tranh phố huyện nghèo khép lại bằng không gian đêm tối khi bóng tối bao trùm. Đó là “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”, “vòm trời hàng nghìn ngôi sao tị nhau nhóng nhánh, lần trong vết sáng của những con đom đóm bay tà tà trên mặt đất hay len vào những cành cây”. Buổi đêm đó đẹp rực rỡ, lộng lẫy biết chừng nào! Trên trời với hàng nghìn ngôi sao nhóng nhánh, đẹp tươi tới vậy thì dưới mặt đất thì bị bao phủ bởi bóng tối “tối hết cả, tuyến đường thăm thẳm ra sông, tuyến đường qua chợ về nhà, những ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn”. Bóng tối đặc quánh, chiếm lĩnh cái phố huyện nhỏ. Đây phải chăng cũng là hình ảnh ẩn dụ cho xã hội dưới thời thực dân Pháp – một xã hội tăm tối, không có chút ánh sáng nào lọt qua, tù túng, ngột ngạt, nghèo đói.
Sống giữa cái xã hội ấy là những con người như những hạt sáng, đốm sáng, khe sáng, le lói, nhỏ nhoi, leo lét, chập chờn. Nhân vật Liên hay chính Thạch Lam đang buồn man mác trước cái cuộc sống tối tăm ấy, chẳng có chút ánh sáng vào tương lai. Bầu trời có nhóng nhánh hàng nghìn ngôi sao đẹp đẽ, nhưng với Liên, đó chỉ là “vũ trụ thăm thẳm, bát ngát”, “đầy bí mật”, cũng như những niềm vui xưa kia không thể nào thành hiện thực được nữa. Vậy nên, Liên “cúi nhìn về mặt đất”, “về quầng sáng thân tình chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”. Bởi quầng sáng ấy mới sắp gũi với Liên, bởi nó cũng như cuộc sống vô nghĩa, nhạt nhòa của chính cô vậy.
Bức tranh nơi phố huyện khi ngày tàn mà Thạch Lam dựng lên như một hình ảnh thu nhỏ của toàn cảnh xã hội Việt Nam những ngày Pháp thuộc. Đó là một xã hội tù túng, ngột ngạt, tăm tối tới cùng cực, nơi mà cái nghèo đói cứ bám riết lấy những kiếp người tàn tạ, thê lương.
Nghệ thuật mà Thạch Lam sử dụng là những chất liệu hiện thực được chính ông trải nghiệm. Xen lẫn trong hiện thực là cảm hứng lãng mạn cho mỗi quang cảnh thiên nhiên, cho mỗi hình tượng nhân vật để làm nên ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
Bức tranh phố huyện nghèo được trình bày theo sự vận động của thời gian từ lúc chiều tàn tới khi đêm khuya và theo từng bước diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên. Qua những rung động mơ hồ, tinh tế, mỏng manh của một tâm hồn mới lớn, nhạy cảm, Thạch Lam đã dựng lại một bức tranh quê hương với tất cả vẻ đẹp của quê hương xứ sở đồng thời gửi gắm vào trong đó tình yêu quê hương, quốc gia, gửi vào những kiếp người tàn tạ nơi phố huyện nỗi xót xa, thương cảm sâu sắc. Và sâu kín tà tà ý thức phê phán xã hội thực dân của một tiểu tư sản, đã không đảm bảo được cuộc sống, quyền sống của con người.
Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn – Mẫu 7
Thạch Lam một trong những cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn. những tác phẩm của ông thiên về những xúc cảm trong trẻo, nhẹ nhõm mà vô cùng sâu lắng. Đằng sau những trang văn thấm đẫm chất thơ là niềm cảm thương, tấm lòng nhân đạo với những kiếp người nghèo khổ trong xã hội. Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một trong những truyện nổi trội nhất của ông. Nắm bắt khoảnh khắc ngày tàn, Thạch Lam đã vẽ nên cuộc sống đầy ảm đảm mà cũng ngập tràn ước mong của con người nơi đây.
Thạch Lam lựa chọn lựa thời khắc hoàng hôn, khi mọi vật khởi đầu chuẩn bị đi vào trạng thái ngơi nghỉ. Bằng ngòi bút tinh tế, nhạy cảm ông không chỉ nắm bắt cái thần thái của cuộc sống con người mà đó còn là bức tranh thiên nhiên. Qua hai bức tranh đó thể hiện những quan niệm, xúc cảm của tác giả trước hiện thực cuộc sống.
Bức tranh thiên nhiên mộng mơ mà đượm buồn, âm thanh còn vương lại chỉ là “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”, xa xa là tiếng ếch nhái kêu ran theo tiếng gió đưa vào. Âm thanh tưởng là náo động, rộn ràng mà hóa ra lại da diết, khắc khoải, âm u. có nhẽ không gian phải vắng lặng, tĩnh mịch lắm mới có thể nắm bắt trọn vẹn từng âm thanh ngoài kia tới vậy. Lúc này, mặt trời cũng dần dần đi vào trạng thái ngơi nghỉ: “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy”, “Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”, gam màu sáng, màu nóng nhưng tất cả đều gợi lên sự lụi tàn. Những dãy tre làng trước mặt đen lại cắt hình rõ rệt trên nền trời khiến cho sự ảm đạo bao trùm lên cảnh vật khi bóng tối dần bủa vây xung quanh. Với tiết điệu chậm, những câu văn giàu tính nhạc tựa như một câu thơ đã vẽ nên quang cảnh yên bình, êm dịu của bức tranh thiên nhiên. Bức tranh hoàng hôn đẹp, mộng mơ, yên ả nhưng đậm nỗi u buồn, âm u.
kế bên bức tranh thiên nhiên, Thạch Lam còn đưa những nét vẽ của mình hướng tới bức tranh sinh hoạt của con người. Ông nắm lấy quang cảnh của một buổi chợ đã tàn. Người ta thường nói rằng, muốn biết cuộc sống nơi đó ra sao, chỉ cần tới chợ là sẽ biết. Và Thạch Lam cũng làm tương tự. quang cảnh khu chợ sau buổi họp hiện lên tiêu điều, xơ xác. Âm thanh náo nhiệt, ồn ã đã biến mất, giờ chỉ còn lại cái tĩnh lặng bao trùm. Chỉ còn một vài người bán hàng về muộn ở lại dọn hàng, họ trò chuyện vội vã với nhau vài câu. Trên nền chợ chỉ còn lại rác rưởi, vỏ thị, vỏ bưởi,… Những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lum khum trên mặt đất, đi tìm tòi, nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay bất cứ những gì còn sót lại… cảnh tình của chúng thật đáng thương, tội nghiệp. Mẹ con chị Tí ngày mò cua, bắt ốc, đêm lại dọn hàng nước bán, dù đã siêng năng làm lụng nhưng vẫn không đủ sống. Bà cụ Thi điên nghiện rượu, lúc nào cũng chìm trong tương đối men, xuất hiện cùng tiếng cười khanh khách,… Còn chị em Liên cũng coi giữ một cửa hàng tạp hóa nhỏ, bán những vật dụng đơn thuần cho những khách hàng thân thuộc. Liên, An mới chỉ là những đứa trẻ nhưng chúng đã tham gia vào công cuộc mưu sinh. Cuộc sống của những người dân nơi đây quẩn quanh, nhàm chán, họ đại diện cho những kiếp sống mòn, sống mỏi. Trong sâu thẳm họ vẫn luôn thèm khát, đợi chờ một điều gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống, nhưng còn mơ hồ, mập mờ.
nổi trội nhất trong bức tranh đó chính là tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của nhân vật Liên. Cô tinh tế, nhạy cảm trước sự biến chuyển của thiên nhiên trong khoảnh khắc ngày tàn, cảm nhận từng chi tiết bé nhỏ mà thân thuộc với cuộc sống nơi đây: “một mùi âm ẩm bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụi thân thuộc quá…”, mùi hương thân quen, đã gắn bó với cuộc sống của cô nhiều năm. “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen…” ngắm nhìn quang cảnh, nhường nhịn như cái trầm buồn, yên tĩnh của thiên nhiên thấm sâu vào trong tâm hồn non nớt, đầy nhạy cảm của cô. Liên còn là một cô bé có tâm lòng nhân hậu, giàu lòng yêu thương. Đó là sự quan tâm với mẹ con chị Tí, những nghi vấn han ân cần, chứa đựng tình yêu thương, xót xa và ái ngại cho hoàn cảnh gia đình chị. Nghe tiếng cười biết đó là cụ Thi đi, Liên “lẳng lặng rót đầy một cút rượu ty đưa cho cụ” và “đứng sững nhìn theo”. Trước hình ảnh những đứa trẻ con nghèo nhặt rác chị động lòng thương nhưng bản thân lại không có tiền cho chúng.
Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn là đoạn văn giàu chất trữ tình. Chất thơ ấy tỏa ra từ thiên nhiên, từ cảnh vật quê hương bình dị, rất đỗi thân thuộc là tiếng trống thu không, là tiếng ếch kêu ran ngoài đồng,… Chất thơ còn thể hiện trong tâm hồn đầy nhạy cảm, tinh tế của Liên khi cảm nhận về cuộc sống xung quanh. Không chỉ vậy chất thơ còn thấm đượm trong từng câu chữ, những câu văn nhịp nhàng, có tiết tấu, giàu chất nhạc: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm đềm như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” đã tăng thêm chất trữ tình cho tác phẩm.
Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn vừa khắc họa được bức tranh thiên nhiên đẹp mà đượm buồn, vừa cho thấy cuộc sống quẩn quanh, bế tắc, nghèo nàn của những con người nơi đây. Đằng sau bức tranh phố huyện ta còn thấy được tình yêu thiên nhiên, cũng như tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả: trân trọng nâng niu những số phận và ước mơ đổi đời của họ. Nghệ thuật trình bày đặc sắc, chất trữ tình thấm đượm cũng là những yếu tố tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Bản quyền bài viết thuộc Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://cmm.edu.vn
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục