Đề bài: Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của tác giả Nguyễn Đình Chiểu.
Bạn đang xem bài: Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc
Một số bài văn mẫu về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc
I. Dàn ý Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc
1. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của tác giả Nguyễn Đình Chiểu
– Khái quát chung về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc trong bài thơ.
2. Thân bài
a. Hình ảnh người nông dân trong cuộc sống thường nhật
– Là những người nông dân thông thường, chất phác, chuyên cần: “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
– Hoàn toàn xa lạ với việc binh đao, tập súng, tập khiên; chưa từng trải qua sự rèn luyện nơi “cung ngựa”, “trường nhung”
b. Hình ảnh người nông dân trong trận nghĩa đánh Tây
– Người nông dân hiện lên qua ý chí căm thù giặc: “…muốn tới ăn gan”, “…muốn ra cắn cổ”.
– Họ tự giác đứng lên chống chọi vì nghĩa lớn, nguyện sẵn sàng xả thân, hi sinh để bảo vệ quốc gia: “…chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
– Trong trận nghĩa đánh Tây, họ xuất hiện với tư thế kiên cường, quật cường và hành động quả cảm, mạnh mẽ: “đạp rào lướt tới”; “xô cửa xông vào”.
– Mặc dù hi sinh trong trận đụng độ nhưng hình tượng của họ trở nên bất tử.
c. Nghệ thuật xây dựng hình tượng người nông dân
– văn pháp hiện thực, khắc họa trung thực, toàn diện người nông dân.
– Vận dụng nhiều giải pháp tu từ: so sánh, đối lập, đặc tả,..
3. Kết bài
Khái quát về hình tượng người nông dân- nghĩa sĩ.
II. Bài văn mẫu Hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
1. Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc ngắn, mẫu số 1 (Chuẩn):
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”
Hai câu thơ trên đã thể hiện quan niệm sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu – “Ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ dân tộc” (theo cách nói của Phạm Văn Đồng). Một trong những mạch ngầm xuyên suốt trong tư tưởng về “đạo” của Nguyễn Đình Chiểu chính là “yêu nước thương dân”. Điều này đã được thể hiện qua rất nhiều tác phẩm, tiêu biểu là “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Bằng niềm xúc động mạnh mẽ trước sự hi sinh của những người nông dân, tác giả đã xây dựng thành công bức tượng đài bi tráng, trung thực, hào hùng ý thức yêu nước mãnh liệt cùng quyết tâm chống chọi bảo vệ quê hương, quốc gia.
Mở đầu tác phẩm, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã tái tạo bối cảnh thời đại lúc bấy giờ qua những câu văn giàu xúc cảm: “Súng giặc đất rền/ Lòng dân trời tỏ”. Đó là bối cảnh gắn liền với tiếng súng cùng bước chân xâm lược của thực dân Pháp đối với dân tộc ta, nhưng cũng chính trong thời đại căng thẳng, sục sôi và quyết liệt đó, hình tượng những người nông dân nghĩa sĩ vụt sáng với tư thế hiên ngang, lẫm liệt. Trước đây, họ chỉ là những con người quẩn quanh lối sống bình dị qua sự vất vả, tảo tần sớm hôm cùng ruộng đồng, nương bãi:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn,
Toan lo nghèo đói”
Bằng những câu thơ ngắn, tiếng nói thơ bình dị, tác giả đã tái tạo thành công bức chân dung người nông dân trong cuộc sống thường nhật: “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ” và hoàn toàn xa lạ với việc binh đao. Họ chưa từng trải qua sự rèn luyện nơi “cung ngựa”, “trường nhung” và hoàn toàn lạ lẫm đối với những công việc như tập súng, tập khiên. Thông qua phần Lung khởi, tác giả đã hồi ức lại hình tượng người nông dân nghĩa sĩ với những phẩm chất chuyên cần, lam lũ, đặc biệt là ý thức căm thù giặc sâu sắc: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Những câu văn gợi liên tưởng tới những ý thức sục sôi chống chọi của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn trong tác phẩm “Hịch tướng sĩ”: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. tương tự, qua những động từ mạnh như “ăn gan”, “cắn cổ”, chúng ta có thể thấy được ý thức căm thù giặc sâu sắc của người nông dân khi chứng kiến giặc ngoại xâm xâm chiếm lãnh thổ.
Xuất phát từ ý chí đánh đuổi giặc ngoại xâm đó, họ tự giác đứng lên chống chọi vì nghĩa lớn: “Nào đợi người nào đòi người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Người nông dân tự nguyện sẵn sàng xả thân, hi sinh để bảo vệ quốc gia. Bởi vậy, trong trận nghĩa đánh Tây, họ xuất hiện với tư thế kiên cường, quật cường và hành động quả cảm, mạnh mẽ: “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không”; “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có…”. Sự quyết liệt được tô đậm hơn nữa thông qua giải pháp liệt kê: “Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ”. Bởi vậy, dù trang bị, vũ khí hết sức thô sơ: “manh áo vải”, “ngọn tầm vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay”,… nhưng họ vẫn bước ra chiến trường với tư thế dũng mãnh của người làm chủ: “cũng chém rớt đầu quan hai họ”.
Tác phẩm kết thúc bằng lời khẳng định về sự hi sinh cao đẹp của người nông dân – nghĩa sĩ qua câu văn ngắn gọn tám chữ: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”. Từ ngữ “nghìn năm” đã gợi mở phạm trù thời gian vĩnh hằng để ngợi ca vong hồn bất tử của người nông dân.
Để khắc họa thành công hình tượng người nông dân, nghĩa sĩ, tác giả đã sử dụng văn pháp hiện thực. Đây là một trong những đóng góp mới mẻ trong nền văn học trung đại – giai đoạn chủ yếu sử dụng văn pháp ước lệ tượng trưng. Nhờ vậy, hình tượng người nông dân đã hiện lên trung thực qua nhiều nét vẽ, từ dáng vẻ ngoại hình tới cuộc sống lao động cùng những tâm tư, suy nghĩ và hành động. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều giải pháp tu từ nghệ thuật để tăng sức gợi hình, gợi cảm như so sánh (“trông tin quan như thời hạn trông mưa, ghét thói mọi như nông gia ghét cỏ”), đối lập, đặc tả,…
tương tự, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã tái tạo thành công bức chân dung người nông dân, vượt trội là ý thức yêu nước, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết tâm chống lại giặc ngoại xâm. Đó là những phẩm chất chung của nhân dân ta qua mọi thời đại, làm nên trị giá truyền thống cốt lõi của dân tộc. Tuy nhiên, qua việc sử dụng văn pháp hiện thực, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hình tượng người nông dân với những nét mới mẻ của sự bi tráng trong thời đại văn học trung đại Việt Nam.
2. Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc, mẫu số 2:
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn tài giỏi khi đã nêu lên hình ảnh người nông dân trong văn học mà trong suốt những thời gian qua chưa được nhắc tới thông qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.Trong bài văn tế, hình ảnh người nông dân được khắc hoạ rõ ràng. Hình ảnh người nông dân nghèo khổ chỉ biết làm ăn một cách thầm lặng, quanh năm chỉ biết ruộng trâu, chuyên lao động động.Họ là những người nông dân yêu ghét rõ ràng , căm thù quyết không đội trời chung với giặc khi thực dân Pháp xâm lược.Họ đã can đảm chống chọi và can đảm hi sinh, trong lời văn là những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng không hề rơi nước mắt. Đó chính là cái hay của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp khởi đầu một quá trình mở rộng tiến công ra những vùng phụ cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công… Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những nghĩa sĩ mà là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã dũng cảm đứng lên chống chọi tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, xoá sổ được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân.Theo yêu cầu của tuần vũ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc“, để đọc tại buổi truy điệu những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.
Như chúng ta biết thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “Tác phẩm nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi người nào. Hùng tráng ở nội dung chống chọi vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của quốc gia và dân tộc. Mở đầu bài văn tế là hai tiếng “hỡi ơi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của thi sĩ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ” có ý tức là Tổ quốc lâm nguy, súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương. Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút làm ăn một cách tội nghiệp đã dũng cảm đứng lên đánh giặc giành lại .nền độc lập cho Tổ quốc thân yêu mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lòng yêu nước có trong mỗi con người. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Hình ảnh chính của bài Văn tế chính là những đội viên nghĩa quân Cần Giuộc.
Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc thế “cui cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, chuyên cần là chịu thương chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với cung ngựa trường nhung:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng”
Cui cút làm ăn: tức là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp.Dù mỏi mệt hay vất vả thì họ vẫn lặng thầm, lặng lẽ chịu đựnng một mình mà chẳng nói với người nào .”Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng” đã hiện lên đầy đủ một vòng đời không lối thoát của người nông dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ. khởi đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo túng.Họ là những người nông dân mà quanh năm chỉ biết làm với làm, chưa hề biết tới cái gì gọi là cung, cái gì gọi là ngựa.
“Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
Họ là lớp người đông đảo, sống sắp gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc: “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Thế nhưng khi quốc gia quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn ấy đã đứng lên tự nguyện làm quân tự nguyện đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng mà họ coi là bát cơm manh áo của họ là cái nghĩa lớn mà họ “mến” là theo đuổi.
“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có 1 chí hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Trong tác bài Văn Tế Nguyễn Đình Chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược.Giặc xâm lược được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải” . Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. vậy mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”. Bài Văn tế đã tái tạo lại những giờ phút giao tranh khốc liệt của những đội viên nghĩa quân với giặc Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có” . “Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.
Không khí trận mạc nổi tiếng trống thúc quân thúc giục, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. những nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tiến công như vũ bão, vùng vẫy giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”.Giọng văn của Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm ý thức dũng cảm, kiên cường quật cường của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.Ông cũng thể hiện rõ lòng khâm phục đối với người nghĩa sĩ nông dân.Từ trước tới nay, đây là tác phẩm trước hết có đưa hình ảnh của nghĩa sĩ nông dân. Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn nổi tiếng khóc của mẹ già nơi quê nhà trông chờ con về, vợ thương nhớ về chồng, con ngóng cha về ngh thống thiết, bi người nào. . Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng:
“Những lăm lòng nghĩa lâu sử dụng; đâu biết xác phàm vội bỏ”.
quốc gia, quê hương vô cùng tiếc thương. Một không gian rông lớn ngậm ngùi, đớn đau: “Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ 2 hàng lệ nhỏ”. Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đớn đau của người vợ trẻ, nỗi thương nhớ của con cái được nói tới vô cùng xúc động: “đớn đau bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. những nghĩa sĩ đã sống can đảm chống chọi, và hi sinh rất vẻ vang. Tấm gương chống chọi và hi sinh của họ là để ta biết rằng quốc gia nào cũng là độc lập, tự chủ. Không người nào được quyền xâm chiếm. Họ là tấm gương sáng rất đáng tự hào:
“Ôi! Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”.
Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài học quý báu mà họ đã để lại. Thà chết vinh còn hơn sống nhục.Họ là tấm gương sáng để dân tộc Việt Nam noi theo mà làm, là ngòn đèn soi sáng cho dân tộc Việt Nam. “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, vong hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;…”. Công lao của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc sẽ đời đời kiếp kiếp nằm trong lòng mỗi người dân Việt Nam về tấm gương anh dung, sẵn sàng xả thân vì độc lập Tổ Quốc. “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”.
Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khẳng định , tấm lòng yêu thương dân thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu.”Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và hàm ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đã can đảm chống chọi chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập vững chắc của quê nhà, nơi họ đã sinh ra và lớn lên hay đó là Tổ quốc mà đối với họ “nó”rất quan trọng trong cuộc thế.Nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc chính là tấm gương về ý thức dũng cảm, lòng yêu nước sâu sắc để cho những thế hệ đi sau khi đọc được bài văn Tế này mà noi theo để xây dựng quốc gia càng ngày giàu mạnh hơn.
Bài tập làm văn số 3, Ngữ văn 11 tập 1 là nội nội dung quan trọng có thể đánh giá năng lực viết bài cũng như điểm số của những em học sinh trong học kì 1 này. Để đạt kết quả cao trong bài tập làm văn số 3, kế bên đề số 3: Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của tác giả Nguyễn Đình Chiểu, những em học sinh có thể tham khảo thêm bài mẫu cho đề số 1,2,4: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích: “Đầu lòng hai ả tố nữ… Tường đông ong bướm đi về mặc người nào.” (Nguyễn Du, Truyện Kiều), “Nguyễn Khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thư lại có điểm khác nhau”. Anh (chị) hãy làm rõ ý kiến trên, Những cảm nhận sâu sắc anh (chị) qua tìm hiểu cuộc thế và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu mà Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung đã giới thiệu nhé.
3. Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc, mẫu số 3:
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc. cuộc thế ông phải trải qua nhiều thảm kịch khổ đau và xấu số. có nhẽ vì vậy mà hơn người nào hết ông càng cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta. Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau khi chiếm được thành Gia Định chúng khởi đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tiến công ra những vùng phụ cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn tới. những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đả đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa quân, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần vũ Gia Định ủy quyền Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận hôm sớm 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế không những thể hiện được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với những nghĩa sĩ Cần Giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp trung thực, bi tráng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.
hỡi ơi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ..
Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp quốc gia đều rền vang tiếng súng. Chính sự từ gian nguy, đau thương đó, tình yêu quốc gia của những người nông dân thông thường mới được thể hiện, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được tỏ bày cùng trời đất.
Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được thể hiện một cách rõ rệt và sâu sắc hơn khi tác giả đã liên tục sử dụng giải pháp so sánh đối lập trong những câu văn tiếp sau.
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo túng,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng
Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. Họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi toan lo ” miếng cơm manh áo” giản dị dời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nông gia: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa biết tới “cung ngựa”, “trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen trận mạc, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà mà đứng lên đánh giặc.
trong khi “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ ngóng trông mệnh lệnh của triều đình: “trông tin quan như trời hạn trồng mưa”.
Thì ra cái thảm kịch xót xa là ở chỗ này: triều đình nhu nhược, không hiểu được lòng dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì không thể kiềm chế:
Mùi tinh rán vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nông gia ghét cỏ.
… Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.
Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. Lòng yêu quốc gia tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã khiến cho họ trở nên đẹp đẽ, óng ánh.
Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã biến thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.
Nào đợi người nào đòi, người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân khi phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ “bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện đứng lên chống chọi để bảo vệ giang sơn, tổ quốc, ấy là nét đẹp bản tính nhất trong hành động của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. tới đây không chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn mà ngay cả vẻ đẹp trong hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên một cách rõ rệt. Từ cái động lực ý thức tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chống giặc ngoại xâm. Không chờ bày bố mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”. Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm khiến cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. những người nghĩa sĩ nhường nhịn như đóng vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đối mặt với quân thù vững mạnh với ” đạn nhỏ, đạn to”, “táu thiếc, tàu đồng” vứi đội quân xâm lược nhà nghề, vậy mà vũ khí để họ sử dụng chống lại chỉ là “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có ” dao phay” và chỉ là những “hỏa mai đánh bàng rơm con cúi”. Thử hỏi rằng đem những thứ đó ra đối nghịch với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. Cái sự thực phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn thảm kịch của những người nghĩa sĩ cần Giuộc, cũng là tấn thảm kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy. Tấn thảm kịch này đã đưa tới cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.
Nhưng cũng chính từ cái tấn thảm kịch này mà đã làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. Bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi thường, chính họ đã chứa lên dược bản anh hùng ca chiến tranh của dân tộc. Bất chấp sự nghiêm trọng, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh chống chọi, họ vẫn quyết đấu và quyết thắng, lấy ý thức xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với quân thù. Hoàn cảnh chống chọi chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ chống chọi bằng chính tỉnh thần sự quyết đấu không sợ hi sinh nên hiệu quả chống chọi lại vô cùng lớn.
Chỉ với những vũ khí thô sơ như:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo sử dụng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh…
Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, ý thức dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, nhường nhịn như đã làm lu mờ đi cái thời kì đen tối của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.
Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khắc nên hình tượng nhữg người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho ý thức yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của ông cha ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một thảm kịch lớn của dân tộc – thảm kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tối của dân tộc ta – thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái thảm kịch lớn ấy, ý thức quật cường của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc – họ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.
4. Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc, mẫu số 4:
Người nông dân Việt Nam yêu nước chống ngoại xâm đã xuất hiện từ rất lâu, ít nhất cũng trên mười thế kỉ nay. Nhưng trong văn học, hình ảnh người nông dân ấy chỉ thực sự xuất hiện vào nửa cuối thế kỉ XIX với bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyền Đình Chiểu. Có thể nói, với bài văn tế này Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật trước hết về người nông dân nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là một hình tượng rất đẹp, rất trung thực đầy tính bi tráng – bi thương mà hào hùng – đúng như cuộc chống chọi mà nhân dân Việt Nam đã tiến hành suốt nửa sau thế kỉ XIX, vì cuộc sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ quốc mình.
Tuy vậy, dù buồn thương, thi sĩ không bao giờ vô vọng. Với niềm tin vào sức mạnh muôn thuở của Tổ quốc, tin ở lòng yêu nước của những người dân ; dân lân bình dị và thiết tha, thi sĩ luôn luôn hướng về một tương lai tốt đẹp. Non sông rồi sẽ sạch bóng quân xâm lược, mối nhục mất nước rồi sẽ được rửa sạch làu làu:
Chừng nào Thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.
(Ngóng gió đông)
Đó là một niềm tin cảm động và mạnh mẽ. có nhẽ trước Nguyền Đình Chiểu, chưa có một thi sĩ nào sáng tác với một ý thức rõ rệt như ông:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Cái đạo của ông không là gì khác ngoài đạo yêu nước thương dân. Đó là nguồn gốc khiến thơ văn ông có sức rung cảm lớn, nguồn gốc đưa tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu đứng vào vị trí vẻ vang trong nền văn học nước nhà.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất hợp lí, rất sắc khi mở đầu khúc bi ca của mình:
hỡi ơi!
Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
Quả là, qua cuộc chống chọi này, qua cái thử thách khắc nghiệt này, bán chất trọn vẹn, tấm lòng yêu nước của những người nông dân thông thường này, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn họ, mới được tỏ bày cùng trời đất. Trước đây, họ vẫn tồn tại, nhưng nào người nào biết tới họ. Họ vẫn có đó, sống đó, nhưng sống trong thầm lặng của sự quên lãng. Nguyễn Đình Chiểu, với sự thông cảm cao độ, trông thấy rằng cuộc sống của họ đã từng vạt vả xiết bao:
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn,
Toan lo nghèo túng.
Bao nhiêu lượng thông tin chúa đựng trong tám tiếng ngắn ngủi ấy đã nói với chúng ta rất đầy đủ về tình cảnh của người nông dân cần Giuộc, người nông dân lục tính, cũng là người nông dân Việt Nam ngày đó. bóng vía của họ, nhỏ bé và đơn chiếc trong cuộc sống, hùi hụi, lầm lũi, lặng lẽ gập người trên những cánh đồng, oằn vai cam chịu bao nhiêu gánh nặng của cuộc sống, sự khắc nghiệt và những tai họa từ thiên nhiên, từ xã hội, như hiện lên rõ mồn một qua từng chữ. Tưởng như, chừng ấy toan lo vất vả cũng đã quá đủ đối với họ; tưởng như họ, những người nông dân vất vả ấy, chẳng còn có thể nghĩ gì thêm, toan lo gì thêm ngoài những “toan lo nghèo túng” vốn đã quá lớn lao ấy.
vậy mà không, quân xâm lược đã xâm chiếm quốc gia, đã tới tận xóm làng, đã tới tận ngôi nhà của họ. Và, những con người đang cúi xuống ấy bỗng đứng phắt dậy, vươn vai, và họ chợt trở thành người khổng lồ như chú bé làng Gióng mày nghìn năm xưa khi chợt nghe lời truyền của sứ thần. Nhưng có một điều cơ bản rất khác xưa là tiếng rao truyền cứu nước không phải phát đi từ cung điện nhà vua mà đã được phát đi từ chính trái tim của những người nông dân Cần Giuộc. Nó chính là lòng căm thù giặc sục sôi vì hành động cướp nước:
Mùi tinh rán vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nông gia ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bòng che trắng lốp: muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì: muốn ra cắn cổ
Như một phản ứng hạt nhân thế tất, lòng căm thù giặc cao độ đã làm phát sinh một khát vọng cao độ: Khát vọng đánh giặc. Đó là một ước muốn hoàn toàn tự nhiên và cũng hoàn toàn tự nguyện:
Nào đợi người nào đòi người nào bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu thật đã khác hoàn toàn với người nông dân chỉ trước đo không bao lâu “Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” khi phải sung làm lính đi biên thủ phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua. Tự nguyện chống chọi, ấy là nét bản tính nhất trong hành động của mọi người nghĩa sĩ thực sự. Phải chăng đó là sự tiếp tục giữa nghĩa sĩ Cần Giuộc đánh ngoại xâm với chàng tráng sĩ Lục Vân Tiên đánh cướp mà động cơ duy nhất:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Trong mọi việc nghĩa, không có việc nào lớn hơn việc cứu nước. Thấy việc nghĩa thì phải làm, làm một cách vô tư, không vụ lợi, không chần chừ, không cần đợi có đủ điều kiện mới làm. Đó là chỗ thảm kịch của người nông dân Cần Giuộc, đó cũng là chỗ hùng ca của người nghĩa sĩ sắp Giuộc. thảm kịch vì:
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng,
Trông tin quan như trời hạn trông mưa.
Họ khởi đầu cuộc chống chọi vào lúc lẽ ra triều đình phong kiến cùng quan quân của họ đã phải tiến hành cuộc chống chọi ấy từ lâu nhưng lại “án binh bất động” một cách khó hiểu. thảm kịch còn cho họ là những người:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ,
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy… tay vốn quen làm
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ… mắt chưa từng ngó
Bước vào chỗ sống chết của chiến trường mà những con người ấy chỉ mang theo những trang bị vừa đủ để làm những người cày ruộng. Trước giặc dữ là những tên lính nhà nghề vừa có đủ thứ “tàu thiếc tàu đông”, ”đạn nhỏ đạn to”, họ chỉ là những người nông dân không có tri thức gì vê trận mạc, chỉ có “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”. Cuộc chống chọi mới chênh lệch làm sao! Kết thúc cuộc chống chọi ấy thế nào thì đã rõ ràng rồi. Đó là tấn thảm kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn thảm kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy, tấn thảm kịch đã đưa tới cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.
Nhưng chính trong cái thảm kịch ấy, bản hùng ca của cuộc sống đã chứa lên. Hùng ca trước hết là ở sự ngoan cường của những con người quyết thắng lợi, vượt lên trên nỗi lo thất bại để thắng lợi, lấy ý thức, xả thân vì nghĩa để bù đắp hết mọi sự thiếu hụt, chênh lệch của mình so với quân thù:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì; trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có…
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Thật là phấn chấn, thật là hào hùng, thật là hả dạ. Đúng là họ đã chống chọi như những người lính tuyệt vời dũng cảm. Ở đây, sức mạnh ý thức đã phát huy tới mức độ tối đa và trong chừng mực nào đó, đã tỏ rõ hiệu quả của nó trước sức mạnh của chiến thuật, của vũ khí, trang bị:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia Gươm đeo sử dụng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
… Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm cho mã tà ma lí hồn kinh…
Trong văn học Việt Nam, cho tới Nguyễn Đình Chiểu, quả chưa hề có một bức tranh hào hùng như thế về tư thế chống chọi của người lính áo vải. Hình ảnh người nông dân ở đây là sự kết tinh và thăng hoa ở mức độ cao nhất những gì vốn là bản tính của họ. Trong những giây phút tuyệt vời ấy, người nông dân Cần Giuộc đã đi vào vĩnh cửu.
Quả Nguyền Đình Chiểu đã tạc nên một bức tượng đài của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhưng đây không phải là tượng đài của một người, mà của nhiều người, của một tập thể anh hùng. Không có cái tập thể ấy, không làm sao có được sự hòa hợp tuyệt đẹp, cái khí thế bừng bừng áp đảo hiểm nghèo, áp đảo cái chết, với những “đạp rào lướt tới”, “xô của xang vào”, với những “kẻ đâm ngang, người chém ngược”, “bọn hè trước, lũ ó sau” như thế dược.
Bức tượng đài của Nguyễn Đình Chiểu chỉ có một tên gọi chung là “Nghĩa sĩ Cần Giuộc”, còn mỗi người nghĩa sĩ trên đó đều vô danh. Họ đã sống những cuộc thế của quần chúng vô danh và chết cái chết của quần chúng vô danh. Họ không hề tìm một điều gì cho riêng mình khi chống chọi. Cái điều duy nhất họ gửi lại cho đòi, điều mà Nguyễn Đình Chiểu nêu lên như một tiêu chí chung bên dưới bức tượng đài của họ, ấy là cái triết lí sống này:
Chết vinh hơn sống nhục.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ
Hoàn thành bức tượng đài của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã để một phần cuối cho những lời ngợi ca, tiếc thương và thắp những nén hương kính trọng:
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên đàn Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ
Cuộc tiến công của mấy chục nghĩa quân vào đồn cần Giuộc của thực dân Pháp năm 1863 là cuộc tiến công đầu tiến của quân dân Việt Nam mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Số lượng thiệt hại mà những nghĩa quân đã gây cho giặc có nhẽ cũng không là bao nhiêu. Song, hiệu quả thực sự mà họ tạo nên cho cuộc kháng chiến, cho lịch sử dân tộc, chấp nhận yêu nước tha thiết và vô tư của họ, bằng ý thức sẵn sàng chống chọi, sự dũng cảm vô điều kiện và tuyệt vời của họ, thì to lớn vô cùng. Họ xứng đáng được tạc thành tượng đài để đi vào bất tử. thi sĩ Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ của người nghệ sĩ nhân dân khi tạc nên bức tượng đài ấy.
Trên đây là một số bài mẫu nêu lên hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc, từ đó giúp người đọc có cái nhìn rõ hơn về cuộc khởi nghĩa Cần Giuộc và những người tham gia cuộc khởi nghĩa này.
kế bên Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc những em cần tìm hiểu thêm những nội dung tìm hiểu, soạn bài khác như tìm hiểu bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay phần Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, tác giả để bổ sung thêm những tri thức quan trọng về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của mình.
Bản quyền bài viết thuộc Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://cmm.edu.vn
https://cmm.edu.vn/hinh-tuong-nguoi-nong-dan-nghia-si-can-giuoc/
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục