Soạn bài Kể chuyện: Bàn chân kì diệu, Tiếng Việt lớp 4

soan bai ban chan ki dieu ke chuyen

Soạn bài Bàn chân kì diệu, kể chuyện

Bạn đang xem bài: Soạn bài Kể chuyện: Bàn chân kì diệu, Tiếng Việt lớp 4

 

Soạn bài Kể chuyện: Bàn chân kì diệu, Ngắn 1

Câu 1 (trang 107 sgk Tiếng Việt 4) : Kể lại toàn bộ câu chuyện

Trả lời:

Đoạn 1: Kí bị liệt hai cánh tay từ nhỏ. Thấy những bạn cắp sách tới trường, Kí thèm lắm. Kí quyết định tới lớp xin cô giáo vào học. Cô giáo cầm tay Kí thấy hai cánh tay mềm nhũn, buông thõng, bất động cô không dám nhận em vào học. Kí thất vọng trở về vừa đi vừa khóc.

Đoạn 2: Mấy ngày hôm sau, cô giáo tới nhà Kí. tình cờ cô thấy Kí ngồi ở giữa sân nghí ngoáy sử dụng chân tập viết. Cô rất cảm động cho em mấy viên phấn. Một thời gian sau, Kí lại tới lớp. Lần này, cô giáo nhận em vào học. Cô dọn cho Kí một chỗ riêng ở góc lớp, trải chiếu cho Kí ngồi tập viết ở đó. Kí cặp cây bút vào chân luyện viết. Lúc đầu cây bút không theo ý Kí, Bàn chân dẫm lên trang giấy nhàu nát, mực giây bệ rạc. Mấy ngon chân mỏi chuột rút, bàn chân co quắt lại, đau điếng. Kí quẳng bút chì vào góc lớp, chán nản. Nhưng nhờ cô giáo và những bạn động viên Kí lại lao vào tập luyện một cách nhẫn nại và dai sức.

Đoạn 3: Sau một thời gian Kí đã thành công. Hết lớp Một Kí đuổi kịp những bạn. Chữ của Kí mỗi ngày đẹp hơn. Bao năm khổ luyện Kí đã tốt nghiệp phổ thông và thi đậu vào trường Đại học Tổng hợp.

Nguyễn Ngọc Kí là tấm gương sáng về ý chí vượt khó. Ngay chưng Hồ còn sống, đã hai lần chưng gửi tặng huy hiệu của Người cho cậu học trò dũng cảm giàu nghị lực ấy.

————————-HẾT BÀI 1——————————

Ngoài Soạn bài Bàn chân kì diệu, kể chuyện, để học tốt Tiếng Việt 4 hơn những em cần tìm hiểu thêm những bài viết khác như Soạn bài Có chí thì nên, tập đọc cũng như Tập làm văn: tập dượt trao đổi ý kiến với người thân, tuần 11 nằm trong phần soạn bài SGK Tiếng Viết lớp 4.

 

Soạn bài Bàn chân kì diệu, kể chuyện, Ngắn 2

1. Dựa vào lời kể của cô giáo (thầy giáo) và những tranh vẽ dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện

Trả lời:

Tranh 1: Kí bị liệt hai cánh tay từ nhỏ. Thấy những bạn được cắp sách tới trường, Ký thèm lắm. Em quyết định tới lớp xin vào học.
Tranh 2: Khi biết được hoàn cảnh và tình trạng đôi bàn tay của Ký, cô giáo Cương không dám nhận em vào học.
Tranh 3: Mấy ngày hôm sau cô giáo tới thăm Ký, nhìn thấy em đang ngồi trong sân sử dụng chân nghí ngoáy tập viết, hình ảnh ấy khiến cô giáo vô cùng ngạc nhiên và xúc động.
Tranh 4: Thế rồi, Ký lại tới lớp và lần này em được nhận vào học.
Tranh 5: Cô giáo Cương sắp xếp cho Ký một chiếc chiếu cuối lớp để ngồi học, kẹp bút vào ngón chân để tập viết trên trang giấy.Những ngày đầu gặp bao nhiêu là khó khăn khi thì cây bút không chịu nghe lời, lúc thì trang giấy nhàu nát, khi thì mực bệ rạc,… có khi luyện viết nhiều quá, mỏi cơ Ký bị chuột rút. Có lúc em cũng nản lòng muốn bỏ cuộc, nhưng nhờ có cô giáo Cương và bạn bè kế bên động viên, trợ giúp Ký lại nỗ lực, kiên trì, ngày mưa cũng như ngày nắng luôn chuyên cần tới lớp
Tranh 6: Nhờ tập dượt kiên trì, Ký đã thành công. Hết lớp Một, Ký đã đuổi kịp những bạn. Chữ Ký viết ngày một đều hơn, đẹp hơn. Có lần Ký được 8 điểm, 9 điểm rồi 10 điểm về môn Tập viết. Bao năm khổ công, thế rồi Ký thi đại học, trở thành sinh viên Trường Đại học Tổng hợp.

Nguyễn Ngọc Ký là tấm gương sáng về ý chí vượt khó. Ngày chưng Hồ còn sống, đã hai lần gởi tặng huy hiệu của Người cho cậu học trò dũng cảm giàu nghị lực ấy.

