thế cục và sự nghiệp Giáo sư âm nhạc Trần Văn Khê
Giáo sư Trần Văn Khê là một nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cựu truyền nổi tiếng ở Việt Nam. thế cục và sự nghiệp của Giáo sư đã viết nên những trang sử vàng đáng nhớ cho nền âm nhạc Việt Nam. Để tưởng nhớ tới con người tài hoa của dân tộc, mời những độc giả tìm hiểu về tiểu truyện thế cục cũng như sự nghiệp của Giáo sư Trần Văn Khê.
tiểu truyện và thế cục nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu
Bạn đang xem bài: thế cục và sự nghiệp Giáo sư âm nhạc Trần Văn Khê
1. tiểu truyện thế cục Giáo sư Trần Văn Khê
Trần Văn Khê sinh ngày 24 tháng 7 năm 1921 tại làng Đông Hòa, tổng Thuận Bình, tỉnh Mỹ Tho (nay là huyện Châu Thành, Tiền Giang) trong một gia đình có bốn đời làm nhạc sĩ, nên từ nhỏ ông đã làm quen với nhạc cựu truyền. Năm lên 6 tuổi ông đã được cô (Ba Viện) và cậu (Năm Khương) dạy đàn kìm, đàn cò, đàn tranh, biết đàn những bản dễ như “Lưu Thuỷ”, “Bình Bán vắn”, “Kim Tiền”, “Long Hổ Hội“. Ông nội ông là Trần Quang Diệm (Năm Diệm), tổ tông là Trần Quang Chiêu (Bảy Triều), cô là Trần Ngọc Viện (tức Ba Viện, người đã sáng lập gánh cải lương Đồng Nữ ban), đều là những nghệ nhân âm nhạc cựu truyền nổi tiếng. Cụ cố ngoại ông là tướng quân Nguyễn Tri Phương. Ông ngoại ông là Nguyễn Tri Túc, cũng say mê âm nhạc, có ba người con đều theo nghiệp đờn ca. Một trong số đó Nguyễn Tri Khương, thầy dạy nhạc và nhà soạn tuồng cải lương nổi tiếng. Riêng mẹ ông là Nguyễn Thị Dành (Tám Dành), sớm tham gia cách mệnh, gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 và bị thương rồi mất trong năm đó. tổ tông vì thương nhớ vợ nên qua đời năm 1931. Ông có một người anh họ ngoại (con ông Nguyễn Tri Lạc) là nhạc sĩ Nguyễn Mỹ Ca.
Mồ côi từ rất sớm, mẹ mất năm 9 tuổi, cha mất năm 10 tuổi, nên ông cùng với hai em là Trần Văn Trạch (về sau là một ca sĩ nổi tiếng, có biệt danh Quái kiệt), Trần Ngọc Sương được cô Ba Viện nuôi nấng. Cô Ba Viện rất thương, cho anh em ông đi học võ, học đàn kìm.
Năm 10 tuổi, Trần Văn Khê đậu tiểu học, sang Tam Bình, Vĩnh Long nhờ người cô thứ năm nuôi. tới đây Trần Văn Khê được học chữ Hán với thi sĩ Thượng Tân Thị. Trong kỳ sơ học năm 1934 tại Vĩnh Long được đậu sơ học có phần Hán Văn. Cả tỉnh chỉ có Trần Văn Khê và Nguyễn Trọng Danh được đậu bằng chữ Hán.
Năm 1934, ông vào trường Trung học Trương Vĩnh Ký, được cấp học bổng. Học rất giỏi, năm 1938 ông được phần thưởng là một chuyến du lịch từ Sài Gòn tới Hà Nội, ghé qua Phan Thiết, Đà Nẵng, Nha Trang, Huế. Nhờ đậu tú tài phần nhất năm 1940, thủ khoa phần nhì năm 1941, ông được đô đốc Jean Decoux thưởng cho đi viếng cả nước Campuchia xem Chùa Vàng, Chùa Bạc tại Nam Vang, viếng Đế Thiên Đế Thích. Khi về Việt Nam, nhờ thầy Phạm Thiều giới thiệu, ông được Đông Hồ tiếp đãi, dẫn đi chơi trong một tuần.
Thời gian này, ông cùng Lưu Hữu Phước, Võ Văn Quan lập dàn nhạc của trường, và dàn nhạc của học sinh trong câu lạc bộ học sinh mang tên là Scola Club của hội SAMIPIC. Ông là người chỉ huy hai dàn nhạc đó.
Năm 1942, Trần Văn Khê ra Hà Nội học y khoa. Tại đây, cùng với Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Phan Huỳnh Tấng (nay đổi thành Phạm Hữu Tùng), Nguyễn Thành Nguyên, hoạt động trong phạm vi của Tổng hội Sinh viên. Do thể hiện một trình độ cảm nhạc xuất sắc, ông được cử làm nhạc trưởng của giàn nhạc trường, nhân giới thiệu những bài hát của Lưu Hữu Phước. Ông còn tham gia phong trào “Truyền bá quốc ngữ” trong ban của GS Hoàng Xuân Hãn, “Truyền bá vệ sinh” của những sinh viên trường Thuốc, và cùng những bạn Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng tổ chức những chuyến “đi Hội đền Hùng”, và đi viếng sông Bạch Đằng, Ải Chi Lăng, đền Hai Bà.
Năm 1943, ông cưới bà Nguyễn Thị Sương, và sau đó có rất nhiều sự kiện làm Trần Văn Khê phải xin thôi học để trở về miền Nam. Con trai ông là Trần Quang Hải, sinh năm 1944, sau này cũng là một nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Việt Nam tăm tiếng. Sau cách mệnh Tháng Tám, ông tham gia kháng chiến một thời gian rồi về vùng Pháp kiểm soát cuối năm 1946.
Ông sang Pháp du học từ năm 1949. Hè năm 1951, ông thi đậu vào trường Chính trị Khoa giao dịch quốc tế. Cho tới năm 1958, ông theo học khoa nhạc học và chuẩn bị luận án tiến sĩ dưới sự chỉ đạo của những Giáo sư Jacques Chailley, Emile Gaspardone và André Schaeffner. Tháng 6 năm 1958, ông đậu Tiến sĩ Văn khoa (môn Nhạc học) của Đại học Sorbonne. Luận văn của ông có tên: “LaMusique vietnamienne traditionnelle” (Âm nhạc truyền thống Việt Nam).
Từ năm 1963, ông dạy trong Trung tâm Nghiên cứu nhạc Đông phương, dưới sự bảo trợ của Viện Nhạc học Paris (Institut de Musicologie de Paris). Ông là thành viên của Viện Khoa học Pháp, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm châu Âu về Khoa học, văn học và Nghệ thuật cũng như nhiều hội nghiên cứu âm nhạc quốc tế khác; là chủ toạ Hội đồng Khoa học của Viện quốc tế nghiên cứu âm nhạc bằng phương pháp đối chiếu của Đức (International Institute for Comparative Music Studies).
Ông đã đi 67 nước trên khắp toàn cầu để nói chuyện, giảng dạy về âm nhạc dân tộc Việt Nam.
Sau 50 năm nghiên cứu và giảng dạy ở Pháp, năm 2006, ông chính thức trở về sinh sống và tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy âm nhạc dân tộc tại Việt Nam. Ông cũng là người đã hiến tặng cho Thành phố Hồ Chí Minh 420 kiện hiện vật quý, trong đó có rất nhiều loại nhạc cụ dân tộc và tài liệu âm nhạc.
Năm 2009, ông là một trong những trí thức nổi tiếng ký vào thư phản đối dự án Boxit ở Tây Nguyên.
Sau một thời gian bị bệnh, ông qua đời vào khoảng hai giờ sáng ngày 24 tháng 6 năm 2015 tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Gia đình Giáo sư Trần Văn Khê
Ông Trần Văn Khê có người em trai là nhạc sĩ Trần Văn Trạch và em gái út là Trần Ngọc Sương. Nhạc sĩ Trần Văn Trạch là một trong những nhạc sĩ nổi tiếng ở Sài gòn trước năm 1975. Trần Ngọc Sương sinh năm 1925, từng là ca sĩ lấy tên hiệu là Ngọc Sương, sau đổi lại là Thủy Ngọc trong những năm 1948-50, và hiện sống tại Montreal, Canada.
Người vợ đầu của ông Trần Văn Khê là bà Nguyễn Thị Sương (1921-2014). Ông Trần Văn Khê có bốn người con với bà Sương: GS.TS. Trần Quang Hải hiện là nhà nghiên cứu nhạc dân tộc tại Paris, Trần Quang Minh hiện là kiến trúc sư ở TP Hồ Chí Minh), Trần Thị Thủy Tiên hiện sống tại Paris, và Trần Thị Thủy Ngọc, nhạc sĩ đàn tranh và làm việc cho một ban nghiên cứu Đông Nam Á của trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học ở Paris.
Khi ông Khê sang Pháp học năm 1949, do hoàn cảnh, ông và bà Sương không còn sống với nhau nữa. Năm 1960, bà Sương và ông ly dị, tuy nhiên sau này vẫn coi nhau là bạn. Sau đó ông có những người phụ nữ khác. Ông nói: “Đa tình thì có thể nhưng rất may là tôi không phải là người bạc tình và cũng chưa bao giờ cùng lúc có hai ba người. Chỉ có người này đi qua người khác tới. Cũng chưa có người phụ nữ nào oán trách tôi, khi chia tay chúng tôi đều giữ lại được tình bạn“. Mấy chục năm cuối đời ông sống một mình.
Khi ông Khê sang Pháp học năm 1949, người con gái út của ông Trần Thị Thủy Ngọc chưa ra đời. Sau này, năm 1961 Trần Quang Hải (trưởng nam) sang Pháp, tới năm 1969 tới lượt Thủy Ngọc (con gái út) sang Pháp ở với cha. Còn Trần Quang Minh và Thủy Tiên ở lại Việt Nam, sống với mẹ. Trần Quang Hải kết hôn với ca sĩ Bạch Yến.
3. Giáo sư Trần Văn Khê là thành viên của nhiều hội nghiên cứu âm nhạc
- Hội Nhà văn Pháp (Société des Gens de Lettres) (Pháp)
- Hội Âm nhạc học (Société Française de Musicologie) (Pháp)
- Hội Dân tộc Nhạc học Pháp (Société Française d’Ethnomusicologie) (Pháp)
- Hội Âm nhạc học Quốc tế (Société Internationale de Musicologie)
- Hội Dân tộc Nhạc học (Society for Ethnomusicology) (Mỹ)
- Hội Nhạc học Á châu (Society for Asian Music) (Mỹ)
- Hội Âm nhạc Á châu và Thái Bình Dương (Society for Asian and Pacific Music)
- Hội Quốc tế Giáo dục Âm nhạc (International Society for Music Education)
- Thành viên và chủ toạ hội đồng khoa học của Viện Quốc tế Nghiên cứu Âm nhạc với Phương pháp Đối chiếu (International Institute for Comparative Music Studies) (Đức)
- Hội đồng Quốc tế Âm nhạc truyền thống (International Council for Traditional Music) nguyên phó chủ toạ (Mỹ)
- Hội đồng Quốc tế Âm nhạc (International Music Council/UNESCO), nguyên uỷ viên ban chấp hành, nguyên phó chủ toạ, đương kim Chung sanh hội trưởng danh dự (Pháp)
- Viện sĩ thông tấn, Hàn lâm viện Châu Âu, Khoa Học, văn học, Nghệ thuật…
4. Một số giải thưởng tiêu biểu của Giáo sư Trần Văn Khê
- 1949: Giải thưởng nhạc cụ dân tộc tại Liên hoan Thanh niên Budapest.
- Huy chương bội tinh hạng nhứt của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
- Văn hoá bội tinh hạng nhứt của Bộ giáo dục Việt Nam Cộng hòa.
- 1975: Tiến sĩ âm nhạc danh dự (Docteur en musique, honoris causa) của Đại học Ottawa (Canada).
- 1981: Giải thưởng âm nhạc của UNESCO ở Hội đồng Quốc tế Âm nhạc (Prix UNESCO – CIM de la Musique).
- 1991: Officier de l’Ordre des Arts et des Lettres, Ministère de la Culture et de l’Information du Gouvernement français (Huy chương về Nghệ thuật và văn học của Bộ Văn hoá Pháp).
- 1993: Cử vào Hàn lâm viện châu Âu về Khoa học, văn học, Nghệ thuật; viện sĩ thông tấn.
- 1998: Huy chương Vì Văn hoá Dân tộc của Bộ Văn hoá Việt Nam.
- 1999: Huân chương Lao động hạng nhất do chủ toạ Trần Đức Lương cấp.
- 2005: Giải thưởng Đào Tấn do Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc trao tặng.
- 2011: Giải thưởng Phan Châu Trinh về nghiên cứu.
Theo vi.wikipedia.org
Bản quyền bài viết thuộc THPTSocTrang.Edu.Vn. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: cmm.edu.vn
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục