Nêu cảm nhận của em về bài thơ Chiều xuân – Anh Thơ

Đề bài:

Nêu cảm nhận của em về bài thơ Chiều xuân – Anh Thơ

Bạn đang xem bài: Nêu cảm nhận của em về bài thơ Chiều xuân – Anh Thơ

Cảm nhận bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ là một trong những đề bài phổ biến của bài Thông tin thêm trong SGK Ngữ văn 11. Vì vậy mà tuyển tập Văn mẫu 11 của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung cũng tổng hợp đầy đủ những nội dung phục vụ để học sinh có thể làm được bài văn cảm nhận đầy đủ và xúc cảm.

Tham khảo

:
Soạn bài Chiều xuân – Anh Thơ

Văn mẫu Cảm nhận của em về bài thơ Chiều xuân – Anh Thơ

Cảm nhận bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ mẫu 1

Mùa xuân là mùa của cây cối sinh sôi nảy nở, mùa xuân cũng là mùa của biết bao nhiêu thế hệ thi sĩ đắm chìm vào những bài thơ mô tả xuân. nếu như như đa số những thi sĩ nói tới cái màu sắc yêu kiều tinh khôi của xuân vào buổi sáng bình mình xây xanh nắng dội thì Anh thư lại chọn lựa riêng cho mình tả mùa xuân vào buổi chiều. Và bài thơ Chiều xuân ra đời như thế, qua đây ta thấy được thêm những nét đẹp của mùa xuân vào buổi chiều – vẻ đẹp êm đềm trên những cánh đồng quê hương dịu ngọt.

thi sĩ vẽ lên một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều, bức tranh ấy cũng khởi đầu bằng hình ảnh của mưa xuân êm đềm:

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.

Không gian mở ra trên bến đò xưa cũ và bức tranh mùa xuân hiên lên có sự có cả âm thanh, màu sắc, hình ảnh. Tứ thơ mùa xuân lan toả trong từng hình ảnh từng chi tiết, từng lời thơ. Đó là những hình ảnh đặc trưng của mùa xuân xứ Bắc: mưa bụi êm đềm, chùm hoa xoan tím rụng trên quán nhỏ… hình ảnh cơn mưa bụi gợi lên sự êm đềm phảng phất của những hạt mưa xuân nhỏ nhẹ êm êm.

Chiều xuân cũng vắng như những buổi chiều, con đò được nhân hoá như biết lười biếng để mặc cho nước trôi lững lờ cong mình thì nằm im lìm trên bến vắng đó. Trước mắt ta là một cảnh tượng hữu tình sông nước bến vắng với con đò. Anh Thơ không phải tìm đâu xa mà những hình ảnh thông thường nhưng lại nên thơ ấy đã như phô trước mắt chỉ cần một tâm hồn biết cảm nhận là toát lên những lời thơ tuyệt vời. Quán nước cũng lim lìm trong sự vắng lặng ấy, chòm xoan hoa tím rụng tơi bời. Mùa chiều vốn tàn tạ nhưng mùa xuân thì nảy nở sinh sôi. Vậy Anh Thơ đã cho ta biết thêm một vẻ đẹp nhẹ nhõm lững lờ của mùa xuân nữa. Mọi thứ đều hoạt động một cách nhẹ nhõm phảng phất buồn trong sự vắng lặng của con người.

Sang khổ thơ thứ hai lại là một phiên cảnh khác, không phải là cảnh bến vắng con đò lười nữa mà là cảnh mùa xuân trên những triền đê:

Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.

Màu sắc của cỏ cũng trở nên thật dịu nhẹ làm sao, sắc cỏ dịu dàng tràm biếc cỏ. Sắc màu ấy không rực rỡ không chói chang không nổi sóng như bài xuân chín của Hàn Mặc Tử, cũng không bàng bạc thời gian như trong thơ Quách Tấn, mà sắc màu ấy là gam màu của cuộc sống được khúc xạ qua một tâm trạng ngơ ngẩn một tí buồn vu vơ của thi sĩ. Những con sáo đen sà xuống mổ vu vơ, mấy cánh bướm thì chập chờn trong gió, những đàn trâu thong thả ăn những búi cỏ ướt đẫm mưa xuân.

Ở đây ta cảm thấy được nghệ thuật ngôn từ của thi sĩ quả thực rất hay. Những con số như “đàn”, “mấy”, “những” thể hiện sự nhiều, sự đầy đủ nhưng cũng không quá đông của những con vật làm đẹp cho bức tranh chiều mùa xuân ấy. Và đặc biệt là hình ảnh cánh bướm thì trôi trước gió, đàn trâu thì ăn mưa. Người ta chỉ hay nói rằng trôi theo nước, ăn cỏ hay uống mưa chứ không người nào nói như thi sĩ cả. Những cái vô lý ấy lại trở thành cái có lý thành những hình ảnh nghệ thuật vô cùng đẹp. Nó nhằm thể hiện lên sự dìu dặt của thiên nhiên cảnh vật, cánh bướm mỏng manh bay trong gió tựa như đang trôi theo những làn gió nhẹ nhõm ấy. Đàn trâu gặm những búi cỏ ướt đẫm những hạt mưa xuân như đang ăn mưa vậy.

Chia tay cảnh chiều xuân trên triền đê bãi cỏ chúng ta tới với cảnh xuân trên trong ruộng lúa nước thân quen:

Trong đồng hoa lúa xanh dờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật thột một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

Cơn mưa xuân êm êm kia cũng làm cho những cây lúa trên đồng ướt lặng. Cái chữ lặng kia làm cho chúng ta thấy được sự lặng lẽ êm đềm của cảnh vật xuân nơi làng quê. Cánh đồng không thiếu đi hình ảnh những con cò chân đứng chân co rồi lại chốc chốc bay vút lên bầu trời kia. Cánh cò cứ bay lả rập rờn như thế. Cái hành động chốc chốc bay ra ấy khiến cho những cô gái yếm thắm giật thột. Cái giật thột ấy thật đáng yêu làm sao. Hình ảnh những người con gái xưa duyên dáng vơi chiếc yếm trên thân mình gợi cho ta bao niềm liên tưởng về những con người ngày xưa. Đặc biệt câu thơ cuối với bốn từ liền nhau đều mang âm đầu là “c”: “cúi cuốc cào cỏ” thể hiện sự nhịp nhàng trùng điệp. Những cô gái yếm thắm ấy không chỉ duyên dáng trong y phục của người xưa mà còn đẹp với cái nết na siêng năng vun vén cho những cây lúa tươi tốt, cuốc những cây cỏ đang ra hoa kia đi.

tương tự có thể nói ba cảnh ấy hợp lại thành một bức tranh chiều xuân với nét đẹp vẫn sinh sôi nảy nở nhưng lại êm đềm vắng vẻ và thoáng chút buồn vu vơ của người thi sĩ. Có thể nói ta cảm nhận được sau bức tranh ấy là một tâm hồn thuần phát trong sáng của thi sĩ.

cam nhan ve bai tho chieu xuan anh tho 1 rs650
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.

Xem thêm:

  • Bình giảng bài thơ Chiều xuân – Anh Thơ
  • tìm hiểu bài thơ Chiều xuân của tác giả Anh Thơ

cảm tưởng của em về bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ mẫu 2

Nữ sĩ Anh Thơ (1921 – 2005) tên thật là Vương Kiều Ân, xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học. Quê gốc của nữ sĩ ở thị xã Bắc Giang nhưng bà lại sinh ra và lớn lên tại Ninh Giang, Hải Dương. Tuy chưa học hết tiểu học nhưng vốn có khiếu văn học nên bà rất thích đọc sách và làm thơ. Bút danh AnhThơ xuất hiện trong phong trào Thơ mới với những bài thơ viết về đề tài nông thôn tràn ngập những hình ảnh sắp gũi, thân thuộc, gợi nhớ những ki niệm êm đềm về làng mạc, quê hương trong tiềm thức của mỗi con người. Thơ của bà mỗi bài là một bức tranh thiên nhiên tươi mát, hài hoà, gợi nên không khí và nhịp sống êm đềm ở miền quê Bắc Bộ. Nữ sĩ Anh Thơ được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2007.

Chiều xuân được in trong tập Bức tranh quê (xuất bản năm 1941) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi mát, thơ mộng và quang cảnh làng quê tĩnh lặng, yên bình khiến cho con người thêm gắn bó với quê hương.

Buổi chiều thường là khoảnh khắc dễ làm phát sinh xúc cảm và thi hứng của thi nhân. thi sĩ đã quan sát và lựa chọn lựa những hình ảnh, chi tiết đặc trưng của cảnh vật để phác họa nên ba bức tranh chiều xuân yên ả, yên bình.

Bức tranh thứ nhất tả cảnh một chiều mưa bụi với hình ảnh bến sông vắng khách, con đò nằm sắp như bất động, quán tranh xơ xác bên chòm xoan rụng đầy hoa tím:

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,

Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi …

Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng

Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.”

Nữ sĩ quan sát, thưởng thức bằng cái nhìn tâm tưởng nên đã cảm nhận được cái hồn của cảnh vật thân quen. Trong chiều mưa lạnh, quang cảnh bến sông ven làng càng tiêu điều, vắng vẻ. Một bức tranh nhịn nhường như thiếu sắc màu và ánh sáng. Trong sự tĩnh lặng sắp như tuyệt đối của không gian vẫn có sự hoạt động của cảnh vật, dù là nhẹ tới mức như có như không: Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng. Con đò thường nhật tất bật chở khách sang sông, giờ đây nhịn nhường như mỏi mệt, biếng lười nằm mặc nước sông trôi. Còn quán tranh cũng như thu mình lại, đứng im lìm trong vắng lặng bởi không còn khách vào ra với tiếng cười, tiếng nói rộn ràng. Chòm xoan hoa tím rụng tơi bời trước ngọn gió xuân còn vương tương đối lạnh của buổi tàn đông. Tất cả đều như ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín khó nói thành lời.

Bức tranh thứ hai:

“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,

Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;

Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,

Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.”

Hình ảnh đường đê trong buổi chiều xuân qua cảm nhận của nữ sĩ thật thân yêu và bình yên. So với cảnh bến vắng quạnh ở trên thì cảnh đường đê vui hơn và nhiều sức sống hơn. Màu xanh biếc của cỏ non mơn mởn trải dài hút tầm mắt khiến thi sĩ có một liên tưởng bất thần và thú vị: Đàn trâu bò đang ung dung gặm cỏ mà như đang thong thả cúi ăn mưa. Đó là một ảo giác nghệ thuật phát sinh từ thực tế, qua lăng kính lãng mạn của thi sĩ. Trên cái phông nền xanh mát mắt và mát cả hồn người ấy điểm xuyết vài nét chấm phá của Đàn sáo đen và Mấy cánh bướm rập rờn. Đoạn thơ có rất nhiều nét tươi mát và thơ mộng, chứng tỏ tác giả có tài quan sát và có sự rung động tinh tế nên nhận thấy cảnh vừa thực lại vừa ảo, vừa quen, vừa lạ.

Thế nhưng bức tránh quê dù đẹp đẽ, yên bình tới đâu chăng nữa cũng sẽ trống vắng nếu như thiếu hình ảnh con người. Con người xuất hiện làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh sinh hoạt:

“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,

Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.

Làm giật thột một cô nàng yếm thắm,

Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.”

quang cảnh thực mà giống như trong một giấc mơ. Giữa cánh đồng lúa xanh rờn vượt bậc lên hình ảnh một cô nàng yếm thắm tràn đầy sức sống của tuổi xuân. Hình ảnh đáng yêu ấy thể hiện chất trữ tình lãng mạn đặm đà trong tâm hồn nữ thi sĩ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Tiếng động bất thần của Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra khiến cô gái giật thột ngờ ngạc là một điểm nhấn nghệ thuật. Hình ảnh cô thôn nữ với cái dáng cắm cúi, chuyên cần làm việc giữa quang cảnh chiều xuân êm đềm như thế quả đã làm xúc động lòng người, vẻ đẹp của cô thôn nữ kế bên vẻ đẹp của thiên nhiên khiến cho cảnh sắc thông thường, thân quen bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Thủ pháp lấy động tả tĩnh đã làm vượt bậc vẻ yên bình, vắng lặng của chiều xuân chốn đồng quê.

Ba bức tranh vẽ ba quang cảnh khác nhau nhưng trong cùng một thời khắc. Nữ sĩ Anh Thơ tìm cảm hứng từ những quang cảnh binh dị, thân thuộc xung quanh và tỏ ra có thế mạnh ở lối mô tả tỉ mỉ, chi tiết, thâu tóm được cái hồn của cảnh vật thiên nhiên. Mặc khác, Anh Thơ còn đóng góp cho Thơ mới ở cách sử dụng từ độc đáo, mới lạ chưa từng có trong thi ca. Đó là những cụm từ mưa đổ bụi, đò biếng lười; rụng tơi bời, mổ vu vơ; Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa… Những nét độc đáo, mới lạ ấy được thể hiện qua sự duyên dáng, mềm mại của những câu thơ càng làm vượt bậc phong cách lãng mạn của tác giả. Bức tranh tổng thể về buổi chiều xuân yên ả, yên bình vừa hoà hợp với tâm hồn nữ sĩ vừa gợi nên tình cảm làng mạc, quê hương sâu sắc trong lòng mỗi con người.

Cảm nhận bài thơ Thông tin thêm Chiều xuân mẫu 3

Nữ sĩ Anh Thơ tên thật là Vương Kiều Ân, sinh năm 1918, quê ở Bắc Giang. Trong suốt chặng đường sống, làm thơ và hoạt động cách mệnh bà luôn dành nhiều tình cảm cho quê hương và đã có rất nhiều bài thơ viết về Bắc Giang. Tôi biết tới nữ sĩ Anh Thơ và bài thơ “Chiều xuân” của bà vào những năm đầu của thập kỷ tám mươi, thếkỷ XX. Làng tôi ở ven sông và cũng có một con đò. trục đường từ bến sông vào làng, cuối mùa xuân rụng đầy hoa xoan tím. Vốn là một cô bé thích học văn từ nhỏ, tình cờ một lần đọc được bài thơ, cho dù chẳng hiểu nhiều lắm, nhưng có nhẽ những hình ảnh trong bài thơ đã cuốn hút tôi:

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi…
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân – Anh Thơ)

Thích thơ của bà, nhưng là thế hệ hậu sinh, sau bà hàng nửa thế kỷ và ở một miền quê cách xa Bắc Giang hàng trăm cây số, tôi không nghĩ có một ngày tôi đã tới quê hương của bà; đã đi trên con đê bà đã từng đi và nghĩ về bà trong một chiều xuân sông Thương “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng”. Và nhất là tôi không thể ngờ có một ngày tôi đã được gặp và phỏng vấn bà trong lần bà trở lại thăm Bắc Giang.

