tìm hiểu 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc để chứng minh nhận định…

tìm hiểu 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc với dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy cùng 20 bài văn mẫu hay nhất được Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung chọn lựa lọc sẽ giúp những em nắm bắt ý chính và nắm chắc tri thức cơ bản thông qua cách trình bày bài văn.

Việt Bắc là khúc hát ân tình thủy chung ngọt ngào, đằm thắm khi thể hiện xúc động tình cảm giữa người kháng chiến với vùng đất, con người chiến khu. Với 20 bài văn mẫu tìm hiểu 8 câu đầu bài Việt Bắc, những em sẽ thấy được tình cảm yêu thương, tình nghĩa của những cán bộ kháng chiến với chiến khu Việt Bắc trong giây phút chia tay.

Bạn đang xem bài: tìm hiểu 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc để chứng minh nhận định…

Đề bài: tìm hiểu 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc để chứng minh nhận định: Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc thì dù viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người.

ve dep thien nhien trong bai tho viet bac 600x381 1
tìm hiểu 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc

Xem thêm: tìm hiểu Việt Bắc hay nhất

Sơ đồ tư duy tìm hiểu 8 cầu đầu Việt Bắc

so do phan tich 8 cau dau bai viet bac
Sơ đồ tư duy tìm hiểu 8 cầu đầu Việt Bắc

Dàn ý tìm hiểu 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc – Mẫu 1

I. Mở bài

– Tố Hữu là thi sĩ tiêu biểu cho thiên hướng thơ trữ tình chính trị.

– Dẫn dắt tám câu thơ cần tìm hiểu.

II. Thân bài

1. Bốn câu đầu: Khơi gợi kỷ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, tình nghĩa.

– quang cảnh chia tay quyến luyến giữa kẻ ở và người về.

– Cách xưng hô “mình – ta”: thân tình sắp gũi như trong ca dao.

– Điệp ngữ và kết cấu tu từ được lặp lại hai lần như khơi dậy bao kỉ niệm. Hai nghi vấn đều hướng về nỗi nhớ, một nỗi nhớ về thời gian “mười lăm năm”, một nỗi nhớ về không gian: “sông, núi, nguồn”.

=> Đó là khoảng thời gian gắn bó biết bao kỉ niệm của người dân Việt Bắc với người lính

2. Bốn câu sau: Tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi thương nhớ, quyến luyến.

– Từ láy “bâng khuâng” thể hiện sự xao xuyến, “ngay ngáy” thể hiện sự không yên tâm trong dạ, không nỡ rời bước.

– Hình ảnh “áo chàm” chỉ người dân Việt Bắc thân yêu giản dị.

– Cử chỉ cầm tay nhau thay lời nói chứa đầy xúc cảm.

– Lời người ở lại nhắn gửi tới người ra đi: Lời nhắn gửi được thể hiện dưới phương thức những nghi vấn: nhớ về Việt bắc cội nguồn quê hương cách mệnh, nhớ thiên nhiên Việt Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ những kỉ niệm ân tình…

3. Nghệ thuật:

  • Liệt kê hàng loạt những kỉ niệm.
  • Ẩn dụ, nhân hóa: rừng núi nhớ người nào.
  • Điệp từ “mình”.
  • Cách ngắt nhịp 4/4 đều tha thiết nhắn nhủ người về thật truyền cảm.

=> Thiên nhiên, mảnh đất và con người Việt Bắc với biết bao tình nghĩa, ân tình, thủy chung.

III. Kết bài

Đánh giá chung về tám câu thơ đầu.

Dàn ý tìm hiểu 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc – Mẫu 2

I. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu và tác phẩm Việt Bắc.
– Giới thiệu nhận định cần chứng minh

II. Thân bài

a. giảng giải ý kiến đánh giá

– Giọng thơ tâm tình ngọt ngào.

– Nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc.

– Dù viết về đề tài chính trị gắn với sự kiện lịch sử tháng 10 năm 1954 nhưng bài thơ Việt Bắc nói chung và tám câu thơ trước hết vẫn hiện lên chất chứa xúc cảm của sự ngọt ngào, tha thiết.

b. tìm hiểu, bình luận về giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc trong 8 câu thơ đầu

– Bốn câu thơ đầu: là lời của những người ở lại – nhân dân Việt Bắc.

  • Điệp cấu trúc câu: “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình về mình có nhớ không?”.
  • Sự láy đi láy lại của nghi vấn tu từ đã xoáy sâu vào trong nỗi nhớ và sự day dứt khôn nguôi.
  • “Mười lăm năm ấy” gợi tháng ngày đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi.
  • Những hình ảnh “cây”, “núi”, “sông”, “nguồn” thân thuộc gợi nhắc lối sống ơn nghĩa thủy chung.

→ Giọng điệu tâm tình, thủ thỉ tràn đầy xúc cảm bâng khuâng, xao xuyến của đồng bào Việt Bắc.

– Bốn câu thơ sau là lời của người đi – những cán bộ đội viên cách mệnh.

  • Đại từ “người nào” ngân vang cùng sự “tha thiết” đã nhấn mạnh vào tình cảm, xúc cảm đặc biệt.
  • Những tính từ trình bày xúc cảm như “bâng khuâng”, “ngay ngáy”.
  • Tất cả mọi xúc cảm nhường như nén lại: “Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”.

– Giọng điệu tâm tình được tạo nên bởi nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc

  • Sử dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo và linh hoạt thể thơ lục bát – thể thơ dân tộc.
  • Kết cấu bài thơ được kiến tạo theo lối đối đáp giao duyên qua cặp đại từ “mình – ta”

c. Đánh giá về giọng thơ và nghệ thuật trong thơ Tố Hữu

– Giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết quyện hòa và gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc.

– Góp phần thể hiện đặc trưng trữ tình – chính trị trong phong cách thơ Tố Hữu.

– Tạo nên trị giá đặc sắc của tác phẩm Việt Bắc.

III. Kết bài

Đánh giá về tính trữ tình – chính trị trong thơ Tố Hữu

Iqt2n ve dep viet nam 8 144842997927112015103914 1
tìm hiểu 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc hay nhất

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 1

Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mệnh Việt Nam hiện đại. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống, tình cảm cách mệnh của con người Việt Nam hiện đại nhưng mang đậm chất dân tộc, truyền thống. Tố Hữu có rất nhiều tập thơ với nhiều bài thơ có trị giá, trong đó có bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ sau là đoạn thơ tiêu biểu thể hiện tâm tình quyến luyến quyến luyến của người ở lại đối với người ra đi:

“Mình về mình có nhớ ta

……………

Cầm tay nhau, biết nói gì ngày hôm nay”

Sau thắng lợi Điện Biên Phủ, Miền Bắc được phóng thích. Tháng 10 năm 1954, những cơ quan Trung ương Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc (Thủ đô kháng chiến) về thủ đô Hà Nội. Sự lưu luyến giữa kẻ ở và người ra đi đã khơi nguồn xúc cảm lớn cho thi sĩ sáng tác “Việt Bắc”.

“Việt Bắc” được viết bằng thể thơ lục bát, dài 150 câu thơ, gồm hai phần. Phần đầu bài thơ tái tạo một thời gian khổ mà oanh liệt của cách mệnh và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của quốc gia và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn chưng Hồ và Đảng đối với dân tộc. Bài thơ có kết cấu đối đáp. Hai nhân vật trữ tình “mình-ta” kẻ ở, người đi bộc lộ tâm trạng trong buổi chia tay đầy lưu luyến, xúc động. Chuyện ân tình cách mệnh được tác giả khéo léo thể hiện như câu chuyện tình yêu lứa đôi. thi sĩ hoá thân vào hai nhân vật trữ tình để bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình, cũng là của những người tham gia kháng chiến. Đoạn thơ gồm 8 câu đầu thuộc phần một của bài thơ.

Đoạn mở đầu bài thơ là lời đối đáp giữa kẻ ở và người về, lời từ biệt giữa Việt Bắc với người cán bộ kháng chiến về xuôi. Đoạn thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.

Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ đội viên khi chia tay:

“Mình về mình có nhớ ta

…………

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Bốn câu thơ gồm hai nghi vấn. nghi vấn thứ nhất, người Việt Bắc hỏi người cán bộ : khi

về xuôi thì còn nhớ người Việt Bắc không. Có nhớ thời gian gắn bó đã “mười lăm năm” và tình cảm là “thiết tha mặn nồng “hay không. Trong nghi vấn, cụm từ “mười lăm năm” là chỉ thời gian từ sau khởi nghĩa Bắc Sơn ( 1940) tới khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi (1954). Đó là khoảng thời gian Việt Bắc là căn cứ cách mệnh. những từ “thiết tha mặn nồng” là để chỉ mức độ tình cảm, đó là tình cảm tha thiết, sâu nặng. Từ đó thấy được: ở nghi vấn này, người ở lại đã nhắn nhủ với người về xuôi hãy nhớ Việt Bắc và cách mệnh có thời gian gắn bó trong khoảng thời gian dài, có tình cảm tha thiết, sâu nặng.

nghi vấn thứ hai, người Việt Bắc hỏi người cán bộ : khi về xuôi, nhìn “cây” thì có nhớ tới “núi” ở Việt Bắc không, nhìn “sông “thì có nhớ nguồn nước ở Việt Bắc không. Trong nghi vấn, cụm từ “nhìn sông nhớ nguồn” gợi nhớ tới câu tục ngữ “uống nước nhớ nguồn” thân thuộc. tương tự, trong nghi vấn này, một cách khéo léo, người ở lại như muốn nói với người về, cũng là lời khẳng định của thi sĩ: Việt Bắc là cội nguồn cách mệnh.

Điều đó thật đúng. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, Việt Bắc trở thành căn cứ địa cách mệnh, là nơi chưng Hồ, Trung ương Đảng và mặt trận Việt Minh lãnh đạo cuộc đấu tranh phóng thích dân tộc, dẫn tới thành công của cách mệnh tháng Tám năm 1945, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1946, thực dân Pháp trở lại đánh chiếm nước ta. Hà Nội rơi vào tay giặc. Việt Bắc tiếp tục trở thành căn cứ kháng chiến. Việt Bắc là “An toàn khu”, đã chở che, bảo vệ những cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ trong suốt thời kì kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc đã góp phần quan trọng làm nên thắng lợi Điện Biên Phủ, đưa dân tộc Việt Nam lên tầm cao của thời đại .Việt Bắc đúng là cội nguồn, là cái nôi của cách mệnh. Vì vậy, kết thúc phần đầu bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã viết “Mười lăm năm ấy người nào quên – Quê hương cách mệnh dựng nên Cộng hoà”.

Cả bốn câu thơ, qua lời ướm hỏi, đã khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, tình nghĩa; từ đó thể hiễn tâm trạng người ở lại: lưu luyến, bâng khuâng trong buổi chia tay, nhắn nhủ, tâm tình cùng người về xuôi về tình nghĩa cách mệnh.

Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:

“Tiếng người nào tha thiết bên cồn

………

Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”

Ở hai câu trên, người về không trả lời nghi vấn của người ở lại mà đưa ra nghi vấn nhưng là để bộc lộ tâm trạng. Từ “người nào” phiếm chỉ, nhưng ở đây là chỉ người Việt Bắc. Có thể hiểu hai câu thơ này là: nghe lời hỏi “tha thiết” của người Việt Bắc, người về xuôi thấy “bâng khuâng” trong dạ, “ngay ngáy” bước đi. Từ láy “bâng khuâng” diễn tả tâm trạng của người cán bộ: nhớ, buồn vì phải chia tay với Việt Bắc, nơi đã gắn bó suốt “mười lăm năm” với bao “đắng cay ngọt bùi”. Nhưng người cán bộ cũng hồi hộp, không yên trong lòng vì sắp được trở về quê hương sau thời gian dài xa vắng.

Ở hai câu thơ dưới, “áo chàm” là hình ảnh hoán dụ chỉ người Việt Bắc. Hai câu thơ đã gợi ra hình ảnh người Việt Bắc và cán bộ cách mệnh trong buổi “phân li”, cầm tay nhau mà không biết nói gì. Đó là hình ảnh kẻ ở người đi lưu luyến không muốn rời xa. Đó là tâm trạng xúc động không nói nên lời. Xúc động vì phải chia tay sau “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Người về còn xúc động vì phải rời xa nơi có “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”. Nơi đã từng “chia củ sắn lùi- Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.

Nhìn chung, tám dòng thơ đầu là cảnh chia tay đầy lưu luyến, quyến luyến nhưng là cuộc chia tay lớn mang tính chất chính trị trọng đại trong phương thức cuộc chia tay tình tứ của lứa đôi. Đoạn thơ đằm thắm tính dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình – ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở, người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng.

Tóm lại, “Việt Bắc” đã tái tạo một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, tình nghĩa gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, quốc gia. từ đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mệnh – một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mệnh và kháng chiến. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ “Việt Bắc” nói chung, đúng là một bản tình khúc ca tụng quốc gia và tình cảm cách mệnh cao đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 2

Những tháng ngày đấu tranh chống thực dân Pháp đầy gian khổ của nhân dân ta cuối cùng cũng dành được thắng lợi vô cùng vẻ vang, huy hoàng. Để làm nên thành công đó không thể không nhắc tới đóng góp của thơ văn động viên cách mệnh nêu lên ý thức đấu tranh, khí thế hừng hực của nhân dân ta. Tố Hữu chính là một thi sĩ lớn, có những tác phẩm vô cùng vượt trội ở giai đoạn này. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông nói về tình cảm khăng khít, gắn bó sâu nặng giữa quân và dân ta là bài thơ Việt Bắc. Mở đầu là 8 câu thơ nói về không gian chia tay của người đi – kẻ ở.

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mệnh thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm của con người Việt Nam hiện đại. Thơ ông mang đậm chất trữ tình chính trị sâu sắc: hướng tới cái chung về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mệnh và của cả dân tộc, coi những sự kiện chính trị lớn của quốc gia là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập tới những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân. không những thế, ông còn là thi sĩ khéo léo trong việc phối hợp những giải pháp nghệ thuật: Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, tâm thành; vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói thân thuộc với dân tộc. Đặc biệt ông phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…

Tập thơ Việt Bắc là một trong những sáng tác vô cùng nổi tiếng của ông. Bài thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những con người kháng chiến; ca tụng Đảng và chưng Hồ, tình quân – dân, tiền tuyến – hậu phương, miền xuôi – ngược, cán bộ – quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, quốc gia con người,…

Mở đầu đoạn trích là quang cảnh chia tay của người ở lại và người đội viên ra đi, trở về miền xuôi:

“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

Người ở lại mở lời khởi đầu cho cuộc hội thoại giữa người đi – kẻ ở trong quang cảnh chia tay. Bao nhiêu suy tư, trằn trọc của người ở lại được gửi gắm vào những nghi vấn dành cho người ra đi: liệu rằng người ra đi có nhớ về khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó thiết tha, mặn nồng đã qua hay không? Có nhớ về con người, thiên nhiên, căn cứ đầu não cách mệnh của nơi này hay không? Chỉ với bốn câu thơ nhưng người dân Việt Bắc đã tái tạo toàn bộ những gì hai bên đã có với nhau: đó là thời gian dài đằng đẵng, là những kỉ niệm đã có cùng nhau. Tố Hữu vô cùng khéo léo khi vận dụng cách xưng hô “mình – ta” vốn được sử dụng trong lối đối đáp xưa vào bài thơ của mình cùng với nghi vấn tu từ, điệp từ “nhớ” càng gây ấn tượng với độc giả về nét giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng tâm thành của con người nơi đây.

Trước tình cảm, sự trân thành của người dân Việt Bắc, người ra đi quyến luyến không nói nên lời:

“Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…”

Những tính từ “tha thiết, bâng khuâng, ngay ngáy” đã diễn tả vô cùng chuẩn xác, trung thực tình cảm của người ra đi trước giờ phút chia tay đầy quyến luyến. Có thể thấy, bốn câu thơ là vùng đất trù phú của những giải pháp nghệ thuật. kế bên việc sử dụng tính từ, Tố Hữu đã sử dụng vô cùng thành công trong việc sử dụng giải pháp nghệ thuật hoán dụ: mượn hình ảnh áo chàm – vật dụng thân thuộc với người nông dân để chỉ những con người lao động chất phác của mảnh đất này. Vào khoảnh khắc chia tay đầy xúc động ấy, người đi kẻ ở quyến luyến, quyến luyến không nói nên lời. Tất cả tình cảm được thể hiện qua cái cầm tay, bởi khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó đã đủ làm họ hiểu nhau, chỉ cần nhìn vào mắt nhau cũng có thể thấu hiểu tâm tư tình cảm của người còn lại. Phép lặng im (dấu “…”) cuối câu làm cho không gian của buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng và cũng để cả hai nhớ về thời gian bên nhau.

Đoạn trích nói riêng và bài thơ nói chung không chỉ là những kỉ niệm trong mười lăm năm gắn bó của người đội viên với nhân dân Việt Bắc mà còn là tình cảm gắn bó keo sơn, trước sau như một của người đi kẻ ở. không những thế tác giả còn thể nêu cao tầm quan trọng của chiến khu Việt Bắc đối với cách mệnh và độc lập của nước nhà. Tất cả nhưng tâm tư, tình cảm này được tác giả thể hiện trung thực nhất qua thể thơ lục bát và cách xưng hộ “mình – ta” vốn thân thuộc trong dân gian và những nghi vấn tu từ, liệt kê, hoán dụ… vô cùng tinh tế và đặc sắc đã góp phần không nhỏ vào việc làm nên thành công cho tác phẩm.

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

có nhẽ vì vậy mà quê hương cách mệnh Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm cùng tên. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên những trị giá, ý nghĩa tốt đẹp của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 3

thi sĩ Tố Hữu được coi là “cánh chim đầu đàn” tiên phong trong nền thơ ca cách mệnh Việt Nam. Ngay từ tập thơ trước hết, Tố Hữu đã cho thấy một trái tim hừng hực sức trẻ đang “bừng nắng hạ” vì được “mặt trời chân lý chói qua tim”. Và cho tới tác phẩm Việt Bắc, Tố Hữu đã hoàn toàn khẳng định được mình là một cây bút cách mệnh – trữ tình xuất sắc nhất trên văn đàn Việt Nam thế kỉ XX.

8 câu thơ đầu của bài thơ Việt Bắc thể hiện những xúc cảm lưu luyến, thương nhớ của mình khi rời Việt Bắc. Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng lối xưng hô mình – ta hết sức thân tình và tình cảm. Đặc biệt đây là cách xưng hô thường thấy trong những câu ca dao – dân ca về giao duyên giữa lứa đôi với nhau.

Tố Hữu đã khéo léo mang sắc thái tình cảm lứa đôi vào tình nghĩa quân dân. Chính điều đó đã mang lại cho người đọc cảm nhận 8 câu đầu bài thơ việt bắc một tâm trạng xúc động và quyến luyến như đang hòa nhập vào chính nhân vật “mình”

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

“Mười lăm năm ấy” tính từ năm 1941 cho tới hết năm 1954. 1941 là khi chưng Hồ về nước và lập căn cứ kháng chiến ở Pác Bó. Năm 1954 sau khi kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, chưng mới dời chiến khu về Hà Nội. Mười lăm năm ấy là mười lăm năm kháng chiến gian khổ. Nhưng trong chính những năm tháng vất vả trăm bề ấy, tình cảm quân – dân đã trở nên “thiết tha mặn nồng”.

Qua cảm nhận 8 câu đầu bài thơ việt bắc ta có thể thấy được tình cảm giữa “mình” – những người đồng bào Việt Bắc dành cho “ta” – người cán bộ kháng chiến miền xuôi. Không còn chỉ là tình quân – dân mà nó trở thành thứ tình cảm giữa những người thân thiết trong gia đình.

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Những từ láy liên tục: tha thiết, bâng khuâng, ngay ngáy đã khắc họa rõ nét tâm trạng rối bời của nhân vật trữ tình trong phút chia ly. Trong đó, áo chàm là một hình ảnh ẩn dụ hết sức đặc sắc.

sử dụng áo chàm để chỉ những người đồng bào Việt Bắc, Tố Hữu đã thực sự hòa nhập vào cuộc sống của những người dân ở đây. Không còn khoảng cách quân – dân, cán bộ – đồng bào. Trong giây phút chia ly chỉ còn “mình” với “ta” cùng nỗi xúc động “không biết nói gì ngày hôm nay”

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc để thấy được tính dân tộc của bài thơ, trước hết ở kết cấu đối đáp kiểu ca dao giao duyên. Kiểu kết cấu đối đáp trong ca dao giao duyên là một kiểu kết cấu độc đáo để nhân vật trữ tình có thể vừa kể lể sự việc bộc lộ xúc cảm, thể hiện thái độ tình cảm với “đối phương” hoặc đối tượng được nói tới.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 4

Tố Hữu, ông là một trong những thi sĩ trữ tình chính trị. Vừa tham gia chiến tranh, vừa viết thơ nên thơ ông dành rất nhiều tình cảm cho con người và lý tưởng sống của cách mệnh Việt Nam. Trong đó, tác phẩm “Việt Bắc” là một trong những tác phẩm để đời của ông, bài thơ thấm đậm hồn thơ của Tố Hữu và là bản hùng ca về kháng chiến, đấu tranh chống thực dân Pháp.

Tác phẩm được viết nhân ngày sự kiện những cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ phải rời xa chiến khu Việt Bắc để về Thủ đô Hà Nội, sau khi hiệp nghị Giơnevơ được ký kết thành công vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ không chỉ ghi lại ánh hào quang trong lịch sử dân tộc mà còn là lời tâm sự đầy thân yêu, thể hiện một tình cảm sắc son, thủy chung của người đi và chiến khu Việt Bắc. Cảnh chia ly quyến luyến ấy được thi sĩ khắc họa trung thực, sinh động và đầy xúc động với 8 câu thơ đầu:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn

Tiếng người nào tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ ngay ngáy bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”.

Theo như lịch sử Việt Nam, thì Việt Bắc còn là tên gọi chung của sáu tỉnh phía Bắc thời kháng chiến chống thực dân Pháp, là Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, được viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Đây là khu căn cứ địa kháng chiến, được Đảng Cộng Sản và Chính phủ thành lập từ năm 1940. Ở nơi đây, nhân dân Việt Bắc và cán bộ đội viên cách mệnh đã trải qua 15 năm gắn bó tình nghĩa, từ năm 1940 tới năm 1954.

Sau khi quân và dân ta hạ gục giặc ngoại xâm để làm nên thắng lợi Điện Biên Phủ vẻ vang, làm trấn động tới cả toàn cầu, thì tới tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người trong buổi chia ly ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho tác giả Tố Hữu viết nên bài thơ “Việt Bắc” nổi tiếng. Trong suốt tác phẩm là nỗi niềm thương nhớ về những năm tháng đấu tranh gieo neo khổ cực nhưng mà lại đầy tình nghĩa của quân và dân.

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”

Mở đầu của bài thơ, tác giả đã sử dụng một nghi vấn tu từ mang âm hưởng ca dao: “Mình về mình có nhớ ta”. “Mình về” ở đây tiết lộ cho người đọc thấy rằng hoàn cảnh để đưa tới nỗi niềm của người ở lại. Đó là đang tiễn người đi trở về nhà. Chữ “mình” và “ta” được sắp xếp đứng cách xa nhau và chữ “nhớ” được đứng ở giữa. Điều đó thể hiện cho chúng ta thấy rằng, dù mình và ta có cách xa nhau bao nhiêu ,bao lâu thì vẫn luôn luôn nhớ mãi về nhau. Nỗi nhớ ấy dựa trên 15 năm gắn bó thiết tha mặn nồng: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” .Có thể thấy, câu thơ đang mang dáng vẻ nỗi nhớ trong thơ Kiều: “Mười lăm năm ấy biết bao là tình”. Nhưng nếu như như nàng Kiều là nói về tình yêu lứa đôi thì ở đây tác giả nhắc muốn nói tới là tình đồng chí, đồng bào trong một thời kháng chiến, đấu tranh đầy gian lao, khốc liệt. Thời gian 15 năm với biết bao những đau thương mất mát, mà giờ đây chỉ còn là tình cảm thiết tha mặn nồng. 15 năm là quãng thời gian mà người ta có thể ví như là ¼ đời người. Người ở và người đi đã đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau chia sẽ những trở ngại, đã cùng vào sinh ra tử.

Với 8 câu thơ đầu Việt Bắc ta càng thấy trân trọng hơn tình cảm của những con người Việt Nam dành cho nhau, chia sẻ những đắng cay, ngọt bùi, những lúc gian khổ. nhường như càng khốc liệt bao nhiêu thì con người càng yêu thương nhau, đùm bọc chở che cho nhau nhiều hơn. Chính vì vậy, câu sau tác giả lại tiếp tục sử dụng nghi vấn tu từ: “Mình về mình có nhớ không”. Giờ đây, mình và ta đã hòa vào thành một. Nỗi lòng của người ở và của người đi, tất cả đều đều chung quy một nỗi nhớ. Và nỗi nhớ ấy không ngừng lại ở nội tâm mà còn lan rộng ra cả thiên nhiên, núi rừng, sông suối “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đây như vừa là lời nhắn nhủ của người ở lại nói với người đi rằng, sau này dù có như nào đi đâu về đâu khi nhìn thấy cây thì hãy nhớ tới núi rừng Việt Bắc, khi nhìn thấy sông thì cũng nhớ tới cội nguồn của chiến khu này. Đồng thời là lời hứa của người đi rằng sẽ luôn nhớ về chiến khu Việt Bắc từ núi cho tới nguồn mỗi khi nhìn thấy cây, thấy sông.

Trong câu thơ xuất hiện hai từ chỉ hành động đó là “nhìn” và “nhớ”. Một hành động trình bày hoạt động thị giác, một động từ trình bày hoạt động trong tâm trí. Nhìn là đang nói tới hiện tại, tương lai. Nhớ là nói về quá khứ. Điều này nhấn mạnh rằng dù người ở và người đi tương lai có thế nào thì vẫn luôn nhớ về quá khứ bên nhau. Động từ “nhớ” xuất hiện với tần suất dày đặc, như để khẳng định như để khắc sâu hơn vào tâm trí, tâm hồn người và cảnh Việt Bắc về nỗi nhớ. Đồng thời qua đây ta có thể cảm nhận được tấm lòng trung thực, tình cảm tâm thành của người dân miền núi dành cho đội viên cách mệnh. Dù có nghèo túng, khổ cực ra sao, nguy hiểm, gian lao thế nào, họ vẫn luôn luôn sẵn sàng dành cho những cán bộ miền xuôi một tình cảm da diết và mãi vững bền.

nếu như như bốn câu thơ đầu thi sĩ diễn tả tình cảm của người Việt Bắc dành cho cán bộ về xuôi thì đối với những câu thơ sau nói lên tình cảm đáp lại của những đội viên cách mệnh và cán bộ với người chiến khu:

“Tiếng người nào tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ ngay ngáy bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”

những người đội viên cách mệnh định bước đi, nhưng lại bỗng nghe tiếng “người nào tha thiết” khiến cho họ bước đi mà trong lòng ngay ngáy. thi sĩ thật khéo léo khi chỉ qua hai câu thơ nhưng đã vẽ lên được sự quyến luyến lưu luyến không muốn chia cách của cả người ở lẫn người đi. Chỉ có những người nào đã gắn bó với nhau trong thời gian rất dài và dành tình cảm cho nhau lắm thì mới khó lòng chia xa tới tương tự. Bởi vì cả hai người ở và người đi đều biết rằng, chiến tranh sẽ vẫn còn tiếp tục .

Sự gặp lại không biết là tới bao giờ. Bởi vậy, họ càng thấy tiếc nuối xót xa. Giống như chân lý mà Chế Lan Viên đã từng khẳng định: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”. những đội viên, cán bộ cách mệnh đáp lại lời của bà con dân bản đó là bà con và đất trời chiến khu đã trở thành một phần trong tâm hồn của họ. Tác giả đã sử dụng 2 cụm từ láy “bâng khuâng” và “ngay ngáy” để càng nhấn mạnh thêm sự day dứt, lưu luyến không muốn rời xa của người đi. Người đi là những cán bộ về xuôi. Họ ra đi nhưng vẫn mang trong mình nỗi lo lắng và nhung nhớ nơi chiến khu. Họ thương người dân ở chiến khu. Họ lo lắng rằng, trong những năm tháng sắp tới, người dân ở nơi đây sẽ thế nào. Thật sự, chưa nơi đâu mà tình cảm quân dân lại thắm đẵm xúc động tới như thế này.

Hình ảnh buổi chia ly giữa người ở và người đi đầy những giọt nước mắt, nghẹn ngào diễn ra đội viên cách mệnh và người Việt Bắc được trình bày rõ nét nhất vào hai câu thơ cuối:

“Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”

Nói tới “áo chàm” là người ta nghĩ tới hình ảnh chiếc áo màu nâu, là màu áo của bà con nông dân lam lũ, lao động, cực khổ đã cần mẫn phục vụ cho cách mệnh nước nhà. thi sĩ đã sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” đó chính là nói về người nông dân Việt Bắc hiền lành, cần mẫn. Áo chàm ở đây không chỉ là dành cho riêng người nào, mà nói tới tất cả những người dân chiến khu Việt Bắc. Họ và những cán bộ cầm tay nhau mà không biết nói gì. Không phải là họ không có gì để nói với nhau mà trong lòng họ có quá nhiều thứ để nói. Họ muốn nói với nhau, muốn tâm sự với nhau nhiều lắm nhưng không biết khởi đầu từ đâu. Thế nên, chỉ cầm tay nhau để cảm nhận được hết những nỗi lòng của nhau. Bởi từ bàn tay, trái tim con người sẽ dễ dàng cảm nhận được. Dù tình cảm vô cùng keo sơn gắn bó, nhưng giữa những con người ấy vẫn luôn hợp lí trí. Họ hiểu được rằng, không còn cách nào khác nữa. Cuộc vui nào rồi cũng tới lúc xa vắng. Nhưng chia li trong nước mắt hạnh phúc vẫn hơn là trong khổ cực. Dù là phải xa nhau nhưng người dân Việt Bắc và những đội viên cách mệnh vẫn có một niềm vui to lớn, đó là niềm vui của thắng lợi .

8 câu thơ ở đầu bài Việt Bắc thi sĩ Tố Hữu đã sử dụng nhưng giải pháp nghệ thuật tạo điều kiện cho đoạn thơ càng hấp dẫn. trước hết là về thể thơ lục bát. Với thể loại này, khiến cho người đọc vô cùng dễ nhớ dễ thuộc, bởi vì đây là thể thơ mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. không những thế, lối hát đối đáp mang âm hưởng ca dao, dân ca giúp bài thơ thêm phong phú về nhạc điệu. phối hợp với nhiều giải pháp tư như như hoán dụ, nghi vấn tu từ… giúp bức tranh buổi chia ly thêm rõ nét và có rất nhiều xúc cảm.

Qua 8 câu thơ đầu của tác phẩm Việt Bắc, thi sĩ Tố Hữu đã tạo điều kiện cho người đọc vô cùng cảm động trước tình cảm tâm thành sâu sắc giữa bà con chiến khu Việt Bắc với những cán bộ, đội viên cách mệnh. nếu như như, 15 năm người ta sống trong sung sướng, sang giàu thì chưa chắc đã gắn bó, tình nghĩa như khi người ta sống trong gieo neo, khổ cực nguy hiểm. Bởi vậy, khi phải nói lời chia tay, mối thân tình ấy của người đi và người ở càng thêm day rứt, luyến lưu.

Vì là một người trong cuộc, cùng chứng kiến, thi sĩ Tố Hữu lại mang trong mình một hồn thơ yêu nước nên ông đã vẽ nên bức tranh thật sinh động, tuy mộc mạc, giản dị nhưng thấm đậm tính nhân văn.

phan tich bai tho viet bac cua to huu 1
tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 5

Tố Hữu là thi sĩ tiêu biểu cho thiên hướng thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mệnh Việt Nam. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. 8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc đã tái tạo niềm thương nỗi nhớ, cũng chính là niềm trằn trọc chung của đồng bào ta trong lần chia tay lịch sử.

Tính dân tộc là những dấu ấn độc đáo, không lặp lại, biểu hiện những gì là bản sắc, là những nét riêng biệt đặc thù của một dân tộc. Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính nhưng đồng thời cũng là thước đo trị giá của một tác phẩm văn học. Những tác phẩm văn học lớn từ trước cho tới nay. Mà những tác phẩm vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc sâu sắc.

Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn phương thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề hiện thực đời sống cách mệnh nóng bỏng liên quan tới vận mệnh dân tộc, những tình cảm chính trị có sự gắn bó, hòa nhập với truyền thống tình cảm và đạo lí của dân tộc, khát vọng và ý chí của một dân tộc. Về phương thức nghệ thuật, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc (cách so sánh, ẩn dụ, hiện tượng chuyển nghĩa, cách diễn đạt sắp với ca dao dân ca). nếu như hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách nghệ thuật “đằm thắm bản sắc dân tộc”.

Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người ở lại, khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội tình nghĩa, thể hiện tâm trạng thương nhớ, tình cảm gắn bó, thủy chung của quê hương Việt Bắc, con người Việt Bắc dành cho người về xuôi. Ở đây, thi sĩ sử dụng thành công những hình ảnh đối đáp kiểu dân gian:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

quang cảnh chia tay quyến luyến giữa kẻ ở và người về. Cách xưng hô “mình – ta”: thân tình sắp gũi như trong ca dao. Điệp từ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng. Cách xưng hô “mình – ta” : thân tình sắp gũi như trong ca dao. Điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” : lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc tình nghĩa.

Người ở lại đặt nghi vấn tu từ “Mình về mình có nhớ ta” để nhắc nhớ người ra đi, gợi trong người ra đi những kỷ niệm về ” mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Mười lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho tới tháng 10.1954, là mười lăm năm “Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi”, là mười lăm năm có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia, mười lăm năm “bát cơm chấm muối mối thù nặng vai”…làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. có nhẽ vì vậy nên nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã nghĩ rằng: ” “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính là thứ thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn”.

“Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Lại một nghi vấn tu từ nữa xuất hiện. Lại là một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Hà Nội rồi, thấy cây hãy nhớ tới núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ tới suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà tâm thành: Việt Bắc là cội nguồn cách mệnh, “Quê hương cách mệnh dựng nên Cộng hòa”, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này phải chăng là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của thi sĩ Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. từ đó thi sĩ cũng nhắc nhớ những thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc tích, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.

Hai nghi vấn đều hướng về nỗi nhớ, một nỗi nhớ về thời gian “mười lăm năm”, một nỗi nhớ về không gian: sông, núi, nguồn. Đó là khoảng thời gian gắn bó biết bao kỉ niệm của người dân Việt Bắc với người lính.

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Bốn câu thơ là tiếng lòng của người cán bộ cách mệnh về xuôi: tâm trạng bâng khuâng, ngay ngáy đầy lưu luyến, quyến luyến của người kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc.

Từ láy “bâng khuâng” thể hiện sự xao xuyến, “ngay ngáy” thể hiện sự không yên tâm trong dạ, không nỡ rời bước. Hình ảnh “áo chàm” chỉ người dân Việt Bắc thân yêu giản dị. Cử chỉ “cầm tay nhau” thay lời nói chứa đầy xúc cảm. Không khí buổi chia tay thân tình, sắp gũi, quyến luyến không muốn chia xa.

Lời người ở lại nhắn gửi tới người ra đi: Lời nhắn gửi được thể hiện dưới phương thức những nghi vấn: nhớ về Việt Bắc cội nguồn quê hương cách mệnh, nhớ thiên nhiên Việt Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ những kỉ niệm ân tình…

nếu như như người Việt Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha thiết. Không sử dụng đại từ xưng hô “mình”, “ta” mà người xưng hô sử dụng đại từ “người nào” để khẳng định trước hết là sự gắn bó với người ở lại. người nào có thể là đại từ để hỏi nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất sắp cách nói của ca dao: “Nhớ người nào bổi hổi bổi hổi” Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong trị giá biểu cảm của từ “người nào”. Một chữ “người nào” của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc tới chừng nào và hiểu nỗi niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mệnh, đối với người miền xuôi. Một chữ “người nào” làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Hai từ láy “bâng khuâng” và “ngay ngáy” góp phần làm tăng thêm tâm trạng người ra đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại “Bước đi một bước lâu lâu lại ngừng” để rồi “cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”. Không biết nói gì phải chăng là vì có quá nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ơn nghĩa, sắt son không thể nào sử dụng ngôn từ để diễn tả, đành phải gửi tâm tình qua cái nắm tay thật chặt, thật lâu. “Cầm tay” là biểu tượng của yêu thương kết đoàn. Chỉ cần cầm tay nhau thôi và hãy để tương đối ấm nói lên tất cả, yêu thương, nhung nhớ, tình nghĩa sẽ ấm mãi như tương đối ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu chấm lửng ở cuối câu như càng làm tăng thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận. Nó như nốt lặng trong một khuông nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. từ đó con người Việt Nam hiện lên thật đẹp với những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc: ơn nghĩa, thủy chung, son sắt.

Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã vô cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mệnh. Từ xưa tới nay lục bát vốn là thể thơ dễ đi vào lòng người bởi âm điệu ngọt ngào vốn có của nó. nếu như đừng để diễn đạt tình cảm thì không còn gì hay bằng. Hay hơn nữa thi sĩ đã khéo vận dụng lối đối đáp vốn là phương thức diễn ý thân thuộc trong ca dao dân ca.

Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào và thấm đượm ý thức dân tộc. không những thế tiếng nói là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn dân tộc của tác phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là tiếng nói. tiếng nói thơ của Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cặp đại từ nhân xưng mình-ta vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng mà ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình yêu lứa đôi.

Tính dân tộc về mặt phương thức còn thể hiện qua hình ảnh. Đó là dáng núi hình sông :” Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đó là hình ảnh chiếc áo chàm trong “buổi phân li”. Áo chàm là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc tình nghĩa nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Những con người ấy là đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa hào hùng lại hào hoa: “Lưng mang gươm tay mềm mại bút hoa/Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”.

Tính dân tộc không chỉ vô cùng thành công trên phương diện nghệ thuật mà còn đậm nét qua nội dung, tư tưởng. Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh đậm nét hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mệnh; đã đưa những tư tưởng tình cảm cách mệnh hòa nhịp và tiếp nối truyền thống ý thức, tình cảm đạo lý dân tộc.

Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mệnh, Tố Hữu đã viết nên một bản tình khúc, anh hùng ca đằm thắm bản sắc dân tộc. tình nghĩa sâu nặng của người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc, của quần chúng đối với cách mệnh trong thơ Tố Hữu là sự kế thừa tình cảm, đạo lý sống của con người Việt Nam “Uống nước nhớ nguồn”, ơn nghĩa thủy chung. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở thành một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.

8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc là minh chứng cho sự thành công của thơ Tố Hữu trong việc phối hợp hai yếu tố: cách mệnh và Dân tộc trong phương thức đẹp đẽ của thơ ca. Tính dân tộc là một trong những đặc điểm vượt trội làm nên phong cách thơ Tố Hữu. Thơ Tố Hữu mang vẻ đẹp của thơ ca truyền thống nhưng vẫn mang đậm hồn thơ của thời đại cách mệnh.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 6

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của thơ ca cách mệnh nước nhà. Thơ của ông luôn mang theo hướng sử thi và cảm hứng lãng mạng, đậm chất trữ tình. Trong sự nghiệp của mình Tố Hữu đã có rất nhiều tác phẩm có trị giá như tập thơ “Từ ấy”, “Máu và hoa”… một trong những số đó bài tiêu biểu nhất là bài thơ “Việt Bắc” trích trong tập thơ “Việt Bắc”. Bài thơ tác giả đã thể hiện một cách thành dự án bày về nỗi nhớ nhung ra riết, tâm trạng bổi hổi lo lắng, lưu luyến trong buổi chia xa của người dân ở chiến khu Việt Bắc với đội viên và cán bộ cách mệnh. Điều đó ta có thể thấy rằng thi sĩ Tố Hữu thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tiếng người nào tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Chiến Khu Việt Bắc là một trong những căn cứ địa cách mệnh, là cái nôi đấu tranh, kháng chiến chống giặc. Sau thắng lợi tưng bưng vẻ vang, thắng lợi Điện Biên Phủ tháng 7 năm 1954, hiệp nghị Giơ ne vơ được kí kết. Tháng 10 năm 1954, Đảng và chính phủ nhà nước ta phải rời chiến khu Việt bắc trở về Thủ Đô Hà Nội. Cùng với sự kiện lịch sử vẻ vang ấy Tố Hữu đã viết nên bài thơ “Việt Bắc”.

Câu thơ mở đầu của bài thơ đó là một nghi vấn tu từ chứa đựng nhiều xúc cảm:

“Mình về mình có nhớ ta”

Từ “Mình” đó là để chỉ những người ra đi – người đội viên cách mệnh,từ “ta” chính là để chỉ người dân ở chiến khu Việt Bắc. nghi vấn đó chính là lời của người ở lại đặt nghi vấn cho người ra đi rằng khi người đội viên cách mệnh về dưới thủ đô Hà Nội rồi còn có nhớ tới những người nông dân Việt Bắc ở đây hay không? Với cách xưng hô “mình – ta” mà thi sĩ tố Hữu đã sử dụng, nó mang đậm chất ca dao cùng với điệp từ mình đã cho chúng ta thấy được tình cảm keo sơn gắn bó thân thiết đầy yêu thương của những người dân Việt Bắc dành cho những đội viên cán bộ cách mệnh, làm cho nỗi nhớ càng thêm day dứt khôn nguôi. Người Việt Bắc muốn hỏi người đội viên cách mệnh kháng chiến có nhớ:

“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

Cụm từ Mười lăm năm đó chỉ là từ chỉ thời gian, là những khoảng thời gian chung sống với nhau, gắn bó keo sơn giữa người đội viên và người nông dân ở chiến khu Việt Bắc. Đó là một khoảng thời gian rất dài cùng nhau kháng chiến, đấu tranh chống thực dân Pháp, cùng nhau vượt qua biết bao gian khổ. Từ “ấy” vang lên chứ tác giả đã không sử dụng từ “đó” như làm tăng thêm ý nghĩa của một khoảng thời gian “mười lăm năm” đồng thời để thể hiện sự trân trọng của tác giả đối với những tháng ngày gắn bó cùng người dân ở chiến khu Việt Bắc. Những từ như : “thiết tha”, “mặn nồng” là những từ tác giả sử dụng sử dụng để nhấn mạnh tình cảm yêu thương gắn bó keo sơn đùm bọc giữa người nông dân Việt Bắc và những người lính, cán bộ cách mệnh. Từ đó tác giả Tố Hữu muốn nhấn mạnh hơn để chúng ta thấy rõ hơn về tình nghĩa thủy chung son sắt luôn một lòng hướng tới cách mệnh, hướng tới những người đội viên, cán bộ của người dân chiến khu Việt Bắc.

Câu thơ tiếp tới thi sĩ Tố Hữu viết như một lời nhắc nhở đối với người đội viên và cán bộ cách mệnh rằng:

“Mình về mình có nhớ không”

Vẫn là câu những nghi vấn tu từ đó, vẫn là cùng một cách xưng hô “mình” nhưng đây là một nghi vấn vang lên như một lời nhắc nhở rằng “có nhớ không”. Người Việt Bắc muốn nhắc nhở tới người đội viên và cán bộ cách mệnh là về thủ đô Hà Nội, về xuôi thì nhớ tới chiến khu Việt Bắc, hãy:

“Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Khi về tới thủ đô Hà Nội, những người lính và cán bộ cách mệnh khi nhìn thấy cây ở Hà Nội phồn hoa thì xin đừng quên mà hãy nhớ tới vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng nơi Việt Bắc. Hãy nhớ tới nơi mà đã gắn bó một thời gian dàu, thủy chung, son sắc, nơi những người lính, cán bộ cách mệnh và người Việt Bắc đã cùng nhau kháng chiến đấu tranh chống thực dân Pháp, cùng nhau vượt qua biết bao là gieo neo, khổ cực. Khi nhìn thấy sông thì hãy nhớ tới cội nguồn, hãy nhớ tới sông núi ở chiến khu Việt Bắc, nhớ tới những dòng sông đã đồng hành cùng những đội viên cách mệnh đấu tranh. Hay đó cũng chính là lời nhắc nhở của người dân chiến khu Việt Bắc đối với người đội viên, cán bộ cách mệnh khi trở về thủ đô Hà Nội nhìn thấy cảnh vật nơi đô thị đẹp đẽ, tươi mới ấy thì hãy nhớ tới con người Việt Bắc nơi đây, nhớ tới những tháng ngày đồng hành cũng nhau đấu tranh gian khổ nơi núi rừng đầy nguy hiểm, trắc trở, cheo leo. Ở đây Điệp từ “nhìn” và “nhớ” tác giả sử dụng nhường như đã nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại. Mong muốn những người lính, cán bộ cách mệnh luôn luôn nhớ mãi về nơi chiến khu Việt Bắc. Nơi có những con người giản dị, chất phác, sắt son, thủy chung, mãi luôn một lòng mong nhớ về người lính cách mệnh.

Tiếp tới là Bốn câu thơ trước hết là lời của những người nông dân nơi chiến khu Việt Bắc hỏi người lính ,cán bộ cách mệnh về xuôi.Ở đó thi sĩ Tố Hữu đã tính ý khi sử dụng lối đối đáp cách xưng hô “mình – ta”, điệp từ cùng với từ láy, đặc biệt là phối hợp cùng với nghi vấn tu từ đã làm cho người đọc thấy được tình cảm gắn bó thiết tha, mặn nồng, thủy chung của người dân Việt Bắc đối với những người lính, những người cán bộ cách mệnh. từ đó ta có thể thấy được phẩm chất giản dị, chất phác tốt đẹp của con người chiến khu Việt Bắc nơi đây. Dù phải sống trong khó khăn, gieo neo, đồi núi hiểm trở, thiếu thốn mọi mặt về vật chất nhưng tình yêu của họ đối với người đội viên, cán bộ cách mệnh là không bao giờ thay đổi, luôn một nỗi nhớ nhung da diết và mãnh liệt.

Ở đây thi sĩ đã trình bày vẻ đẹp của đoạn thơ không chỉ là những lời của người nông dân ở chiến khu Việt Bắc mà còn là câu trả lời của người lính, cán bộ cách mệnh dành cho Việt Bắc:

“Tiếng người nào tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ ngay ngáy bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”

thi sĩ Tố Hữu đã sử dụng với đại từ nhân xưng “người nào” đó chính là thể hiện ra tiếng lòng của người dân Việt Bắc vang vọng như là muốn gọi những người đội viên, cán bộ cách mệnh ở lại, không muốn họ phải chia li, hay đó cũng chính là tiếng lòng của người đội viên, cán bộ không muốn rời xa nơi chiến khu Việt Bắc. Từ “tha thiết” như làm cho tiếng gọi đó càng thêm vang vọng hơn, sâu lắng hơn, làm cho người đọc cảm nhận được rõ hơn tình cảm giữa con người, rừng núi, cội nguồn Việt Bắc và người lính, cán bộ cách mệnh như vô cùng sâu nặng. Câu thơ tiếp theo sẽ càng làm rõ hơn điều đó:

“Bâng khuâng trong dạ ngay ngáy bước đi”

Tác giả đã tinh tế khi sử dụng từ láy “bâng khuâng”, “ngay ngáy” chính là để làm rõ hơn tâm trạng người ra đi. “Bâng khuâng” là một trạng thái khó tả biểu hiện cho sự lưu luyến day dứt, như còn băn khoăn lâng lâng một cái gì đó sâu sắc lắm trong tình cảm của mình. Nó làm cho tâm trạng của con người trở nên day dứt tới khó chịu ,”ngay ngáy” là chỉ sự ray rứt, khó chịu trong tâm trạng của con người như ngay ngáy lo lắng điều gì đó. Tất cả những điều đó đã tạo nên tâm trạng của những đội viên, cán bộ cách mệnh về thủ đô Hà Nội, khi trở về thủ đô Hà Nội vẫn còn mang trong mình một nỗi nhung nhớ, ra riết, ray rứt khôn nguôi, lẫn vào đó chút lo lắng trong tâm trạng của người lính, cán bộ cách mệnh. từ đó người đọc có thể cảm nhận được rằng tình cảm của những con người cách mệnh đối với nhân dân chiến khu Việt Bắc cũng tha thiết, sâu nặng không kém gì tình cảm mà người dân ở chiến khu Việt Bắc dành cho họ.

Hai câu thơ cuối cùng là hình ảnh xúc cảm nhất, hình ảnh trong khi người đi và người ở lại phải chia li, cuộc chia li chứa đầy nước mắt giữa người đội viên cách mệnh và người Việt Bắc:

“Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”

“Áo chàm” là một dạng áo màu áo nâu, là màu áo của người nông dân nghèo túng, gieo neo, khổ cực, vất vả quanh năm tháng ngày lao động chuyên cần để phục vụ cho cách mệnh, phục vụ cho quốc gia. Tác giả đã sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” đó chính là để chỉ những người dân ở chiến khu Việt Bắc. những người Việt Bắc ra tiễn những người lính cách mệnh về xuôi trong một tâm trạng quyến luyến, day dứt, bâng khuâng. Từ “phân li” như thể hiện buổi chia tay ấy như là sự chia cắt sẽ không gặp lại nhau được nữa. nhường như họ không muốn phải rời xa nhau nhưng do hoàn cảnh lúc bấy giờ bắt buộc họ phải chia li, xa vắng nhau mỗi người một nơi. từ đó thể hiện nỗi nhung nhớ, khẳng định một tình cảm tha thiết gắn bó sâu đậm của nhân dân chiến khu Việt Bắc và những người đội viên, cán bộ cách mệnh. Tình cảm ấy càng được thi sĩ Tố Hữu khẳng định rõ nét hơn trong câu thơ cuối:

“Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”

Không phải giữa người đi và người ở lại không có gì để nói mà là có rất nhiều điều để nói mà không thể nói hết và không biết nói những điều gì trước hết, bởi rằng mười năm năm chung sống có quá nhiều những kỉ niệm, từ “biết nói gì” đã thể hiện điều đó. Mười lăm năm gắn bó keo sơn đùm bọc lẫn nhau, mười lăm năm cùng nhau phấn đấu vượt qua biết bao là gieo neo trắc trở, khó khăn gian khổ tình cảm của họ quá sâu đậm, có quá nhiều điều để nói nhưng những lời nói ấy vì sao không thể nói nên lời, nó cứ nghẹn lại trong cổ họng mà thứ duy nhất trào ra đó là chỉ có nước mắt của sự chia li trong một quang cảnh đầy xúc cảm, đầy những nối nhớ. Họ không nói ra được mà họ chỉ biết sử dụng hành động là cầm tay nhau, chỉ hành động rất nhỏ “cầm tay” thôi đã cho ta cảm nhận thấy tình yêu thương mặn nồng và nỗi nhớ da diết giữa người đi và người ở lại. Hành động “cầm tay” tuy nó chỉ là một hành động nhỏ, một hành đông đơn thuần nhưng nó đã thay cho những lời nói yêu thương, những lời gửi gắm, tình cảm giữa họ nhường như được truyền hết qua hành động ấy. Đó còn là sự thể hiện tình cảm, tâm trạng chưa xa vắng nhưng đã mang biết bao là nỗi nhớ của người đội viên cách mệnh và đó cũng chính là tiếng lòng của họ.

Tám câu thơ tuy là ngắn gọn nhưng nó mang biết bao nhiêu là ý nghĩa, mang biết bao những xúc cảm khiến cho người đọc cũng có một cảm giác khó tả như hòa mình vào trong câu thơ. từ đó cho ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm son sắt, gắn bó sâu nặng giữa con người nơi chiến khu Việt Bắc và người đội viên ,cán bộ cách mệnh về xuôi. Ta thấy được tâm trạng bổi hổi lưu luyến của họ.

thi sĩ Tố Hữa đã vô cùng suất sắc, ông không những chỉ thành công về nội dung, đoạn thơ mà còn thành công về nghệ thuật. Với những lối đối đáp, cách xưng hô mình – ta, điệp từ, điệp ngữ cùng với hình ảnh hoán dụ, từ láy, ngôn từ giản dị, đằm thắm mang đậm tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

Đoạn thơ giúp ta đã cảm nhận được rằng một cách rõ nét tình cảm, tấm lòng, lòng tâm thành, tình yêu thương mà người dân Việt Bắc và người đội viên cán bộ cách mệnh dành cho nhau. Tám câu thơ trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang lại cho người đọc nhiều xúc cảm và ấn tượng sâu sắc.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 7

“Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi thi sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn…”

Giống như mỗi người, sẽ sở hữu riêng cho mình một loại vân tay riêng, không giống bất kì người nào. Thì mỗi nhà văn, thi sĩ, cũng sẽ sở hữu một phong cách “một dạng vân chữ” riêng biệt. vì vậy, khi đọc những tác phẩm văn học, ta không thể trộn lẫn giữa Hồ Xuân Hương với Xuân Quỳnh khi cả hai cùng nói rất hay về thơ tình yêu người phụ nữ. Và nổi lên trong phong trào dân tộc dân chủ, cùng sự phát triển của văn học nước nhà, ta nhớ tới Tố Hữu, những khổ thơ mượt mà như áng tóc trữ tình của ông, học được trong ca dao nhưng lại nổi lên một phong cách rất riêng của Tố Hữu, và ta được biết tới điều đó rõ hơn, thông qua 8 khổ thơ đầu bài thơ Việt Bắc.

