Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao

Đề bài: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao

hinh anh nguoi phu nu viet nam trong ca dao

Bạn đang xem bài: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao

Bài làm:

Bài mẫu số 1:

Từ thuở xa xưa cho tới ngày nay, ca dao nhường nhịn như đã trở thành một nét đẹp văn hóa luôn ngự trị trong tâm hồn của mỗi người con đất Việt. Những câu ca dao trong lời ru à ơi ngọt ngào của mẹ, của bà, nơi đó có cánh cò trắng phau, có lũy tre làng xanh mướt, có cả cánh đồng mỗi buổi chăn trâu, có hoa sen thơm ngọt trong đầm, có hình ảnh những người lao động chất phác thực thà,… Tất cả đã theo những lời ru êm đềm, chắp cánh bay vào tâm hồn của mỗi một con người từ thuở còn trong nôi, trong khi “Con chưa biết con cò, nhưng trong lời mẹ hát, có cánh cò đang bay”. Những câu ca dao giản dị, dân dã ấy chứa đựng nhiều thứ tình cảm quý giá như tình nghĩa vợ chồng muối mặn gừng cay, tình cảm gia đình tha thiết gắn bó, rồi cả tình mẫu tử thiêng liêng, nó cho ta thấy được vẻ đẹp của quê hương quốc gia, vẻ đẹp của những con người lao động chân tay chất phác thực thà. Và có nhẽ xuyên suốt trong kho tàng ca dao Việt Nam hiện lên nhiều nhất vẫn là hình ảnh người phụ nữ với biết bao vẻ đẹp đáng trân trọng cùng thân phận đầy đắng cay, vất vả của họ.

Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ vốn không có chỗ đứng trong xã hội, không nổi tiếng nói, phải chịu kiếp “ba chìm bảy nổi”, mặc số phận cho người ta quyết định, và điều đó thường đẩy người phụ nữ vào hoàn cảnh đau thường, khổ cực. Ví như trong những câu ca dao dưới đây, ta có thể phần nào thấu hiểu được nỗi đau thân phận khi ấy:

– “Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay người nào”

– “Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài những, hạt ra ruộng cày”

– “Thân em như thanh hao đầu hè
Phòng khi mưa gió đi về chùi chân

Chùi rồi lại vứt ra sân
Gọi người láng giềng có chân thì chùi”

Họ tự ví mình như tấm lụa đào, đẹp đẽ mềm mại, nhưng lại phải chịu cảnh long đong, chẳng khác chi món hàng tầm thường nơi phố chợ, người nào cũng có thể tiện tay mua bán. Rồi thì thân phận người phụ nữ cũng tựa hạt mưa sa, nếu như may mắn thì vào lầu son gác tía (ý chỉ cuộc sống hạnh phúc đủ đầy), nếu như xấu số lại phải chịu cảnh khổ nhục, đày ải (ở đây chỉ kiếp vợ lẽ, hay kiếp sống bần hàn). Đôi lúc còn rẻ rúng hơn nữa khi phải chịu kiếp “thanh hao đầu hè”, là thứ cho đàn ông giày đạp, tới một tí tự trọng cũng không thể có được. Xét lại nguồn cơn của tất cả những xấu số tới với người phụ nữ ấy chính là sự hủ lậu, lạc hậu của chế độ phong kiến, nơi ấy đàn ông là trời, tư tưởng trọng nam khinh nữ còn đầy ắp trong tâm trí của con người, kể cả trong tâm trí của những người phụ nữ. Họ buộc phải sống và cam chịu cái cảnh chồng chung, tuân thủ những lề lối khó tính, “công dung ngôn hạnh”, “tam tòng, tứ đức”, họ cả đời chỉ thấy chữ hi sinh, nhẫn nhịn mà không biết thế nào là chữ hạnh phúc, được yêu thương, trân trọng.

Người phụ nữ xưa có nhẽ chữ chuẩn xác nhất để nói về cuộc thế đầy xấu số của họ là chữ “tủi nhục”, thật vậy, vừa chịu những tủi hờn lại còn ngậm đắng nuốt cay sống trong nhục nhã, chỉ vì là phận nữ giới. Ngay khi còn trong vòng ta cha mẹ, người con gái cũng chẳng có bao nhiêu phân lượng, bởi quan niệm xưa con gái ngày mai lấy chồng cũng là bát nước hắt đi, thế nên họ phải chịu những bất công từ khi còn nhỏ:

“Cô kia cắt cỏ đồng màu
Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bày chia ba
Phận cô là gái được là bao nhiêu”

tới khi lấy chồng, người con gái lại chịu nỗi buồn tủi khi xa gia đình, thỉnh thoảng là xa cả quê hương, nỗi đau ấy thấm thía trong từng câu hát ca dao:

– “Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”

Rồi cảnh mẹ chồng nàng dâu, vốn xưa nay khác máu tanh lòng, người phụ nữ mang phận làm dâu phải nhẫn nhịn đắng cay để làm vừa lòng nhà chồng, đặc biệt đớn đau hơn nếu như vô phúc gặp phải kẻ vũ phu, mẹ chồng cay nghiệt thì đời không còn gì khổ ải hơn thế nữa.

“Trách cha, trách mẹ nhà chàng
Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau
Thực vàng ko phải thau đâu
Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng”

Vẫn chưa hết nếu như nói nỗi tội nghiệp xác đã khiến người phụ nữ phải nhiều phen vật vã thì nỗi đau ý thức trong kiếp chồng chung lại càng khiến người ta phải xót xa thêm nữa. Những ghen tuông ghét đố kỵ của phụ nữ với nhau, sự cay nghiệt ấy còn khốc liệt hơn rất nhiều nỗi đắng cay khác, họ phải chịu cảnh thiếu thốn tình cảm vợ chồng, những nỗi buồn phiền khi chồng đầu ấp tay gối với kẻ khác nào người nào có thấu chăng?

“Lấy chồng làm lẽ khổ thay
Đi cấy đi cày chị chẳng kể công
Tối tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu, nằm không chuồng bò
Mong chồng chồng chẳng xuống cho
tới khi chồng xuống, gà o o gáy dồn
Chém cha con gà kia, sao mày vội gáy dồn
Để tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con”

Và trong những bất công đầy đớn đau ấy người phụ nữ vẫn có những khát khao của riêng mình, khát khao được vượt lên số phận, bước qua thành kiến của xã hội, mang tới cho mình một cuộc sống hạnh phúc như:

-“Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”

– “Chồng con là cái nợ nần
Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm”.

Tuy nhiên khát khao mãi chỉ là khát khao, liệu dưới chế độ phong kiến khắc nghiệt, có người phụ nữ nào thực sự dám đứng lên đấu tranh? Hay lại là những lời phỉ nhổ, bàn ra tán vào, khiến họ mếch lòng tin vào cuộc sống? Nhưng dù cuộc sống có đày ải, chèn lấn người phụ nữ tới mức nào đi chăng nữa thì những vẻ đẹp xuất phát từ tâm hồn của họ vẫn mãi trường tồn với thời gian.

Đó là tấm lòng thủy chung son sắt, thương yêu lẫn nhau, đồng chồng đồng vợ, chia ngọt sẻ bùi, đầy rét mướt yêu thương, không liếc ngang dọc, đứng núi này trông núi nọ.

– “Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm, sông hương mặc người”

– “Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”

Họ sống có tình có nghĩa, trong tình yêu người phụ nữ đề cao sự chung thủy, tính nhẫn nại, lòng nhân hậu, thực thà, chất phác, chịu thương chịu thương chịu khó, không tham phú mà phụ bần.

– “Trăng tròn chỉ một đêm rằm
tơ duyên chỉ hứa hẹn một lần mà thôi”

– “Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đạo cương thường chớ đổi đừng thay
Dẫu có làm thành danh vọng hay rủi có hành khất ta cũng theo nhau”

thỉnh thoảng ta còn thấy người phụ nữ trong ca dao xưa hiện lên với những vẻ đẹp thật hồn nhiên trong sáng, không câu nệ tiểu tiết, họ thoải mái giãi bày tình cảm, tâm trạng của mình trong những câu ca dao.

– “Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người ngoài thế này”

– “Nhớ người nào bổi hổi bổi hổi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

-“Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”

thỉnh thoảng lại thấy những vẻ đẹp thật ý nhị, dịu dàng, tinh tế trong tâm hồn những cô gái trẻ.

“Sáng ngày tôi đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn

Hai anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu

Thưa rằng tôi đi hái dâu
Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn

Thưa rằng bác bỏ mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người”

Có thể thấy qua cao dao Việt Nam xưa hình ảnh người phụ nữ hiện lên với đủ mọi cung bậc xúc cảm từ những bất công, khổ hạnh do thân phận đàn trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Thế nhưng dù có biết bao khổ ải, xấu số thì những vẻ đẹp trong tâm hồn của người phụ nữ xưa chưa một lúc nào thôi tỏa sáng, trái lại chúng ngày một rực rỡ hơn, đó là những phẩm chất tốt đẹp như lòng thủy chung son sắt, tấm lòng nhân hậu, ý thức chịu thương chịu thương chịu khó, biết đồng cam cộng khổ, cùng những vẻ đẹp tinh tế, ý nhị khác.

Bài mẫu số 2:

Trong toàn cầu ca dao chứa đựng muôn sắc màu tình cảm và nỗi niềm tâm tư, những câu ca viết về đề tài người phụ nữ chiếm một vị trí quan trọng với số lượng phong phú và đa dạng. Khi những câu ca đó đựng lên, chúng ta có thể thấy được bức chân dung toàn diện về người phụ nữ với số phận lênh đênh, chìm nổi cũng như vẻ đẹp cùng sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ của họ.

Xã hội phong kiến xưa với những thành kiến khắc nghiệt đã dẫn tới những hệ lụy thế tất của chế độ trọng nam khinh nữ. Những quan niệm thuộc phạm trù Nho giáo như: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” trở thành sợi dây vô hình trói buộc người phụ nữ: “Phận gái tứ đức vẹn tuyền/ Công, dung, ngôn, hạnh giữ gìn chớ sai”, khiến họ bị tước đoạt đi mọi quyền lợi:

“Em như con hạc đầu đình
Muốn bay không đựng nổi mình mà bay”

Trong hoàn cảnh bị trói buộc, người phụ nữ muốn đựng cánh bay cao bay xa nhưng không thể nào vượt thoát. Bởi vậy, họ tìm tới ca dao để giãi bày những tâm tư nỗi niềm trong những lúc tủi thân tủi phận. Người phụ nữ ý thức được sự tranh chấp, đối lập giữa vẻ đẹp và số phận, tự thương lấy mình thông qua những câu ca dao than thân để tâm sự, giãi bày hoàn cảnh:

“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay người nào”

Hay như:

“Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài những, hạt ra ruộng cày”

Những câu ca than thân đựng lên với những cung bậc xúc cảm phong phú, đa dạng. Đó có thể là nỗi niềm của người nông dân chân lấm tay bùn, có thể là tiếng ca của những người có số phận xấu số,… Và trong bức tranh của những thân phận bé nhỏ, người phụ nữ xuất hiện với cách diễn đạt thân thuộc qua mô-típ “Thân em”- những tín hiệu thẩm mĩ mang trong mình những nội dung nhất định. Người phụ nữ được ví với những sự vật tốt đẹp như “tấm lụa đào”, “hạt mưa sa” nhưng lại không được trân trọng, bởi trong xã hội phong kiến xưa, trị giá của họ không hề được coi trọng và họ không thể làm chủ số phận của mình. Những thành kiến khó tính khiến cho số phận của người phụ nữ rơi vào vòng xoáy của sự lênh đênh, chìm nổi: “Phất phơ giữa chợ biết vào tay người nào” và phụ thuộc vào sự may rủi: “Hạt vào đài những, hạt ra ruộng cày”. Họ trở thành nạn nhân của chế độ nam quyền, người đàn ông có thể “năm thê bảy thiếp”, nhưng người phụ nữ thì “chuyên chính một chồng”. Đắng cay làm sao thân phận làm lẽ:

“Lấy chồng làm lẽ khổ thay
Đi cấy đi cày chị chẳng kể công”

Sống trong cảnh chồng chung, người phụ nữ phải chịu đựng những thiệt thòi về vật chất cũng như những tấm tức về ý thức. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương – bà Chúa thơ Nôm cũng đã từng viết: “Chém cha cái kiếp chồng chung” để đựng lên tiếng nói đầy căm phẫn về phận làm lẽ. tương tự, trong xã hội phong kiến xưa, mẫu số chung của người phụ nữ là sự lênh đênh, chìm nổi và không làm chủ được số phận của mình.

Tuy sống trong xã hội đầy rẫy những bất công của tư tưởng trọng nam khinh nữ: “Anh như chỉ óng thuê cờ/ Em như rau má mọc bờ giếng thơi” và rơi vào vòng xoáy lênh đênh, chìm nổi nhưng người phụ nữ vẫn giữ gìn những phẩm chất tốt đẹp. Đó trước hết là vẻ đẹp của sự thủy chung son sắt và luôn làm tròn trách nhiệm của mình:

“Chồng giận thì vợ làm lành
mồm cười chúm chím thưa anh giận gì?

Thưa anh anh giận chi em
Muốn lấy vợ bé thì em lấy cho”

 Người vợ trong câu ca trên hiện lên trong vẻ đẹp về cách xử sự. Người phụ nữ vô cùng khéo léo khi bông đùa một cách tinh tế để xoa dịu cơn giận của chồng. Dù trong ở bất cứ hoàn cảnh nào thì họ vẫn giữ trọn tấm lòng thủy chung son sắt: “Chồng em áo rách em thương/ Chồng người áo ấm xông hương mặc người”.

tương tự, qua toàn cầu ca dao phong phú, đa dạng, chúng ta có thể thấy được thân phận lênh đênh, chìm nổi của người phụ nữ trong vòng xoáy của sự lênh đênh, chìm nổi và đầy rẫy những bất công. Nhưng dù sống trong hoàn cảnh nào, họ vẫn ngời sáng với những phẩm chất tốt đẹp.

kế bên bài viết về Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao, học sinh và thầy giáo tham khảo thêm những bài làm văn mẫu khác như cảm tưởng về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua một số bài ca dao than thân, Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua một số bài ca dao than thân, tìm hiểu một số bài ca dao để làm vượt bậc số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, Cảm nhận của em về số phận người phụ nữ qua những câu ca dao than thân, yêu thương, tình nghĩa… Những bài văn mẫu cùng hướng dẫn làm văn cụ thể hy vọng sẽ giúp những bạn học và làm văn đạt kết quả cao nhất.

Bản quyền bài viết thuộc Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: https://cmm.edu.vn

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục

Related Posts