Soạn bài Chí khí anh hùng – trích Truyện Kiều – Soạn văn 10

Câu 1: Anh (chị) hãy cho biết hàm nghĩa những cụm từ “lòng bốn phương” và “mặt phi thường”. Tìm những từ ngữ thể hiện sự trân trọng, kính phục của Nguyễn Du với Từ Hải.

Trả lời:

– “Lòng bốn phương”: tức là ý chí muốn vùng vẫy khắp thiên hạ.

Bạn đang xem bài: Soạn bài Chí khí anh hùng – trích Truyện Kiều – Soạn văn 10

=> Từ Hải nghe tiếng gọi của bốn phương dậy lên trong lòng trượng phu chí lớn. Bốn phương ở đây có ý nghĩa chỉ thiên hạ, thế giớ. “Lòng bốn phương” đồng nghĩa với “Chí tang bồng”, “Chí làm trai”… 

– “Mặt phi thường” là cụm từ chỉ phẩm chất xuất chúng, hơn người.

=> Điều đó không chỉ đơn thuần thể hiện một cách cụ thể ở dung mạo bên ngoài (Râu hùm hàm én, mày ngài / Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao) mà quan trọng hơn là toàn bộ phẩm chất, tính cách cũng như thế cuộc, sự nghiệp của con người xuất chúng (trường hợp này “mặt phi thường” đồng nghĩa với “người phi thường”, “đời phi thường”, “sự nghiệp phi thường”…).

=> Hai cụm từ: “lòng bốn phương” và “mặt phi thường” và có ý nghĩa chỉ khái niệm đồng thời cũng chính là hình tượng văn học. Chúng có quan hệ tương hỗ để làm vượt bậc quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Du: những người anh hùng là những người xuất chúng, phi thường, siêu phàm, mang tầm vóc vũ trụ chứ không phải người thường. Điều đó thể hiện rõ qua việc sử dụng những yếu tố của thi pháp tả người anh hùng là gắn với những hình tượng thiên nhiên, không gian vũ trụ.

* Nguyễn Du sử dụng rất nhiều từ ngữ biểu thị thái độ trân trọng, kính phục Từ Hải:

– Từ ngữ có sắc thái tôn xưng như: “trượng phu”, “lòng bốn phương”, “mặt phi thường”…

– Từ ngữ chỉ hình ảnh kì vĩ, lớn lao: “mười vạn tinh binh”, “bóng tinh rợp đường”, “phong vân bằng đã tới kì dặm khơi”…

– Từ ngữ diễn tả hành động dứt khoát: “thoắt đã động”, “trên phố thẳng dong”, “quyết lời dứt áo ra đi”…

=> trình bày Từ Hải với thái độ ngưỡng mộ, trân trọng và ngợi ca, Nguyễn Du đã dồn tất cả vẻ đẹp của người anh hùng lí tưởng, giấc mơ của nhân dân vào trong hình tượng này.

Câu 2: Từ Hải bộc lộ lí tưởng anh hùng của mình qua lời nói với Thúy Kiều thế nào?

Trả lời: 

Lí tưởng anh hùng của Từ Hải được Nguyễn Du khai thác tinh tế qua cảnh tiễn biệt với Thuý Kiểu, đặc biệt qua những lời nói với nàng.

– Khác với cảnh tiễn biệt giữa Kiều với Kim Trọng và Kiều với Thúc Sinh, đây là cảnh tiễn biệt của Kiều với một trượng phu chí lớn. Chí khí, lòng quyết tâm của Từ Hải là không gì lay chuyển. Quan niệm về người anh hùng theo Từ Hải là phải tạo dựng sự nghiệp lớn để thực hiện giấc mơ công lí. vì vậy sau hơn nửa năm gắn bó, khát vọng ấy đã thôi thúc trái tim chàng, chàng ý thức được đã tới lúc phải lên đường. Vì vậy việc ra đi của Từ Hải là công việc thế tất, quan trọng hàng đầu.

– trình bày một cách ước lệ, để Từ Hải lên ngựa và “lên đường thẳng dong’” rồi Nguyễn Du mới nói tới lời tiễn biệt của Kiều chính là vì muốn tôn vinh Từ Hải như một nhân vật anh hùng vượt bậc.

– Coi Kiều khác hẳn với những người vợ “nữ nhi thường tình” mà là “tâm phúc tương tri” của mình (người hiểu biết lòng dạ mình một cách sâu sắc).

– Khẩu khí lời nói của Từ Hải rõ là của bậc trượng phu chí lớn, tử tế, đĩnh đạc, có hào khí. Khẩu khí ấy một phần được tạo nên bởi những hình ảnh phi thường, hào hùng: “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường”, “bốn bể không nhà”.

=> Lời của Từ Hải nói với Kiều không chỉ là lời của người yêu với người yêu, của người chồng với người vợ mà hơn hết đó là lời của một trang anh hùng với người “tâm phúc tương tri”. Qua lời Từ ta thấy hiên lên tính cách, phẩm chất, chí khí và khát vọng của một trang anh hùng hảo hớn. 

Câu 3: Nêu nhận xét về đặc điểm của cách trình bày (hiện thực hay lí tưởng hoá) người anh hùng Từ Hải trong đoạn trích. Đây có phải là cách trình bày phổ biến của văn học trung đại không?

Trả lời:

– Từ Hải là nhân vật lí tưởng Nguyễn Du đã dựng chân dung Từ Hải với cảm hứng ngợi ca bởi Từ chính là giấc mơ công lí của tác giả. Vì vậy trình bày theo văn pháp hiện thực sẽ không làm vượt bậc được điều đó mà phải trình bày theo văn pháp ước lệ, lí tưởng hoá.

– thi sĩ đã khắc hoạ những hình ảnh phóng túng, oai hùng, con người “thanh gươm yên ngựa”, “tưởng như che cả trời đất” (Hoài Thanh). Đoạn thơ khép lại bằng cách mở ra hình ảnh cánh chim bằng lướt gió tung mây “phong vân bằng đã tới kì dặm khơi”

– thi sĩ sử dụng hệ thống từ ngữ chỉ bậc “trượng phu”: thoắt, quyết, dứt (áo), lòng bốn phương, thẳng rong, dậy đất, rợp đường, tinh binh, phi thường, bốn bể, dặm khơi…

– tiếng nói hội thoại cùng với những giải pháp trình bày có tính nhân xưng, ước lệ cũng góp phần làm cho thiên hướng lí tưởng hoá trong ngòi bút Nguyễn Du thêm phần vượt bậc. Hình ảnh Từ Hải được hiện lên với vẻ đẹp của sự phi thường.

– Anh hùng, tráng sĩ là mẫu nhân vật lí tưởng truyền thống của văn học trung đại. Hình tượng Từ Hải của Nguyễn Du vừa nằm trong hệ thống thi pháp tả người anh hùng của văn học trung đại đồng thời có những nét riêng biệt, độc đáo, đặc biệt là Nguyễn Du đã khéo léo lồng những phẩm chất rất anh hùng ở Từ Hải vào trong những phẩm chất rất nhiều khiến cho nhân vật anh hùng nhưng không cách biệt với đời thường.

Bản quyền bài viết thuộc Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: https://cmm.edu.vn

Trích nguồn: Cmm.Edu.Vn
Danh mục: Giáo dục

Back to top button