2. Kể lại toàn bộ câu chuyện.

Trả lời:

Ký bị liệt hai cánh tay từ nhỏ. Thấy những bạn được cắp sách tới trường, Ký thèm lắm. Em quyết định tới lớp xin vào học.

Sáng hôm ấy, cô giáo Cương đang chuẩn bị viết bài học vần lên bảng thì thấy một cậu bé thập thò ngoài cửa. Cô bước ra, dịu dàng hỏi:
– Em muốn hỏi gì cô phải không?

Cậu bé khẽ nói:
– Thưa cô, em xin cô cho em vào học. Có được không ạ?

Cô giáo cầm tay Ký. Hai cánh tay em mềm nhũn, buông thõng, bất động. Cô giáo lắc đầu: Khó lắm em ạ. Em hãy về nhà. Đợi lớn lên ít nữa xem sao đã.
Cô thoáng thấy đôi mắt Ký nhòe ướt. Em quay ngoắt lại, chạy về nhà. Hình như em vừa chạy, vừa khóc.
Cô giáo trở vào lớp. Suốt buổi học hôm ấy, hình ảnh cậu bé với hai cánh tay buông thõng luôn hiện lên trước mắt cô.

Mấy ngày hôm sau, cô giáo tới nhà Ký. Bước qua cổng cô vừa ngạc nhiên, vừa xúc động: Ký đang ngồi giữa sân nghí ngoáy tập viết. Cậu cặp một mẩu gạch vào ngón chân và vẽ xuống đất những nét chữ ngoằn ngoèo. Cô giáo hỏi thăm sức khỏe của Ký rồi cho em mấy viên phấn.

Thế rồi, Ký lại tới lớp. Lần này em được nhận vào học. Cô giáo dọn một chỗ ở góc lớp, trải chiếu cho Ký ngồi tập viết ở đó. Em cặp cây bút vào ngón chân và tập viết vào trang giấy. Cây bút không làm theo ý muốn của Ký. Bàn chân em giẫm lên trang giấy, động đậy một lúc là giấy nhàu nát, mực giây bệ rạc. Mấy ngón chân Ký mỏi nhừ. Cô giáo thay bút chì cho Ký. Ký lại nhẫn nại viết. Mấy ngón chân quắp lại giữ cho được cây bút đã khó, điều khiển cho nó viết thành chữ còn khó hơn, nhưng Ký vẫn gắng sức đưa bút theo nét chữ. Bỗng cậu nằm ngửa ra, chân giơ lên, mặt nhăn nhó, mồm xuýt xoa đớn đau. Cô giáo và mấy bạn chạy vội tới. Thì ra, bàn chân Ký bị chuột rút, co quắp lại, không duỗi ra được. những bạn phải xoa bóp mãi mới ổn. Cái giống “chuột rút” làm khổ Ký rất nhiều. Nó đã rút một lần thì sau quen cứ rút mãi. Có lần đau tái người, Ký quăng bút vào góc lớp định thôi học. Nhưng cô giáo Cương yên ủi, khuyến khích em hãy nhẫn nại tập dần từng tí một. những bạn cũng mỗi người nói một câu, giúp một việc. Lời khuyến khích dịu dàng của cô giáo, những cử chỉ thân yêu của bè bạn tiếp sức cho Ký. Ký lại quắp bút vào ngón chân hì hục tập viết. Ký nhẫn nại, dai sức. Ngày nắng cũng như ngày mưa, người mỏi mệt, ngón chân đau nhức, có lúc chân bị chuột rút triền miên… nhưng Ký không nản lòng. Buổi học nào cũng vậy, trong góc lớp, trên mảnh chiếu nhỏ không bao giờ vắng mặt Nguyễn Ngọc Ký.

Nhờ tập dượt kiên trì, Ký đã thành công. Hết lớp Một, Ký đã đuổi kịp những bạn. Chữ Ký viết ngày một đều hơn, đẹp hơn. Có lần Ký được 8 điểm, 9 điểm rồi 10 điểm về môn Tập viết. Bao năm khổ công, thế rồi Ký thi đại học, trở thành sinh viên Trường Đại học Tổng hợp.

Nguyễn Ngọc Ký là tấm gương sáng về ý chí vượt khó. Ngày chưng Hồ còn sống, đã hai lần gởi tặng huy hiệu của Người cho cậu học trò dũng cảm giàu nghị lực ấy.

ngày nay, ông Nguyễn Ngọc Ký là Nhà giáo Ưu tú, dạy môn Ngữ văn của một trường trung học ở Thành phố Hồ Chi Minh. Ông là tác giả bài thơ Em thương trong sách Tiếng Việt 3, tập hai.

3. Em học được điều gì ở Nguyễn Ngọc Ký ?

Trả lời:
ý thức kiên trì, giàu nghị lực, ý chí kiên cường vượt lên những hoàn cảnh khó khăn để học tập và trở thành người có ích cho xã hội.

———————-HẾT———————

Chi tiết nội dung phần Soạn bài nếu như chúng mình có phép lạ, nghe viết để có sự chuẩn bị tốt cho bài Chính tả (Nhớ-viết): nếu như chúng mình có phép lạ.

Bản quyền bài viết thuộc Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: https://cmm.edu.vn

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục

Related Posts