Ngay từ những năm 1941 tác phẩm  “Bức  tranh  quê”  của  nữ sĩ Anh Thơ đã được  giải khuyến khích của Tự lực Văn đoàn và tên tuổi của người con gái trẻ làm thơ ở bến sông Thương cũng đã gây xôn xao trên văn đàn từ ngày ấy. Với bài thơ “chiều xuân”, chỉ bằng một  vài nét  chấm phá, bà đã tạo được cả một không gian xuân đằm thắm,  trữ tình  của vùng  quê trung du đẹp mà buồn. Sau năm 1945, Anh Thơ đã trở thành một thi sĩ cách mệnh. Không chỉ làm thơ động viên, động viên ý thức cách mệnh, bà còn trực tiếp tham gia làm  “chị nuôi”, đi quyên góp tiền  gạo  nuôi  quân,  từng  mặc  áo  dài  lụa  vân  trắng, cưỡi ngựa hồng dẫn đầu đoàn quân tiến vào trại phỉ, cảm hoá chúng đi theo Việt Minh. Năm 1956, tập thơ Kểchuyện Vũ Lăng của bà được tặng thưởng của Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam. Năm 2001, bà vinh dự được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Với quê hương Bắc Giang, nữ sĩ Anh Thơ luôn có một tình cảm đặc biệt. Trong những tác phẩm  của  bà,  giống như những  cuốn  nhật  ký  phản  ánh  chặng đường  sống, làm thơ và hoạt động cách mệnh với những con người bà đã gặp, những trục đường bà đã đi qua…, hầu như đều ẩn hiện dáng hình mảnh đất bên dòng sông Thương, nhất là những tác phẩm “Chiều xuân”, “Tiếng chim tu hú”, “Từ bến sông  Thương”…Tôi nhớ không rõ lắm, khoảng năm 1993 -1994. Hôm đó là chủ nhật, được biết hôm ấy vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ  sẽ về thăm gia đình chưng Phương Minh Nam -lão thành cách mệnh, nguyên chủ toạ UBND tỉnh Hà Bắc, là bạn công việc cùng bà từ thời kháng chiến, tôi được cơ quan phân công tới gặp để thực hiện cuộc phỏng vấn đối với bà.

Bản thân tôi cũng thấy xúc động và hồi hộp vềcuộc gặp gỡ sắp diễn ra. Với một túi xách nhỏ và  một  chiếc  máy  ghi  âm  khá  to  khổ khoác trên vai, tôi tìm tới nhà chưng Phương Minh Nam ở phố Nghĩa Long – phường Lê Lợi. cả nhà chưng đang tất bật sửa soạn đểđón vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ , bởi đó là lần trước tiên bà đưa người bạn trăm năm của mình là chưng sĩ Bùi Viên Dinh, quê ở Đồng Nai “ra mắt” những người bạn ở Bắc Giang. Nghe ý định của tôi, cả chưng Nam và chưng gái Nguyễn Thị Uyên đều rất vui và ủng hộ. Khoảng sắp 10h trưa thì vợ chồng nữ sĩ  Anh Thơ về tới nơi. Nữ sĩ Anh Thơ  với dáng mảnh, cao gầy, tóc chải rẽ ngôi lệch, búi cao, dáng đi nhanh nhẹn, phong cách rất giản dị mà vẫn toát lên vẻ đài những, thanh lịch của trí thức thời xưa. Cho tới bây giờ tôi vẫn cho mình là người  may mắn khi được chứng kiến cuộc hội ngộ ấy. Những cái nắm tay thật chặt, những nghi vấn dồn dập về những người bạn cũ, những câu chuyện về ký ức xa xôi, những nụ cười và những giọt nước mắt… cả những câu chuyện tếu đùa vui, cứ như họ còn rất trẻ, cho dù người nào cũng đã qua cái tuổi “thất thập kim cổ hy”.

Sợ tôi đợi lâu, chưng Nam nói với nữ sĩ Anh Thơ có cô nhà báo muốn được phỏng vấn bà. có nhẽ nữ sĩ cũng tương đối bất thần vì bà hoàn toàn muốn dành chuyến đi này cho bạn bè nhưng bà  vẫn  vui  vẻ nhận  lời.  Bà  tỏ ra  rất  vui  khi  thấy  tôi  khá  thuộc  thơ của  bà.  Qua  câu chuyện, nữ sĩ Anh Thơ  đã kể cho tôi nghe về hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Chiều xuân”, về cảm giác của bà khi biết tác phẩm “Bức tranh quê” được giải thưởng; những thay đổi trong  nhận  thức  của bà khi đi theo cách mệnh;  nỗi xúc động  về những  em  bé,  những người phụ nữ trong kháng chiến mà bà đã gặp…

