Cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt

Đề bài: Cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt

cam nhan ve ve dep tinh mau tu cua ba cu tu trong tac pham vo nhat

Bạn đang xem bài: Cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt

Dàn ý, văn mẫu cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
 

I. Dàn ý Cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt

1. Mở bài

– Giới thiệu tác phẩm Vợ nhặt,
– Giới thiệu vấn đề cần tìm hiểu.

2. Thân bài

a. Hoàn cảnh, số phận:
– Sống giữa nạn đói hoành hành năm 1945.
– Là một phụ nữ nông dân nghèo khổ, cả thế cuộc bà đã phải chịu nhiều đắng cay vất vả.
– Cả thế cuộc bà dành để kiếm từng đồng, từng hào chắt bóp nuôi con lớn khôn, khi già lão phải sống dựa vào đứa con trai là anh Tràng với một công việc cập kênh, bữa đói bữa no.
– Sầu khổ vì không kiếm nổi cho con một tấm vợ.

b. Tình thương con của cụ Tứ biểu hiện khi Tràng dẫn vợ về:
– Tràng dẫn một người phụ nữ lạ mặt về nhà, trong lòng bà cụ nổi lên biết bao nhiêu là cớ sự thắc mắc, thế nhưng bà không hề tỏ ra bối rối mà quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu, để chờ Tràng giảng giải => Tấm lòng của một người mẹ từng trải, thương con bằng một tình thương dịu dàng, săn sóc.
– Khi bà cụ “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự”:
+ Bà lặng im, nhanh chóng hiểu được chuyện anh Tràng lấy vợ âu cũng là chuyện hợp tình hợp lý.
+ Bà cụ “người nào oán xót thương cho số kiếp con trai mình”, cũng lại tủi cho phận người làm mẹ, nhưng không thể lo nổi cho con một cái đám cưới, dựng vợ gả chồng tử tế cho con, để nó phải tự thân đi kiếm về một người vợ.
+ Xúc động “trong kẽ mắt lèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”.
+ Lo lắng “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”.

– Một người mẹ thương con không nề hà, trách mắng con mình tự ý cưới gả, bởi bà hiểu phận mình và phận con, bà chỉ lo lắng mãi chuyện cuộc sống tương lai của hai vợ chồng Tràng, sợ con chịu khổ cực, rồi đương không lại liên lụy cả người khác nữa.
– Sau khi đã đi qua những xúc động, buồn tủi, bà cụ Tứ đã nhanh chóng vực lại ý thức, thông suốt mọi vấn đề rằng “Người ta có … Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”.
=> Thấu hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh đáng thương của thị, đồng thời lòng bà đã dấy lên những tình cảm thương yêu người con dâu mới về.
– Nhắc nhở động viên, vun vén vào cho hai vợ chồng Tràng, dặn dò họ cách ăn ở với nhau bằng những lời phấn khởi “Biết thế nào hở con, người nào giàu ba họ, người nào khó ba đời?”.

b. Sau đêm tân hôn của vợ chồng Tràng:
– Thấy được những đức tính tốt đẹp, sự thận trọng chu đáo của thị và cụ mừng lắm “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.
– Trong bữa cơm sáng, bà cụ thương con, thương dâu, thành thử bà cố xua đi cái nghèo đói đang hiện hữu trước mắt cặp tân nhân bằng cách liên tục kể những chuyện vui, kế hoạch làm ăn, nuôi gà, mở ra trước mắt những tương lai tốt đẹp đầy hy vọng.
– thết đãi con trai và con dâu bằng một nồi “chè khoán”:
+ Đó là cả tấm lòng của một người mẹ thương con, bà cụ tội nghiệp vì nghèo xác xơ không lấy gì để làm cỗ làm bàn, thế nên chỉ còn cách cố kiếm cho được ít cám về nấu làm món ăn đổi bữa.
+ Ở một nét suy diễn sâu xa nào đó thì nồi cháo cám còn mang ý tức là lời nhắc nhở của cụ Tứ dành cho những con về những ngày gian lao đang chờ đợi trước mắt, hy vọng rằng vợ chồng Tràng vẫn được vững lòng như ngày ngày hôm nay, ăn nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn ứ nơi cổ họng mà vẫn cảm thấy vui vẻ hạnh phúc.

3. Kết bài

Nêu cảm nhận chung.

