tìm hiểu 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất ra sao? Hãy cùng Luật Minh Khuê tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
tìm hiểu 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất
Chinh Phụ Ngâm là một khúc trường ca đau thương, thấm đẫm hầu hết những cung bậc xúc cảm trong văn học Việt Nam, đặc biệt ở 8 khổ thơ cuối, nơi mà những xúc cảm dồn nén của nỗi nhớ nhung, sợ hãi càng trở nên da diết hơn ở khổ thơ đầu. những cuộc nội chiến giữa những doanh nghiệp phong kiến vào cuối thế kỷ 18 đã kết thúc, để lại những đau thương và thương vong không thể bù đắp. Văn học thời kỳ này tập trung phản ánh bản tính tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi thống khổ của những nạn nhân của chế độ thối nát này, được tầng lớp nho sĩ đón nhận rộng rãi. có rất nhiều bản dịch nhưng bản dịch Nôm của Đoàn Thị Điểm được coi là đầy đủ nhất. Tác phẩm phản ánh lòng căm thù chiến tranh phong kiến, đặc biệt là quyền được sống với khát vọng tình yêu và hạnh phúc hôn nhân. Đoạn trích sau đây là một đoạn tiêu biểu từ một đoạn đọc. Một tìm hiểu về tám đi lại trước hết của đoạn văn cho thấy sự đơn chiếc của kẻ chinh phục. Chinh phụ ở một mình trong căn phòng hiu quạnh, cảm thấy lẻ loi và đơn chiếc. Nỗi trống vắng trong lòng anh hiện ra trong tám câu thơ cuối cùng. Hạnh phúc hôn nhân chợt trào dâng trong lòng, khiến tôi nôn nao hơn bao giờ hết. Mượn gió đông để gửi lời yêu thương tới chồng. Đây là mong muốn tìm hiểu tin tức về chồng của cô gái đó:
“Lòng này gửi gió Đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đền non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa với khôn thấu
Thiếp nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”
Bạn đang xem bài: tìm hiểu 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất
Trái tim này là hiện thân của nỗi nhớ Chinh phục trong tim, biết làm gì hơn là phạm sai phép, nơi chiến trường xa xôi hiểm trở, nhờ gió, chỉ biết dựa vào gió gửi tin nhắn cho em. người chồng yêu dấu. Cô hy vọng gió sẽ mang nỗi nhớ, hy vọng và tình yêu tới người chồng xa rời đang phải đối mặt với nhiều nguy hiểm. Nhưng ôi, chốn yêu thương này xa vời vợi, em với tới được không, trong tim em chinh phục thời gian, vực thẳm, tiếng kêu cháy bỏng mãi không thể chạm tới vực sâu. Từ chiều sâu, chiều sâu và chiều sâu của mức độ hoài niệm, và từ việc nhấn mạnh nỗi nhớ của người chinh phụ đáng sợ và xé toạc thế nào, nó đưa ra so sánh. Đó là một xúc cảm, một cảm giác mơ hồ, mơ hồ khi bị rung động bởi hoang mang, hoài niệm. Hiện thực khắc nghiệt, đớn đau biến thành nỗi đau vô hình “sâu tận trời”. Nỗi nhớ của kẻ chinh phụ là vĩnh hằng, vô tận so với đường lên trời. Nỗi nhớ này thật thấm thía và khôn nguôi. Khoảng cách giữa người chinh phụ và chồng là “sâu, xa, rộng”, ngút nghìn mây mù, không người nào hiểu, giải nghĩa, không truyền đạt cho chồng Tây. Nỗi nhớ của người chinh phụ trở nên “đau đáu” như những xúc cảm bị kìm nén biến thành nỗi đau xót vô tận trong lòng. Nó cho người đọc cảm nhận một không gian rộng lớn, nhức nhối thể hiện nỗi vô vọng của Chinh phụ càng tăng thêm. “Nỗi đau” gắn liền với nỗi sợ hãi. Cô lo lắng cho chồng, cho tương lai của hai vợ chồng và cả cuộc thế còn lại khi anh bỏ nhà đi không báo trước. Ở đây, bài thơ được chia không liên tục thành hai phần ”cảnh buồn” và ”lòng vỡ”, nhấn mạnh hai ý nghĩa. Đầy đủ những cảnh. Hay những cảnh và nhân vật có cộng hưởng với nhau, tạo nên một bản giao hưởng vô tận của nỗi buồn? Phong cảnh về cơ bản là vô tri vô giác, nhưng chúng tôi đã thêm màu sắc vào tâm trạng. “Cành ướt sương” gợi cái lạnh buốt, tạo cảm giác đơn chiếc khi bạn có thể nghe thấy tiếng sâu bọ kêu vào giữa đêm. Tâm trạng của chị Chín thật đơn chiếc, là tiếng nấc xen lẫn với nỗi nhớ nhung, niềm thèm khát bi thiết nhưng vô vọng. Kẻ Chinh phụ loại bỏ nỗi buồn khỏi phong cảnh và làm nó tối tăm. Những hình ảnh ẩn dụ “cành sương”, “nhất tề”, “mưa” bao hàm nỗi đau buồn, đơn chiếc, héo úa của kẻ chinh phụ. Tác giả đã khéo léo sử dụng những thể thơ thất ngôn, tứ tuyệt, những hình ảnh, ẩn dụ truyền thống để trình bày cảnh ngụ ngôn và lý giải diễn biến tâm lý nhân vật. Điều này cho phép người đọc đi qua những cung bậc xúc cảm của nhân vật trữ tình một cách tự nhiên nhất và đi tới thông cảm với những người phụ nữ thời phong kiến. Xuất Hành cũng lên tiếng phản đối, tố cáo chiến tranh phong kiến dẫn tới cảnh vợ chồng phải ly tán. Cũng như lời tâm sự của Thúy Kiều trong Truyện Kiều “Cảnh nào mà chẳng sầu – người buồn có vui bao giờ?”, Chinh phụ coi cảnh ấy như vô hồn và nhàm chán, là tâm trạng của anh ấy lúc đó:
“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”
Mối quan hệ giữa con người với tâm trạng là ở chỗ khi con người vui thì niềm vui đó lan tỏa khắp nơi, rực rỡ, rộn ràng và muôn màu. Còn người buồn, nỗi buồn ngấm vào lòng khiến cảnh vật buồn tẻ, tẻ nhạt. những bức tranh “Cành sương”, “Tiếng sâu bọ”, “Mưa dầm dề” là những ẩn dụ cho nỗi đau của kẻ chinh phục. Tác giả đã khéo léo sử dụng thể thơ tám chữ của bài phối hợp với hình ảnh ước lệ gợi những biểu tượng “tuổi xanh thái bình”, “gió đông”. Cùng với hình ảnh ẩn dụ “sương mù” và “mưa phun”. Văn phong đặc biệt tốt, với những cảnh ngụ ngôn của Đặng Trần Côn dẫn dắt người đọc qua những cung bậc xúc cảm của nhân vật một cách tự nhiên nhất. Từ đó, bạn bộc bạch khát khao về tình yêu và hạnh phúc chính đáng. Đó là mối quan hệ giữa con người với tâm trạng của họ. Khi mọi người hạnh phúc, tâm trạng vui vẻ tràn ngập cảnh quan và bạn có thể thấy niềm vui của cuộc sống ở bất cứ đâu bạn nhìn. Còn người buồn nhìn cảnh mà thấy buồn đơn chiếc vì sầu đã ăn sâu vào trong lòng. Những hình ảnh “cành sương”, “tiếng đàn”, “mưa lộp độp” gợi tới nỗi đau của kẻ chinh phạt, cảnh vật héo úa, lòng người héo úa. Tác giả đã vận dụng khéo léo thể thơ của bài Song thất lục bát, phối hợp những hình ảnh ước lệ “bình yên”, “gió đông” với những hình ảnh ẩn dụ “sương mù”, “mưa phun”. Bằng cách trình bày cảnh ngụ ngôn, tác giả dẫn dắt người đọc qua những cung bậc xúc cảm của người kể một cách tự nhiên nhất, thể hiện ước mơ, khát vọng chính đáng của cô liên quan tới câu chuyện: tình yêu và hạnh phúc.
Đoạn trích “Nỗi đơn chiếc của người chinh phụ” của tác giả Đặng Trần Côn không những đượm lên sự đơn chiếc, lẻ bóng mà còn là sự chuyển biến tâm trạng của người phụ nữ chờ chồng xa xứ đi đương đầu, nhưng Đặng Trần Công bằng tài năng và tấm lòng của mình, đã tái tạo rất đẹp tấm lòng này. Hình bóng đơn chiếc và dòng xúc cảm tràn ngập tràn ngập xúc cảm con người, cảnh vật như chiếc bóng đơn chiếc, khắc sâu thân phận kẻ chinh phụ lẻ loi, đơn chiếc vào nỗi đau xé lòng. Hình ảnh người thiếu nữ một mình trong hình bóng lẻ loi, đơn chiếc của buồn nhất và đáng thương nhất. Vì vậy, thi sĩ đã vẽ nên những bức tranh về những nhân vật và phong cảnh đẹp và buồn. Bức tranh này là hình ảnh những bông hoa mưa phùn rơi tứ phía, mềm mại và nhạt nhòa, mưa phùn trên sân thượng trống vắng. Cô gái ngồi trên phố đi bộ và nhường nhịn như đang nhìn về phía xa. Cô gái trẻ vẫn còn trẻ, nhưng có nguy cơ trở thành góa phụ. Một phần đơn chiếc của họ là được yêu thương và quan tâm nhiều hơn. Qua tám câu cuối của bài “Nỗi đơn chiếc của Chinh phụ ngâm”, tuy ngắn gọn nhưng chất chứa biết bao xúc cảm lắng đọng của Chinh phụ ngâm. Từng câu thơ khiến người đọc có cảm giác như đang nghe một người phụ nữ chinh phụ giãi bày nỗi đơn chiếc, nỗi đau, nỗi nhớ chồng nơi biên ải xa xôi. của việc khắc họa những khoảnh khắc xúc động về nỗi đau không thể tưởng tượng nổi của tâm lý nhân vật, nhưng cũng mở ra những gì còn sót lại trong tâm hồn của người đọc, người cảm nhận nó.
Hy vọng bài viết trên của Luật Minh Khuê đã cung ứng cho quý độc giả những tri thức hữu ích. Chúc những bạn học tốt.
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Tổng hợp