Đang dở câu chuyện, như chợt nhớ ra, bà gọi chưng Uyên hỏi thăm về bà Nguyễn Thị Mùi (nguyên là Phó chủ toạ Hội Phụ nữ tỉnh), rồi bà quay sang tôi, lau nước  mắt, xúc động:  “Một  trong  những người  tôi  luôn  kính trọng, cảm phục và thương mến  là chị Mùi. Tôi có may mắn hơn chịlà ít nhiều còn được học hành, biết chữ. Chị Mùi tiêu biểu là người phụ nữ nông dân giàu nghị lực, luôn nhẫn nại, hy sinh vì cách mệnh. Mỗi lần đọc câu thơ của thi sĩ Tố Hữu: “Việt Nam – rũ bùn đứng dậy sáng loà !” là tôi lại nghĩ tới chị Mùi”.

Khi tôi hỏi xúc cảm của bà khi trở lại thăm quê hương Bắc Giang. Bà nói: “Tôi đã ở Bắc Giang từ những ngày còn trẻ và có rất nhiều  kỷ niệm. Bắc Giang  giờ đây đã thay đổi nhiều.  Mừng nhất là  phụ nữ Bắc Giang ngày càng được tôn trọng, đồng đẳng với nam giới”.

Chiều hôm ấy, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh đã mời vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ  giao lưu với những anh chịem văn nghệ sĩ của địa phương. Ban tổ chức đã dành cho nữ sĩ một sự bất thần đó là đón cụ Mùi tới cuộc giao lưu. Đang say sưa chuyện văn học, nhìn thấy cụ Mùi, nữsĩ Anh Thơ ôm chầm lấy cụ oà khóc, khiến người nào cũng xúc động. Bà cứ nắm vai, nắm tay cụ Mùi và nói: “Chị Mùi của tôi, người phụ nữ Việt Nam “rũ bùn đứng dậy sáng loà” của tôi đây !”.

Cuộc gặp gỡấy tới nay đã sắp 20 năm. Cụ Mùi, nữ sĩ Anh Thơ, chưng Phương Minh Nam cũng đã không còn nữa… nhưng mỗi lần nhớ lại, trong lòng tôi vẫn thấy rưng rưng. Chiều nay đi trên đê sông Thương, ngắm  cây  cầu  mới  vắt  ngang  qua  sông  và  tấp  nập  dòng người đi sắm Tết, tôi vẫn như thấy thấp thoáng bóng bà đi trong chiều xuân có mưa đổ bụi êm êm và đầy hoa xoan tím… Trong khoảnh khắc ấy, tôi đã hiểu ra rằng chính nữ sĩ với  tình  yêu  thiết  tha  trong  “Chiều xuân” đã nói với  thế hệ hậu  sinh  hãy  biết  yêu  quê hương từ những gì thân thuộc, thông thường nhất như con đò, bến nước, dòng sông… Hãy biết trân trọng và giữ gìn quá khứ. Và phải chăng – đó cũng chính là điều mùa xuân luôn mong chờ!

—–

Đề bài Nêu cảm nhận của em về bài thơ Chiều xuân – Anh Thơ được Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung tổng hợp những bài văn mẫu hay nhất, hy vọng những em sẽ có những bài văn bình giảng thật hay, ý nghĩa và thấm được những tâm trạng của tác giả trong Chiều xuân.

Nêu cảm nhận của em về bài thơ Chiều xuân – Anh Thơ được Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung tổng hợp những nội dung liên quan: dàn ý, những bài văn mẫu về cảm thụ bài Chiều xuân

Bản quyền bài viết thuộc Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: https://cmm.edu.vn

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục

Related Posts