II. Bài văn mẫu Cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt

Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại khi viết về chủ đề người nông dân dưới xã hội cũ, đặc biệt là trong giai đoạn đau thương nhất của quốc gia. Tuy nhiên trong tác phẩm nội dung chính mà tác giả muốn đề cập tới không phải là phản ánh, tố cáo hiện thực mà là tấm lòng trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp trong tâm hồn con người, cùng với sức mạnh của tình người, tình thân trong gia định đã trở thành cơ sở cho những khát vọng sống, niềm hy vọng và tin tưởng vào tương lai mãnh liệt ngay trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất. kế bên hai nhân vật là Tràng và thị với những nét phẩm chất riêng, thì nhân vật cụ Tứ lại hiện lên với vẻ đẹp của tình mẫu tử, thương con sâu sắc.

Giữa nạn đói hoành hành năm 1945, hàng triệu đồng bào ta phải chịu chết đói, nhiều người phải lìa xa quê cha đất tổ đi tha phương cầu thực nơi xứ người, mẹ con bà cụ Tứ là một trong số đó. Bà cụ là một phụ nữ nông dân nghèo khổ, có nhẽ rằng cả thế cuộc bà đã phải chịu nhiều đắng cay vất vả, bởi lẽ cả thế cuộc bà nằm trọn trong những tháng ngày quốc gia chất chứa nhiều đau thương, lầm than dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Cả thế cuộc bà dành để kiếm từng đồng, từng hào chắt bóp nuôi con lớn khôn, cho tới khi tuổi đã sắp đất xa trời, bà cụ tội nghiệp vẫn không được lợi những tháng ngày sung sướng. Thay vào đó cụ vì già lão, ốm yếu phải sống dựa vào đứa con trai là anh Tràng với một công việc cập kênh, bữa đói bữa no, và bên ngoài kia thần chết đang chực chờ những con người khốn khổ, cùng đường vì cái đói, trong đó có cả hai mẹ con bà cụ Tứ. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt tương tự tình mẫu tử của bà cụ lại càng hiện lên rõ rệt, cả đời làm lụng nuôi con lớn khôn, tới khi Tràng đã lớn khôn thì bà cụ lại sầu khổ vì không kiếm nổi cho con một tấm vợ, một người đàn cô mụ đần hôm sớm. Tất cả chỉ tại bà nghèo quá, người ta cưới vợ khi có của ăn của để, khi ăn nên làm ra, còn bà lại chẳng có gì trong tay thành thử phải tội con bà đơn chiếc lẻ bóng. Mà có khi tới lúc mà mất đi thì đứa con trai tội nghiệp lại phải chịu cảnh cui cút một mình trên đời. Điều ấy làm bà cụ Tứ tủi phận nhiều lắm.

Cho tới một hôm thấy Tràng dẫn một người phụ nữ lạ mặt về nhà, trong lòng bà cụ nổi lên biết bao nhiêu là cớ sự thắc mắc, thế nhưng bà không hề tỏ ra bối rối mà quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu, để chờ Tràng giảng giải, để cho Tràng có thời cơ được phân trần câu chuyện, chứ không lên tiếng trách móc. Đó là tấm lòng của một người mẹ từng trải, thương con bằng một tình thương dịu dàng, săn sóc. Rồi tới khi đã rõ sự mười mươi, bà cụ “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự” rồi thì bà lặng im, những dòng suy nghĩ chảy trôi, quẩn quanh liên tục bên ngoài cái sự việc con bà lấy vợ, một người vợ theo không. Nhưng không chần chừ quá lâu, bà cụ Tứ đã sống trên thế cuộc này ngót nghét vài chục năm trời đằng đẵng, có cái khổ, cái sự lạ nào mà bà không hiểu thấu. Đứng trên vai trò là một người mẹ có tấm lòng thương con sâu sắc, bà hiểu được chuyện anh Tràng lấy vợ âu cũng là chuyện hợp tình hợp lý, bởi Tràng đã tới cái tuổi ấy lâu lắm rồi. Thế nhưng vừa nghĩ thông chuyện này thì bà cụ lại chợt nghĩ tới chuyện khác, bao nhiêu mối toan lo bỗng đổ dồn về lòng người mẹ già tội nghiệp, bà thương con “người nào oán xót thương cho số kiếp con trai mình”, cũng lại tủi cho phận người làm mẹ, nhưng không thể lo nổi cho con một cái đám cưới, dựng vợ gả chồng tử tế cho con, để nó phải tự thân đi kiếm về một người vợ. Càng nghĩ bà lại càng lấy làm buồn lòng, xúc động “trong kẽ mắt lèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”. Ấy rồi ăn ở với nhau như thế “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”, là những suy nghĩ quẩn quanh trong lòng bà cụ Tứ. Một người mẹ thương con không nề hà, trách mắng con mình tự ý cưới gả, bởi bà hiểu phận mình và phận con, bà chỉ lo lắng mãi chuyện cuộc sống tương lai của hai vợ chồng Tràng, sợ con chịu khổ cực, rồi đương không lại liên lụy cả người khác nữa. Cái đám cưới chớp nhoáng khác thường này đem tới cho cụ niềm vui có dâu con, nhưng cũng lại mang tới cho bà biết bao nhiêu trằn trọc, rối rắm. u cũng là lòng người mẹ yêu thương và suy nghĩ cho con trăm bề. Cuối cùng sau khi đã đi qua những xúc động, buồn tủi, bà cụ Tứ đã nhanh chóng vực lại ý thức, thông suốt mọi vấn đề rằng “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy tới con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi trách nhiệm bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”. Bà nhanh chóng thấu hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh đáng thương của thị, đồng thời lòng bà đã dấy lên những tình cảm thương yêu người con dâu mới về. Bà nhẹ nhõm giục thị ngồi xuống, rồi nhỏ nhẹ khuyên giải, nhắc nhở động viên, vun vén vào cho hai vợ chồng Tràng, dặn dò họ cách ăn ở với nhau bằng những lời phấn khởi “Biết thế nào hở con, người nào giàu ba họ, người nào khó ba đời?”. Mặc dầu rằng trong lòng bà vẫn còn trăm mối tơ vò xúc cảm, nhưng không vì vậy mà bà làm những con bối rối, mất vui, bà quyết giữ cho riêng bà những lo lắng, những buồn tủi để cho đôi tân nhân một sự động viên trước khi bước vào thế cuộc mới.

Sau đêm tân hôn của vợ chồng Tràng, ngôi nhà tàn tạ dưới đôi bàn tay của mẹ chồng nàng dâu bỗng trở nên sáng sủa lạ thường, thấy được những đức tính tốt đẹp, sự thận trọng chu đáo của thị và cụ mừng lắm “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong bữa cơm sáng, dẫu rằng mâm cơm ngày đói kém trông thật thảm hại với mớ rau chuối thái mỏng và cháo loãng thế nhưng không khí trong nhà vẫn rất vui vẻ đầm ấm. Bà cụ thương con, thương dâu, thành thử bà cố xua đi cái nghèo đói đang hiện hữu trước mắt cặp tân nhân bằng cách liên tục kể những chuyện vui, kế hoạch làm ăn, nuôi gà, mở ra trước mắt những tương lai tốt đẹp đầy hy vọng. Đặc biệt người mẹ nghèo túng còn thết đãi con trai và con dâu bằng một nồi “chè khoán”, mà thực tế đó tà tà cháo cám để mừng tân hôn. Dù vị của món ăn này vô cùng cùng khó ăn thế nhưng đó là cả tấm lòng của một người mẹ thương con, bà cụ tội nghiệp vì nghèo xác xơ không lấy gì để làm cỗ làm bàn, thế nên chỉ còn cách cố kiếm cho được ít cám về nấu làm món ăn đổi bữa. Ở một nét suy diễn sâu xa nào đó thì nồi cháo cám còn mang ý tức là lời nhắc nhở của cụ Tứ dành cho những con về những ngày gian lao đang chờ đợi trước mắt, hy vọng rằng vợ chồng Tràng vẫn được vững lòng như ngày ngày hôm nay, ăn nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn ứ nơi cổ họng mà vẫn cảm thấy vui vẻ hạnh phúc.

Nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt là một hình tượng tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam xưa, cả thế cuộc hy sinh sinh vì con cái, yêu thương con sâu sắc bằng những tình cảm thấu hiểu, bao dung và vị tha. mặc dầu bà sống trong cảnh nghèo túng tột cùng, thế nhưng với sự từng trải của mình bà vẫn giành lấy được những sự lạc quan, vui vẻ trong cuộc sống, trở thành kim chỉ nam hướng vợ chồng Tràng tới một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.

————– HẾT —————–

Bài Cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt trên đây đã tìm hiểu cho những em thấy được tấm lòng thương con sâu sắc của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt, để tìm hiểu thêm về truyện ngắn này mời những em tham khảo thêm những bài viết tìm hiểu nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt, tìm hiểu trị giá hiện thực trong tác phẩm Vợ nhặt, tìm hiểu tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, tìm hiểu tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt.

Bản quyền bài viết thuộc Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: https://cmm.edu.vn

https://cmm.edu.vn/cam-nhan-ve-ve-dep-tinh-mau-tu-cua-ba-cu-tu-trong-tac-pham-vo-nhat/

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục

Related Posts