Soạn bài Ôn tập phần làm văn – Ngữ Văn 12

Thầy cô trường Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung sẽ hướng dẫn soạn bài Ôn tập phần làm văn để những bạn cùng tham khảo.

Bài soạn sẽ gồm 2 phần là Ngắn gọnĐầy đủ chi tiết. những em chú ý nhé.

Bạn đang xem bài: Soạn bài Ôn tập phần làm văn – Ngữ Văn 12

Soạn bài Ôn tập phần làm văn ngắn gọn

I. Những nội dung cần ôn tập

Câu 1. những kiểu văn bản đã học

Kiểu văn bản Khái niệm
Tự sự Trình bày sự việc, diễn biến truyện có quan hệ nhân quả nhằm biểu hiện con người, đời sống, tư tưởng, thái độ…
Thuyết minh Trình bày cấu tạo, đặc điểm, nguồn gốc, tính chất, kết quả của sự vật, sự việc giúp người đọc có nhận thức đúng đắn về đối tượng
Nghị luận Trình bày tư tưởng, ý kiến, nhận xét, cách đánh giá đối với những vấn đề xã hội, những ý kiến, lập luận
những văn bản khác (tạp chí, hành chính, quảng cáo, bảng tin, tổng kết) những văn bản này có chức năng thông báo…

Câu 2. những bước viết văn bản cần:

– Tìm hiểu đề, xác định yêu cầu bài viết

– Tìm ý, lựa chọn ý cho bài văn, lập dàn ý

– Viết văn bản

– rà soát, chỉnh sửa

Câu 3:

Đề tài cơ bản của văn nghị luận trong nhà trường

– Nghị luận xã hội: một hiện tượng đời sống, một vấn đề tư tưởng đạo lý

– Nghị luận văn học: bàn về một ý kiến văn học, nghị luận đoạn trích, tác phẩm văn xuôi

*Giống: trình bày tư tưởng, ý kiến, nhận xét, đánh giá… những vấn đề nghị luận, sử dụng thao tác lập luận

*Khác:

– Nghị luận xã hội cần người viết có vốn sống, hiểu biết thực tiễn, hiểu biết xã hội phong phú…

Nghị luận văn học: nắm vững khái niệm, tri thức văn học, khả năng lí giải vấn đề văn học, cảm thụ tác phẩm, hình tượng…

Lập luận trong văn nghị luận

– Gồm: luận điểm, luận cứ, thao tác, phương pháp lập luận

– Luận điểm: tư tưởng cơ bản của bài văn nghị luận: luận cứ bao gồm lí lẽ dẫn chứng để giảng giải, chứng minh luận điểm. Phương pháp lập luận: sắp xếp những luận điểm, luận cứ một cách khoa học, chặt chẽ

– những yêu cầu cơ bản:

+ Lí lẽ phải có cơ sở, dựa trên chân lí được thừa nhận

– Lỗi thường gặp: sắp xếp lộn xộn luận điểm, lỗi chính tả, lỗi trình bày. Nêu luận cứ không xác thực, không có tính phổ biến, luận cứ không thích hợp với luận điểm.

– Thao tác lập luận cơ bản: giảng giải, chứng minh, tìm hiểu, so sánh, chưng bỏ, bình luận

+ Lý lẽ dẫn chứng phải phục vụ đắc lực cho luận điểm

– Bố cục bài văn nghị luận: Gồm ba phần: mở, thân , kết thống nhất với nhau

+ Mở bài: thông báo chuẩn xác, ngắn gọn vấn đề nghị luận, hướng người đọc, người nghe vào nội dung cần lập luận

+ Thân bài: thành phần chính của lập luận, triển khai những luận điểm, vấn đề bằng cách thích hợp

+ Kết bài: chốt vấn đề, nêu khái quát, làm vượt bậc, gợi liên tưởng sâu sắc, rộng hơn.

– Diễn đạt

+ Chặt chẽ, thuyết phục cả về lý trí, tình cảm

+ Cách sử dụng từ, viết câu linh hoạt, giọng văn trọng thể, nghiêm túc

+ Sử dụng phép tu từ hợp lý

II. tập tành

Bài 1 (trang 183 sgk ngữ văn 12 tập 2)

– Đề 1: nghị luận xã hội. Đề 2 nghị luận văn học

– Xô-crat đưa ra những luận điểm: có chắc chắn về điều mình nói không? Những điều anh nói có tốt đẹp không? Những điều anh nói có thật sự cần thiết cho tôi?

Bài học: khi nói bất cứ điều gì cần có tính xác thực, cần mang những điều tốt đẹp tới người khác thay vì bôi xấu, đặt điều cho những người không có mặt. Nên nói những điều vô cùng cần thiết với người nghe

Đối với đề số 2: cần nêu bật được trị giá nội dung và nghệ thuật, của tác phẩm.

Bài 2 (trang 183 sgk ngữ văn 12 tập 2)

– Cả hai đề nên sử dụng thao tác: tìm hiểu, chứng minh, so sánh, chưng bỏ

Luận điểm cơ bản:

Đề 1: – Nói những điều là chân lý, sự thực để người nghe nắm bắt

– Nói những điều tốt đẹp

– Nói những điều hữu ích, cần thiết với người nghe

Đề 2: Nêu nội dung của tác phẩm

Nêu nghệ thuật của tác phẩm

– Lập dàn ý:

+ MB: giới thiệu tác giả, tác phẩm , giới thiệu vị trí, nội dung đoạn trích

+ TB: tìm hiểu ý nghĩa đoạn trích (nội dung, nghệ thuật )

+ KB: Khẳng định trị giá về nội dung, nghệ thuật. Tác phẩm thể hiện tư tưởng chủ đạo gì, góp phần đóng góp vào phong cách sáng tác của tác giả

– Viết mở bài:

Tình yêu quê hương quốc gia đi vào thơ ca một cách tự nhiên và đã trở thành đề tài muôn thưở khơi nguồn cảm hứng cho những sáng tác. Dễ dàng nhận thấy những đớn đau mất mát của quốc gia qua thơ Hoàng Cần, gặp sự đổi mới từng ngày của quốc gia qua thơ Nguyễn Đình Thi nhưng có nhẽ trọn vẹn, đủ đầy và sâu sắc nhất phải kể tới quốc gia của Nguyễn Khoa Điềm. quốc gia không chỉ mang vẻ đẹp của dáng hình xứ sở mà còn hàm chứa nhiều thăng trầm lịch sử. quốc gia vừa thiêng liêng, cao đẹp, vừa sắp gũi, bình dị, tràn đầy tình yêu thương, xúc cảm của tác giả.

– tìm hiểu đoạn trích trong bài quốc gia – Nguyễn Khoa Điềm

Đất là nơi anh tới trường

Nước là nơi em tắm

quốc gia là nơi ta hò hứa

quốc gia là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

quốc gia là khái niệm mang tính tổng hợp chỉ quốc gia, lãnh thổ, những yếu tố liên quan mật thiết và tái tạo được quốc gia. Nhưng trong tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm, tác giả khéo léo phân tách nghĩa, để “đất” và “nước” trở thành những điều gắn bó máu thịt với người dân. Tác giả tách nghĩa hai từ đất và nước để lý giải ý nghĩa cụ thể của từng từ. đó có thể xem như nét độc đáo, đặc biệt chỉ có ở thi sĩ Nguyễn Khoa Điểm khi thể hiện khái niệm mang tính trừa tượng tương tự. quốc gia gắn liền với đời sống của con người, chẳng xa lạ “đất là nơi anh tới trường”, “nước là nơi em tắm” quốc gia trở nên lãng mạn như tình yêu lứa đôi, là nơi minh chứng cho tình cảm của con người với con người với nhau: quốc gia là nơi ta hò hứa”. Có thể nói tác giả Nguyễn Khoa Điềm diễn tả quốc gia thật nhẹ nhõm, sắp gụi với người đọc, người nghe. quốc gia chính là khá thở, là cội nguồn của sự sống.

Soạn bài Ôn tập phần làm văn đầy đủ chi tiết

Nội dung cần nắm vững

– Khi đứng trước một sự kiện, hiện tượng của đời sống hay của văn học nên vận dụng tổng hợp những thao tác nghị luận để làm bài văn nghị luận: phân trò trống kiện, hiện tượng; bình luận về sự kiện, hiện tượng ấy, cũng có thể lập luận để chưng bỏ, hoặc so sánh để làm sáng tỏ vấn đề,… Trước tiên cần trình bày sự kiện, hiện tượng ấy, làm vượt bậc những khía cạnh có vấn đề, tiếp theo dựa vào những khía cạnh có vấn đề mà nêu ý kiến ý kiến của mình. Sau đó, cần giảng giải, tìm hiểu ý kiến, nhận định hay tư tưởng đó. Tiếp theo tiến hành bình luận ý kiến, nhận định, hay tư tưởng ấy đúng sai, lợi hại thế nào, có ý nghĩa, trị giá ra sao.

– Dựa vào luận đề, phạm vi vấn đề để nêu ra luận điểm. Việc nêu luận điểm cũng không tách rời với cách nhìn, với chỗ đứng và cách lập luận.

– Bài văn nghị luận sẽ thiếu sức thuyết phục nếu như chỉ nêu được luận điểm mà thiếu luận cứ. những lẽ phải, tri thức, kinh nghiệm sống của người làm bài giữ một vai trò quan trọng, vì nhờ có cái vốn ấy, người viết mới làm sáng tỏ được luận điểm hoặc rút ra luận điểm hợp lí. những lẽ phải, tri thức, kinh nghiệm sống của người làm bài hợp thành nền tảng và chất liệu để tổ chức bài văn.

– Bài viết sẽ hấp dẫn nếu như tác giả tự đề xuất được rất nhiều luận điểm mới mẻ, tìm tòi được rất nhiều luận cứ xác đáng.

Lưu ý: Ngoài những lẽ phải, chân lí đã được đúc kết thành công thức, khái niệm, khẩu hiệu,… tuy đúng nhưng dễ trở thành sáo mòn, cần phải chú ý tới những lẽ phải cụ thể, sinh động trong đời sống. Phải nhìn sự việc, hiện tượng từ phía nhu cầu phát triển của quốc gia, dân tộc, quyền lợi của mỗi con người trong xã hội mà xác lập những lẽ phải cụ thể, sinh động. Điều này mới làm thành nền tảng của một bài nghị luận hay.

Không phải mọi luận điểm của bài nghị luận đều có trị giá như nhau. Đối với mỗi vấn đề, người viết có thể nêu ra nhiều luận điểm khác nhau làm nội dung cho bài nghị luận của mình. Song luận điểm có trị giá phải có phẩm chất sau: luận điểm nêu ra phải rõ ràng, sát hợp với đề, phải đúng đắn, có tính khái quát và có ý nghĩa đối với thực tế xã hội. Cao hơn nữa, luận điểm phải mới mẻ, sâu sắc không nước đôi, mơ hồ.

– Yêu cầu cơ bản của phần mở bài:

+ Giới thiệu một cách khái quát với người đọc vấn đề sẽ viết, sẽ trao đổi trao đổi.

+ Viết tự nhiên, giản dị, nhưng sinh động, độc đáo, không cầu kì, giả tạo.

+ Tránh sa vào những chi tiết cụ thể, những nội dung lẽ ra chỉ trình bày ở thân bài.

+ Tránh dẫn dắt vòng vo hoặc không liên quan gì tới vấn đề trọng tâm.

– Yêu cầu cơ bản của phần thân bài:

+ Làm sáng tỏ vấn đề mà mở bài đã nêu.

+ Cụ thể hoá luận đề ấy bằng những luận điểm.

+ Mỗi luận điểm được phát triển bằng những luận cứ, được làm sáng tỏ bằng những lí lẽ và dẫn chứng cụ thể.

+ Thân bài có bố cục gồm nhiều đoạn văn. Mỗi đoạn thân bài tập trung làm vượt bậc một luận điểm. Luận điểm ấy thường được nêu bằng câu chủ đề.

– Yêu cầu cơ bản của phần kết bài:

+ Tổng kết, “gói lại” vấn đề đã đặt ra ở mở bài và phát triển ở thân bài.

+ Thậm chí có thể tiếp tục khơi gợi suy nghĩ, tình cảm ở người đọc.

– Một bài văn nghị luân hay là bài văn có giọng điệu, thể hiện trong đó sắc thái tư nhân của người viết; cách sử dụng từ độc đáo, cách nêu ý và lập luận sắc sảo; cách sử dụng dấu câu, từ cảm thán, từ nhân xưng,… linh hoạt, thích hợp với nội dung biểu hiện, thể hiện chuẩn xác ý nghĩ và tình cảm của bản thân.

Từ lẽ trên, ta thấy: kế bên việc rèn luyện kĩ năng tìm ý, lập dàn ý, vận dụng những thao tác nghị luân để triển khai vấn đề, cần chú ý rèn luyện kĩ năng diễn đạt đúng, tiến tới diễn đạt hay trong văn nghị luận. nếu như có kĩ năng diễn đạt tốt, thì bài văn nghị luận sẽ có sức hút hơn và có chất văn hơn.

– những yêu cầu cần chú ý khi trình bày bài văn nghị luận.

+ Chữ viết phải rõ ràng, dễ đọc, đủ nét, không mắc lỗi chính tả; không nên tẩy xoá nhiều, tránh làm trang giấy nhàu, bẩn, thiếu tính thẩm mĩ.

+ Bài viết phải chừa lề, viết thẳng lề. những phần mở bài, thân bài, kết bài, những luận điểm lớn trong thân bài phải xuống dòng và lùi vào một khoảng xác định.

+ Trích dẫn đúng cách, nếu như những dẫn chứng nguyên văn thì cần đặt trong dấu ngoặc kép. trường hợp không nhớ nguyên văn cần trích dẫn thì chuyển thành lời gián tiếp và không để trong dấu ngoặc kép.

+ Trình bày dẫn chứng cân đối hài hoà.

tập tành

Cho những đề bài:

Đề 1. Đọc truyện Ba thắc mắc trong SGK, tr. 183.

Theo anh (chị), Xô-cơ-rát sẽ nói với người khách thế nào? Hãy bình luận về bài học rút ra từ câu chuyện trên.

Đề 2. Gợi ỷ trả lời:

a) Tìm hiểu đề:

– Đề bài số 1 thuộc dạng đề nghị luận về một hiện tượng trong cuộc sống. Nội dung câu chuyên ở đề này nhằm phê phán hiện tượng có người chuyên đi nói xấu người khác. Truyện cũng đồng thời ngợi ca sự thông minh, hóm hỉnh, đạo đức trong sáng và cao thượng của nhà hiền triết Xô-cơ-rát. Câu chuyện là một bài học quý báu về tình bạn, về đạo lí và lối sống đúng đắn.

Thao tác lập luận trong bài viết là tìm hiểu (ý đồ của Xô-cơ-rát khi đưa ra ba thắc mắc đó là gì? Kết luận cuối cùng của ông là gì?), bình luận (đánh giá ý kiến, tư tưởng của nhà triết học thể hiện qua sự việc trên).

Những luận điểm cơ bản dự kiến:

+ Mục đích của ba thắc mắc mà Xô-cơ-rát đã đưa ra là gì?

+ Rút ra kết luận về câu nói cuối truyện của nhà triết học: ông có thể đã nói gì?

+ Bình luận và rút ra bài học cho bản thân từ câu chuyên trên.

– Đề bài số 2 thuộc dạng đề nghị luận văn học: tìm hiểu một đoạn thơ trong đoạn trích quốc gia của Nguyễn Khoa Điềm.

Thao tác lập luân chủ yếu đựoc sử dụng trong bài viết là thao tác tìm hiểu. không những thế cần sử dụng thêm những thao tác chứng minh, giảng giải, so sánh và đặc biệt là bình luận để đánh giá những tư tưởng của đoạn thơ.

Những luận điểm dự kiến:

+ trị giá nội dung của đoạn thơ (có thể chia nhỏ cụ thể tuỳ theo đoạn thơ mà người viết lựa lựa chọn);

+ trị giá nghệ thuật của đoạn thơ.

b) Lập dàn ý cho bài viết:

b l) Đề 1.

– Mở bài: Giới thiệu và trích dẫn câu chuyện.

– Thân bài:

+ Mục đích của ba thắc mắc mà Xô-cơ-rát đã đưa ra: tìm hiểu tính chất câu chuyện sắp phải nghe (Có đúng không? Có tốt không? Và có ích không?)

+ Rút ra kết luận về câu nói cuối truyện của nhà triết học: ông có thể đã nói gì?

Người viết có thể đưa ra nhiều phương án khác nhau quan trọng là đúng ý,

khuyến khích những cách trả lời thể hiện được sự độc đáo, sâu sắc và dí dỏm. (Tham khảo: trong nguyên bản, câu nói của Xô-cơ-rát với người khách ở cuối truyện là: “Vậy đó, nếu như những gì anh muốn kể không có thật, cũng không tốt đẹp, thậm chí cũng chẳng cần thiết cho tôi thì vì sao anh lại phải kể?”).

+ Bình luận và rút ra bài học cho bản thân từ câu chuyện trên.

Câu chuyện giúp người đọc hiểu rằng: trước khi nói / kể lại một điều gì cần suy nghĩ kĩ về vấn đề đó. Phải chắc chắn về sự đúng đắn, tốt đẹp, có ích của sự việc mới nên kể lại nếu như không sẽ phí thời giờ thậm chí có hại cho bản thân và người khác

Câu chuyện cũng ngầm phê phán một số thói xấu trong xã hội ngày nay (mách nước lẻo, thổi phồng sự việc, bôi đen sự việc, nói xấu sau lưng,…)

– Kết bài: Khẳng định lại tính có ích của câu chuyện và khái quát bài học rút ra được.

b 2) Đề 2.

– Mở bài: Giới thiêu đoạn trích và nội dung đoạn trích.

– Thân bài:

+ Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, vị trí đoạn trích.

+ tìm hiểu những trị giá về nội dung tư tưởng (làm rõ nghĩa câu chữ, nêu lên tư tưởng của những ý thơ đó…).

+ tìm hiểu những trị giá nghệ thuật.

+ Đoạn thơ đã góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm thế nào?

– Kết bài: khẳng định trị giá đoạn thơ cũng như của bài thơ.

c) Tập viết phần mở bài cho từng bài viết.

Gợi ý:

– Đề 1: (Trích dẫn câu chuyện)

Xô-cơ-rát đã nói gì với người khách của mình? Nhà triết nhân nổi tiếng ấy đã mang tới cho chúng ta bài học có ích gì trong cuộc sống?

– Đề 2: Nguyễn Khoa Điềm là thi sĩ có rất nhiều tìm tòi trong việc thể hiện những ý tưởng sâu sắc về nhân dân quốc gia. (Giới thiệu đoạn trích quốc gia và đoạn thơ sẽ tìm hiểu).

d) lựa chọn một ý trong dàn ý để viết thành một đoạn văn.

Người viết dựa vào phần dàn bài (một số ý đã khá chi tiết và cụ thể) để viết một đoạn mà mình tâm đắc nhất.

Tham khảo:

Đoạn thơ sau gợi cho anh (chị) cảm tưởng gì về sự gắn bó và trách nhiệm của mỗi người đối với quốc gia?

                Trong anh và em ngày hôm nay

                Đều có một phần quốc gia

                Khi hai đứa cầm tay

                quốc gia trong chúng ta hài hoà nồng thắm

                Khi chúng ta cầm tay mọi người

                quốc gia vẹn tròn, to lớn

                Mai này con ta lớn lên

                Con sẽ mang quốc gia đi xa

                tới những tháng ngày mộng mơ

                Em ơi em quốc gia là máu xương của mình

                Phải biết gắn bó và san sẻ

                Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

                Làm nên quốc gia muôn thuở.

những ý chính:

– quốc gia đã trở thành một phần máu thịt của mỗi con người, sự gắn kết máu thịt ấy đã trở nên thiêng liêng, gắn bó không rời. Chỉ có sự hoà quyện thực sự sâu sắc, thật tình, người ta mới thấy được sự hiển hiện của quốc gia trong hình ảnh mỗi con người. Những câu thơ là những lời khẳng định đầy chắc chắn, tự hào khi mang trong mình dáng hình quốc gia, khi có cái chung dân tộc trong mỗi tư nhân nhỏ bé, riêng tư. Nguyễn Khoa Điềm phát hiện những quy luật thế tất của tình yêu quốc gia. Từ trái tim một người tới trái tim của mọi người, từ tình anh, tình em, tình chúng ta tới tình dân tộc, tình quốc gia. Sự vẹn tròn, to lớn của quốc gia được tạo dựng từ chính tình yêu bình dị, thân thiết, nồng thắm của chúng ta. Tinh yêu lứa đôi là một nhân tố góp nên tình yêu quốc gia, làm đẹp thêm cho tình yêu quốc gia. Có phải khi cảm nhận sâu sắc được cái nồng thắm, yêu thương của tình lứa đôi cũng là khi con người cảm thấu rõ nhất phần hồn quốc gia trong máu thịt mình? Có phải sắc điệu thẩm mĩ của lời thơ nằm trong những phát hiện thiêng liêng, cao cả ngay từ cái giản dị, sắp gũi?

– Từ cuộc thế hiện tại, Nguyễn Khoa Điềm hướng tới tương lai để phát hiện bước trưởng thành, đi lên của quốc gia muôn thuở được bồi đắp, nuôi dưỡng qua nghìn vạn thế hệ. Hình tượng quốc gia ắp đầy niềm tin, chứa chan khát vọng và căng trào những sức sống từ bao nhiêu thế hệ tiếp nối. quốc gia hiện hình trong bao nhiêu mộng mơ và khát khao, bao nhiêu tin tưởng và tự hào. Con người lấy việc gắn bó, san sẻ, hoá thân cho quốc gia làm ước vọng cao đẹp của mình “dáng hình xứ sở” cao quỷ và vĩ đại, sắp gũi và yêu thương được góp tạo bởi những sự hoá thân tột cùng. bởi vậy, nó muôn thuở và bất tử.

– Nguyễn Khoa Điềm không chỉ rung động tận đáy lòng mà còn lặn sâu tới tận cùng cái hồn dân tộc để dựng xây tượng đài quốc gia quê hương. Bởi vậy mà hình tượng quốc gia được hiện lên sinh động, đẹp đẽ và linh diệu tới lạ kì! Khi nhập hoà vào cuộc sống hàng ngày có mồ hôi, nước mắt, có bao nhiêu sự vật thân yêu, khi quah quyện trong không gian, thời gian, khi thiết tha trong tình người gắn bó,… quốc gia cứ thế tồn tại tự nhiên, trường tồn bất tử, ăn sâu vào trong máu tim con người. quốc gia không xa xôi, cao vời, trừu tượng mà hiện hình từ chính cuộc sống, con người. Những câu thơ tự nhiên, ấm nóng, chảy trôi trong dòng xúc cảm thành kính, thiêng liêng tạo nên một giọng điệu rất riêng cho tứ thơ quốc gia, sắc điệu thẩm mĩ toả sáng lung linh khi Nguyễn Khoa Điềm mượn vốn văn hoá dân gian để viết về quốc gia mình, lấy chính những nếp nghĩ, điệu hồn của con người dân tộc để dệt nên bản sắc quốc gia, sắc điệu ấy là gì nếu như không phải vẻ đẹp hài hoà của văn bản ngôn từ, khi từ nội dung tư tưởng tới nghệ thuật thể hiện đều ấm nóng khá thở của cuộc thế, của quốc gia Nhân dân. Tất cả đều gắn bó sắp gũi, đều nồng ấm yêu thương, hình tượng quốc gia ra đời và phát triển đã thăng hoa, kết tinh sắc điệu thẩm mĩ ấy.

Trên đây là hướng dẫn Soạn bài Ôn tập phần làm văn được những Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung soạn trong chuyên mục soạn văn 12. những em có thể tham khảo đầy đủ những bài soạn văn lớp 12 ở đó nhé.

Bản quyền bài viết thuộc THPTSocTrang.Edu.Vn. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: cmm.edu.vn

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục

Related Posts