Nói tới Tố Hữu là nói ngay tới cây đại thụ của làng văn. Ông mang trong mình một áng thơ ca chạy suốt chiều dài lịch sử, thơ văn viết về lịch sử là thế, nhưng trong đó lại mang đậm dấu ấn của một người con rất Huế, rất Việt Nam, lúc nào cũng tha thiết, lúc nào cũng vương vít gợi tình.

Mình về mình có nhớ ta
Mười năm lăm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay

Bài thơ Việt Bắc là một trong những tuyệt tác văn học rất tiêu biểu của tiếng thơ Tố Hữu. Ra đời trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp vừa giành thắng lợi. chủ toạ Hồ Chí Minh rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội tiếp quản. Lấy cảm hứng từ buổi chia tay mang ý nghĩa lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết ra áng thơ này. Việt Bắc như mang nặng hồn thiêng của sông núi, vì vậy, bài thơ tới sắp với trái tim người đọc, nhờ tính dân tộc đậm đã, được thể hiện đậm nét trong cả hai phương diện nội dung và phương thức.

Ta biết tính dân tộc trong một bài thơ, là một khái niệm thân thuộc, thuộc phạm trù tư tưởng- thẩm mĩ, và là mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa văn học và dân tộc. Tính dân tộc trong một bài thơ là cách thức thể hiện và nội dung có tính vững bền cho những sáng tác của dân tộc ta, được hình thành từ quá trình phát triển của dân tộc từ xưa tới nay. Và tính dân tộc, phải được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và phương thức.

Trong ca dao ta vẫn thường nghe có câu:

Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có người nào vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng đã có nhưng chưa người nào vào

Vậy đó, tính dân tộc là đây chứ đâu. Vì sao ca dao dân ca từ nghìn đời nay vẫn mới và vẫn luôn khiến ta cảm thấy mến thương tương tự. đơn thuần, bởi ca dao luôn mang đậm chất trữ tình, ngọt ngào, chất phác và sắp gũi, được thể hiện qua thể thơ lục bát uyển chuyển. Bắt nhịp và tiếp nối những trị giá cao quý đó của ca dao dân ca, Tố Hữu đã vận dụng nhuần nhuyễn để làm ra Việt Bắc.

Mình về mình có nhớ ta
Mười năm lăm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn

Tính dân tộc trước hết thể hiện ở thể thơ lục bát thân thuộc, nhờ nó, ý thơ vốn uyển chuyển và đầy chất trữ tình của Tố Hữu càng được bộc lộ một cách rõ nét. Không những thế, Tố Hữu đã vận dụng khéo léo lối đối đáp vốn là phương thức thân thuộc trong ca dao, tiếng nói mượt mà, uyển chuyển, đặc tả tình cảm giữa mình – ta ngọt ngào sâu lắng, mà ta vốn thường hay gặp trong những câu ca dao viết về tình yêu lứa đôi.

Đoạn thơ đầu đặc tả nỗi nhớ của người ở lại dành cho người da đi, ngôn từ bình dị nhưng tha thiết và quyện chặt trong lòng kẻ đi người ở. Tình cảm người gắn bó keo sơn tựa như tình cảm lứa đôi, từ đó càng cho ta thấy sự kết đoàn của nhân dân ta trong thời kì kháng chiến. Hóa ra, dù có khó khăn cách trở về không gian, thời gian, trái tim của những người con đất Việt vẫn mãi gắn bó và dành cho nhau. Chỉ cần anh cần, tôi luôn có mặt. Những hình ảnh mang đậm tính dân tộc cũng được tả rõ nét, đó là “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” những cây, những núi, sông, nguồn, là những hình ảnh thân thuộc, vốn đã đi vào tiềm thức của người dân ta muôn thuở.

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay

Lời trước hết là lời người ở lại dành cho người ra đi, vì thương nhớ, vì luôn canh cánh trong lòng, nên đoạn thơ này tựa như một lời đồng vọng thân yêu mà người ra đi đáp lại sức ở. Từ “người nào” là một đại từ phiếm chỉ, như ám chỉ hình ảnh tiếng hát da diết và mộc mạc của người dân vùng núi Việt Bắc, người đựng bước ra đi nhưng vọng trong hoài niệm, trong nhung nhớ vẫn luôn nghĩ về ân tình Việt Bắc, muối mặn gừng cay, phai chăng “Khi ta ở thìa là nơi đất ở/ khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn” là vậy? Những hình ảnh mang đậm tính dân tộc như “áo chàm” “cầm tay” mang một vẻ đẹp đơn sơ, giản dị nhưng đầm ấm lắm. Những cái bắt tay mặn mà tình cảm, những tấm áo chàm là hoán dụ cho nhân dân Việt Bắc, cầm tay thôi là đã nói lên tất cả, tiếng nói dần như cũng ngưng đọng lại, bổi hổi vì xúc cảm mà không nói thành lời.

từ đó, càng vượt trội rõ nên nét dân tộc truyền lại trong thơ Tố Hữu, đặc tả vẻ đẹp thủy chung, tình nghĩa, son sắt của người dân quê hương. Việt Bắc là sự kế thừa trọn vẹn những tinh hoa của văn học muôn thuở.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 8

Tố Hữu là một trong những thi sĩ trữ tình chính trị. Vừa tham gia đấu tranh nên thơ ông dành rất nhiều tình cảm cho con người và lý tưởng sống của cách mệnh Việt Nam. Trong đó, tác phẩm “Việt Bắc” là bài thơ thấm đượm hồn thơ của Tố Hữu và là bản hùng ca về kháng chiến chống Pháp.

Tác phẩm được viết nhân sự kiện những cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ phải rồi chiến khu Việt Bắc để về Thủ đô, sau hiệp nghị Giơnevơ được ký kết thành công vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ không chỉ ghi lại mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc mà còn là lời tâm sự đầy yêu thương, thể hiện tình cảm son sắt thủy chung của người đi và chiến khu Việt Bắc. Cảnh chia ly quyến luyến ấy được khắc họa trung thực, sinh động và xúc động của 8 cầu thơ đầu:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”.

Theo lịch sử Việt Nam, thì Việt Bắc là tên gọi chung của sáu tỉnh phía Bắc thời kháng chiến chống Pháp, là Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, được viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Đây là khu căn cứ địa kháng chiến, được Đảng và Chính phủ thành lập từ năm 1940. Chính ở nơi đây, nhân dân Việt Bắc và cán bộ đội viên đã trải qua 15 năm gắn bó tình nghĩa, keo sơn, từ 1940 tới 1954.

Sau khi quân ta hạ gục quân giặc để làm nên thắng lợi Điện Biên Phủ vẻ vang, rúng động toàn cầu, thì tới tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc. Cảnh và người trong buổi chia ly có 1-0-2 ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho tác giả viết nên bài thơ “Việt Bắc” nổi tiếng. Xuyên suốt tác phẩm là nỗi niềm thương nhớ về những năm tháng chiến tranh gian khổ mà đầy tình nghĩa của quân và dân.

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”

Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng một nghi vấn tu từ mang âm hưởng ca dao: “Mình về mình có nhớ ta”. “Mình về” ở đây tiết lộ cho độc giả thấy hoàn cảnh để đưa tới nỗi niềm của người ở lại. Đó là đang tiễn người đi về nhà. Chữ “mình” và “ta” được sắp xếp đứng cách xa nhau và chữ “nhớ” được đứng ở giữa. Điều đó thể hiện, dù mình và ta có cách xa nhau bao nhiêu thì vẫn nhớ mãi về nhau. Nỗi nhớ ấy dựa trên 15 năm gắn bó thiết tha mặn nồng: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. nhường như, câu thơ mang dáng dấp nỗi nhớ trong thơ Kiều: “Mười lăm năm ấy biết bao là tình”. Nhưng nếu như như Kiều là tình yêu thì ở đây là tình đồng chí, đồng bào trong một thời kháng chiến đầy gian lao, khốc liệt. 15 năm với biết bao đau thương mất mát, giờ đây chỉ còn là tình cảm thiết tha mặn nồng. 15 năm là quãng thời gian có thể ví như là ¼ đời người. Người ở và người đi đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đã cùng vào sinh ra tử. vì vậy, nói chia ly sao mà xót xa tới thế!

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc ta càng thấy trân trọng hơn tình cảm của người dân Việt Nam dành cho nhau trong gian khổ. nhường như càng khốc liệt bao nhiêu thì con người càng yêu mến nhau, đùm bọc chở che cho nhau nhiều hơn. Chính vì vậy, câu sau tác giả lại tiếp tục thêm nghi vấn tu từ: “Mình về mình có nhớ không”. Giờ đây, mình và ta đã hòa thành một. Nỗi lòng của người ở cũng như của người đi, tất cả đều là nỗi nhớ. Và nỗi nhớ ấy không chỉ ngừng lại ở nội tâm mà lan rộng ra cả núi rừng, sông suối “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đây như vừa là lời nhắn nhủ của người ở lại với người đi rằng, sau này dù đi đâu về đâu khi nhìn thấy cây thì cũng hãy nhớ tới núi rừng Việt Bắc, khi nhìn thấy sông thì cũng nhớ tới cội nguồn chiến khu này. Đồng thời cũng vừa là lời hứa của người đi rằng sẽ luôn nhớ về chiến khu Việt Bắc từ núi cho tới nguồn mỗi khi nhìn thấy cây, thấy sông.

Trong câu thơ xuất hiện hai từ chỉ hành động “nhìn” và “nhớ”. Một hành động mô tả hoạt động thị giác, một động từ mô tả hoạt động trong tâm tưởng. Nhìn là đang nói về hiện tại, tương lai. Nhớ là nói về quá khứ. Điều này nhấn mạnh rằng dù người ở và người đi tương lai có thế nào thì vẫn nhớ về quá khứ bên nhau. Động từ “nhớ” xuất hiện với tần suất dày, như để khẳng định như để khắc sâu hơn vào tâm hồn người và cảnh Việt Bắc về nỗi nhớ. Đồng thời qua đây ta có thể cảm nhận được tấm lòng trung thực, tình cảm tâm thành của người dân miền núi dành cho đội viên. Dù nghèo khổ ra sao, nguy hiểm, gian lao thế nào, họ vẫn luôn dành cho những cán bộ miền xuôi một tình cảm da diết và mãi vững bền qua năm tháng.

nếu như như bốn câu thơ đầu lột tả tình cảm của người Việt Bắc dành cho cán bộ về xuôi thì những câu thơ sau nói lên tình cảm đáp lại của đội viên, cán bộ với người chiến khu:

“Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”

Người đội viên định bước đi, nhưng bỗng nghe tiếng “người nào tha thiết” khiến cho họ bước đi mà trong lòng bâng khuâng, ngay ngáy. thi sĩ thật khéo léo khi chỉ qua hai câu thơ nhưng vẽ lên được sự quyến luyến quyến luyến không muốn chia xa của cả người ở lẫn người đi. Chỉ có những người nào gắn bó với nhau lắm, yêu nhau lắm thì mới khó lòng chia xa tới tương tự. Bởi cả hai người ở và người đi đều biết, chiến tranh sẽ vẫn còn tiếp tục. Sự gặp lại biết tới bao giờ. bởi vậy, họ càng thấy nuối tiếc xót xa. Giống như chân lý mà Chế Lan Viên từng khẳng định: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”. những đội viên, cán bộ đáp lại lời của bà con dân bản đó là bà con và đất trời chiến khu đã trở thành một phần trong tâm hồn họ. Tác giả sử dụng 2 cụm từ láy “bâng khuâng” và “ngay ngáy” càng nhấn mạnh thêm sự day dứt, lưu luyến của người đi. Người đi là những cán bộ về xuôi. Họ ra đi nhưng vẫn mang trong mình nỗi lo lắng và nhung nhớ. Họ thương người dân chiến khu. Họ lo lắng rồi đây, trong những năm tháng tiếp theo, người dân nơi đây sẽ thế nào. Thật sự, chưa nơi đâu mà tình cảm quân dân lại thắm đượm tới như thế!

Hình ảnh buổi chia ly đầu nước mắt, nghẹn ngào con tim diễn ra đội viên cách mệnh và người Việt Bắc được lột tả đậm nét ở hai câu thơ cuối:

“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”

Nói tới “áo chàm” là người ta nghĩ ngay tới hình ảnh chiếc áo màu nâu, là màu áo của bà con nông dân lam lũ, cực khổ đã lao động cần mẫn phục vụ cho cách mệnh. thi sĩ sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chính là nói về người dân Việt Bắc. Áo chàm không dành cho riêng người nào, mà nói về tất cả những người dân chiến khu. Họ và những cán bộ cầm tay nhau mà không biết nói gì. Không phải họ không có gì để nói với nhau là trong lòng quá nhiều thứ để nói. Họ muốn nói với nhau nhiều lắm nhưng không khởi đầu từ đâu. Thế nên, chỉ cầm tay nhau để cảm nhận hết nỗi lòng. Bởi từ bàn tay, trái tim con người sẽ dễ dàng cảm nhận được. Khối óc con người sẽ dễ dàng nhận dạng được. Dù tình cảm vô cùng keo sơn gắn bó, nhưng giữa những con người ấy vẫn hợp lí trí. Họ hiểu rằng, không còn cách nào khác. Cuộc vui nào rồi cũng tới lúc chia li. Nhưng chia li trong nước mắt hạnh phúc vẫn hơn là trong khổ cực. Dù là phải xa nhau nhưng người dân Việt Bắc và những đội viên vẫn có niềm vui của thắng lợi.

8 câu đầu bài Việt Bắc không thể không nhắc tới những giải pháp nghệ thuật được thi sĩ Tố Hữu sử dụng. trước hết là về thể thơ lục bát. Với thể loại này, khiến độc giả vô cùng dễ nhớ dễ thuộc, bởi đây là thể thơ mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. không những thế, lối hát đối đáp mang âm hưởng ca dao, dân ca giúp bài thơ thêm phong phú về nhạc điệu. phối hợp với nhiều giải pháp tư như như hoán dụ, nghi vấn tu từ… giúp bức tranh buổi phân ly thêm rõ nét và nhiều xúc cảm.

Qua 8 câu thơ đầu độc giả vô cùng cảm động trước tình cảm tâm thành sâu sắc giữa bà con chiến khu Việt Bắc với những cán bộ, đội viên cách mệnh. nếu như như, 15 năm người ta sống trong sung sướng, sang giàu chưa chắc đã gắn bó, tình nghĩa như khi người ta sống trong gian khổ nguy hiểm. bởi vậy, khi phải nói lời chia tay, mối thâm tình ấy của người đi và người ở càng thêm day rứt, luyến lưu.

Vì là người trong cuộc, lại là một hồn thơ yêu nước nên thi sĩ Tố Hữu đã vẽ nên bức tranh thật sinh động, tuy mộc mạc, giản dị nhưng thấm đượm tính nhân văn.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 9

Sau khi quân và dân ra dành thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy vẻ vang, trấn động toàn cầu, hiệp nghị Geneve được ký vào tháng 10 năm 1954, những đội viên, cán bộ cách mệnh, cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ phải rời xa chiến khu Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử lớn ấy, thi sĩ Tố Hữu đã sáng tác ra bài thơ Việt Bắc, bài thơ chủ yếu là khắc họa lại cuộc chia tay với những tình cảm thủy chung. Tình cảm ấy được thi sĩ Tố Hữu thể hiện rõ nhất qua tám câu thơ sau đây :

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

Tiếng người nào tha thiếu bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”

Đoạn thơ thể hiện rõ một nỗi nhớ tưởng rằng không thể kìm nén được, cứ trào ra theo ngòi bút cảu tác giả và tuôn theo thành những dòng thơ. Ở đây thi sĩ Tố Hữu đã nhấn mạnh nỗi nhớ của người đi và người ở lại bằng những sử dụng có tới bốn chữ “nhớ” trong một đoạn thơ ngắn tám câu chắc hẳn là nỗi nhớ ấy phải chứa đựng một cái gì đó thật da diết và sâu nặng. Đây là nỗi nhớ quê hương cách mệnh, nhớ nơi mà mình đã từng gắn bó biết bao là những gieo neo khổ cực của người đã từng gắn bó sâu sắc với vùng đất thiêng đầy kỷ niệm ấy, là nỗi nhớ của tình nghĩa của sự ân tình thủy chung.

tìm hiểu 8 câu đầu của bài thơ Việt Bắc để ta có thể thấy được tình cảm sâu sắc và nỗi nhớ da diết, sự thủy chung của người đội viên, cán bộ cách mệnh với những người dân ở chiến khu Việt Bắc.

Ngay từ khi khởi đầu bài thơ ta có thể thấy rằng thi sĩ đã nhắc tới một nỗi nhớ của đạo lí Việt Nam, cảnh tiễn đưa những người lính, những người cán bộ trở về xuôi mang một tâm trạng bâng khuâng trong nỗi nhớ, người ở lại hỏi người ra đi cũng chỉ một nỗi nhớ da diết, không muốn rời xa và người ra đi trả lời bằng chính nỗi nhớ ấy của mình. Tố Hữu đã suất sắc khi diễn tả nỗi nhớ quê hương cách mệnh bằng những tiếng lời nói ngọt ngào, thiết tha của khúc hát đối giao duyên nam nữ. Khúc hát ấy đã thấm nhuần vào tư tưởng đạo lí ân tình thủy chung, nó được thể hiện rõ trong bốn câu thơ sau :

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”.

Nghe như là ca dao, nhưng đâu đó lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều, hai câu đầu tạo điều kiện cho ta gợi nhớ tới một câu thơ trong Truyện Kiều:

“Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”

Người dân ở chiến khu Việt Bắc đã hỏi những người đội viên, cán bộ cách mệnh khi về tới thủ đô Hà Nội có còn nhớ tới mình không? Có còn nhớ những kĩ niệm, tình cảm thiết tha, mặn nồng gắn bó trong suốt qoãng thời gian mười lăm năm đó không. Nhìn cây còn có nhớ núi rừng VIệt Bắc, nhìn sông còn có nhớ tới cội nguồn? Tuy là bốn câu thơ nhưng thực chất nó lại là hai nghi vấn tu từ. Lời nói của người ở nhưng thực ra là lời nói của người đi để nói lên đạo lí Việt Nam truyền thống dân tộc vốn là bản tính tốt đẹp. Bốn câu thơ ấy không chỉ nói lên mà chính là để nhắc nhở mọi người, để nhắc nhở chính bản thân mình bởi vì cái đạo lí ấy thiêng liêng lắm, chúng ta phải luôn biết phải giữ gìn và phát huy.

Khoảng thời gian sâu nặng ấy biết bao trong “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, thể hiện nỗi nhớ, ân tình biết bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. thi sĩ Tố Hữu đã sử dụng bốn chữ ” mình “, có tới bốn chữ ” nhớ” trong bốn câu thơ nó hòa quyện lại cùng chữ “ta” ,làm cho cái đạo lí ân tình Việt Nam trở thành một sợi chỉ đỏ nó xuyên suốt trong bài thơ Việt Bắc và nó cũng chủ thành một chủ đề lớn, chủ đề chính của tác phẩm .

Sau bốn câu thơ mở đầu là cảnh người đi và người ở lãi tiễn đưa nhau nó mang một cảm giác bâng khuâng trong nỗi nhớ của người dân chiến khu Việt Bắc với những người linh, những người cán bộ cách mệnh :

“Tiếng người nào tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ ngay ngáy bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”

Ở đây ta có thấy rằng có âm thanh của sự da diết và thể hiện càng rõ nét màu sắc đằm thắm thủy chung. Giữa người đi và người ở lại không phải là họ không có gì để nói cho nhau, mà nó có quá nhiều nhưng điều để nói, mà không biết khởi đầu từ đầu, vì đó họ đã thể hiện với nhau bằng những hành động, tuy những hành động nhỏ nhưng nó lại chứa đựng biết bao là những xúc cảm, được thể hiện bằng những hành động có bước chân ngay ngáy và những cái nắm tay đầy lưu luyến. Mỗi bước chân của người đi nó lại mang theo biết bao là nỗi niềm luyến lưu cho người ở lại. “Tiếng người nào” đây không phải là một nghi vấn, cũng không phải là đại từ phiếm chỉ mà đó chính là cách để nói, để thể hiện nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi”. “Bâng khuâng” là vì “đi không nỡ”, nhưng “ngay ngáy” vì ở cũng chẳng đành bởi vì họ biết rằng chiến khu Việt Bắc nơi đây nó đã trở thành những ký ức, trở thành thành tình yêu, thành tâm hồn:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”

Những từ láy như là bâng khuâng, như ngay ngáy đều được thi sĩ Tố Hữu sử dụng rất tinh tế trong câu thơ này. Nó đã thể hiện được rõ nhất nỗi niềm, được tâm trạng và cả những vận động trong xúc cảm của cuộc chia li này, để rồi hình ảnh tiếp theo xuất hiện là hình ảnh chiếc áo chàm gợi tả con người Việt Bắc:

“Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”

Màu áo chàm ở đây là một hình ảnh vô cùng ý nghĩa, đó là màu áo của người nông dân Việt Bắc giản nhỉ, mộc mạc, gieo neo khổ cực, nhưng lại mang đậm tính son sắt như chính lòng thủy chung của con người nơi đây. Màu áo chàm ấy nhắc nhở những người lính, người cán độ nhiều những ký ức khó phai nhòa.

Câu thơ “cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay” nó mang một hành động, một trị giá biểu cảm vô cùng lớn. “Cầm tay nhau” nhưng chẳng “biết nói gì” vì có quá nhiều nỗi niềm cần nói ra, vì trong lòng họ đang tràn ngập nỗi nhớ nhung da diết nên họ không biết nói điều gì trước, điều gì nên giãi bày, điều gì nên giấu kín trong mình. Vậy nên chẳng “biết nói gì” chính là nói lên nhiều tấm lòng yêu thương .thi sĩ Tố Hữu đã vô cùng xuất sắc khi sử dụng trong câu thơ ngắt nhịp 3/3/2 như sự ngập ngừng lưu luyến, nhớ nhung, cũng vào hoàn cảnh đó, xúc cảm đó làm ta liên tưởng tới buổi tiễn đưa của người chinh phu và chinh phụ trong Chinh phụ ngâm:

“Bước đi một bước, giây giây lại ngừng”.

Ta có thể thấy trong màn đối đáp của cuộc chia tay lịch sử ấy, tác giả Tổ Hữu đã để cho người ở lại, người dân ở chiến khu Việt Bắc lên tiếng trước. Điều đó không những hợp lý, mà còn cần thiết cho sự phát triển trong cả bài thơ.

Bằng việc sử dụng đại từ “mình – ta” cùng thể thơ lục bát của Tác giả Tố Hữu, ông đã tái tạo lại một cuộc chia tay lịch sử của người dân chiến khu Việt Bắc và người đội viên, cán bộ cách mệnh với biết bao kỉ niệm ân tình, chung thủy. Bài thơ Việt Bắc ra đời cũng chính là lời nhắc nhở tình nghĩa gắn bó, đùm bọc lẫn nhau cùng đạo lý tri ân muôn thuở của dân tộc Việt Nam ta.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 10

Tố Hữu là thi sĩ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mệnh Việt Nam. Thơ ông chất phác, mộc mạc giàu chất trữ tình. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã để lại nhiều tác phẩm có trị giá tiêu biểu là bài thơ “Việt Bắc”. vượt trội lên trong bài thơ là tám câu thơ đầu với lời của kẻ ở, người đi đầy lưu luyến xúc động

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Việt Bắc là tác phẩm đặc sắc của Tố Hữu được sáng tác vào năm 1954 sau khi hiệp nghị Giơ-ne-vơ được ký kết, chính phủ và chính quyền trung ương cách mệnh chuyển từ căn cứ Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện ấy Tố Hữu sáng tác bài Việt Bắc.

Nỗi nhớ da diết của những người yêu nhau thế nào thì nỗi nhớ của con người Việt Bắc với những người cách mệnh cũng tương tự:

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Mở đầu đoạn trích là cách xưng hô “mình” – “ta” đầy thân yêu sắp gũi, “mình”-là người cách mệnh còn “ta” chính là người Việt Bắc. Người dân Việt Bắc hỏi rằng: “Mình về mình có nhớ ta” đọc câu thơ ta thấy ở trong đó có đầy tình cảm lưu luyến, nuối tiếc như một cặp tình nhân khi phải xa nhau, cảm giác khổ cực, không nỡ, nhưng tình yêu thì được hình thành trong quãng thời gian rất ngắn còn tình người giữa Việt Bắc và cách mệnh lại là quãng thời gian “mười lăm năm”. “Mười lăm năm” – đó là một quãng thời gian không hề ngắn, đặc biệt trong mười lăm năm ấy tình cảm nào có phai lạt mà còn “thiết tha mặn nồng”.

nếu như như hai câu đầu là tình cảm giữa người với người thì tới với hai câu sau chính là tình cảm giữa con người với thiên nhiên:

Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.

Người dân Việt Bắc không biết rằng khi về miền xuôi những người cán bộ cách mệnh có còn nhớ Việt Bắc nữa hay không. “Mình về mình có nhớ không” đọc câu thơ lên với giọng thơ nhẹ nhõm ta thấy rưng rưng nước mắt. Núi rừng Việt Bắc, sông núi Việt Bắc đẹp lắm, hùng vĩ lắm nhưng ở miền xuôi lại nở rộ đông đúc. Người dân Việt Bắc sợ, họ sợ những người cách mệnh quên mất Việt Bắc, quên mất những tháng ngày hái quả rừng, ăn rau rừng trên núi, quên mất dòng sông vẫn hàng ngày bắt cá. Trong suy nghĩ của họ, họ rất sợ. Từ “nhớ” trong câu thơ được lặp lại như muốn tô đậm thêm nỗi nhớ nhung da diết, không nỡ rời xa, không nỡ chia ly. Chỉ với bốn dòng thơ đầu Tố Hữu đã tái tạo lại quang cảnh của buổi chia ly thật xúc động, nghẹn ngào và đầy nước mắt.

Trong quang cảnh núi rừng hùng vĩ, cái se lạnh của Việt Bắc những người cách mệnh chia tay Việt Bắc

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Người cách mệnh rời xa Việt Bắc nhưng vẫn nhớ về tiếng nói tha thiết của người dân Việt Bắc lúc chia tay: “Tiếng người nào tha thiết bên cồn”. Người cách mệnh về xuôi sẽ còn nhớ lắm giọng nói của người dân Việt Bắc. Vì nhớ nên “Bâng khuâng trong dạ ngay ngáy bước đi” câu thơ khi đọc lên ta thấy xúc cảm như dâng trào. “bâng khuâng” là từ láy chỉ trạng thái của con người mà cụ thể ở đây là người cách mệnh về xuôi, họ ra đi nhưng trong lòng cảm thấy lưu luyến không nỡ rời xa. xúc cảm nghẹn ngào không nói nên lời tới cả bước đi cũng như nặng hơn. Người không muốn đi mà chân cũng không muốn bước, bước chân trở nên “ngay ngáy” như cũng muốn quay trở lại Việt Bắc, quay lại quê hương cái nôi của cách mệnh, nơi có những con người tình nghĩa, thủy chung luôn chờ đón họ. Họ không nỡ rời xa nhau nhưng trong giây phút nghẹn ngào cuối cùng được ở sắp nhau thì họ lại không thể thốt nên lời:

Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Màu áo “chàm” – màu áo đặc trưng của cách mệnh cũng góp chung vào nỗi nhớ của kẻ ở người đi, họ nhớ nhau nhớ cả màu áo của nhau. Họ cầm tay nhau tình cảm thắm thiết mà không thể thốt nên lời. Tâm trạng trong câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay” cũng khiến cho xúc cảm của người đọc và theo xúc cảm của con người trong thơ: ngay ngáy, không yên, day dứt, khó diễn tả. Họ chia tay chỉ muốn òa khóc, xúc động không nói nên lời. họ không còn gì để nói với nhau hay họ có quá nhiều xúc cảm muốn nói mà không thể nói hết trong một khoảnh khắc ngắn ngủi này. Chỉ vẻn vẹn có bốn câu thơ với hai mươi tám chữ Tố Hữu đã cho người đọc hòa mình vào cuộc chia tay, cũng là lời của người ra đi nói với người ở lại đã làm cho người đọc xúc động nghẹn ngào

Đoạn trích trên trong bài thơ “Việt Bắc” không chỉ thành công ở nội dung mà còn thành công ở nghệ thuật với thể thơ lục bát, lối đối đáp, cách xưng hô mình ta, tiếng nói giàu sức gợi. đoạn trích tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu đằm thắm tính dân tộc.

Tóm lại, tám câu thơ trên trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã để lại trong lòng người đọc những xúc cảm khó phai mờ về tình cảm giữa người Việt Bắc và cách mệnh. Bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng sẽ luôn sống mãi trong lòng chúng ta, trong trái tim người đọc Việt Nam.

2 phan tich doan tho viet bac 1
tìm hiểu 8 câu đầu trong bài thơ Việt Bắc ngắn gọn

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 11

Sau thắng lợi Điện Biên Phủ, hiệp nghị Giơ-ne-vơ được ký kết, tháng 10 năm 1954, những cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc, khắc họa lại cuộc chia tay lịch sử với những tình cảm thủy chung son sắt. Tình cảm ấy được thể hiện qua những câu thơ sau:

Mình về mình có nhớ ta?
….
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Đoạn thơ tràn đầy một nỗi nhớ tưởng như không thể kìm nén được, cứ trào ra theo ngòi bút và tuôn chảy thành những dòng thơ. Có tới bốn chữ “nhớ” trong một đoạn thơ tám câu chắc hẳn nỗi nhớ ấy phải thật da diết và sâu nặng. Đây là nỗi nhớ quê hương cách mệnh của người đã từng gắn bó sâu sắc với vùng đất thiêng đầy kỷ niệm ấy, là nỗi nhớ của tình nghĩa, của ân tình thủy chung.

Khúc hát dạo đầu đã nhắc tới nỗi nhớ của đạo lí Việt Nam, cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ, người ở lại hỏi người ra đi cũng chỉ một nỗi nhớ và người ra đi trả lời bằng chính nỗi nhớ ấy của mình. Tố Hữu đã diễn tả nỗi nhớ quê hương cách mệnh bằng tiếng nói ngọt ngào, tha thiết của khúc hát đối đáp giao duyên nam nữ trong dân ca. Khúc hát ấy thấm nhuần đạo lí ân tình thủy chung:

Mình về mình có nhớ ta?

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.

Nghe như ca dao, lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều, hai câu đầu gợi ta nhớ tới một câu thơ trong Truyện Kiều:

Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình

Việt Bắc đã hỏi người cán bộ về xuôi có còn nhớ mình không? Có còn nhớ những tình cảm thiết tha, mặn nồng trong suốt khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó. Nhìn cây còn có nhớ núi, nhìn sông còn có nhớ tới nguồn? Bốn câu thơ nhưng thực chất là hai nghi vấn tu từ. Lời của người ở nhưng thực chất là lời nói của người đi để nói lên đạo lý Việt Nam truyền thống vốn là bản tính tốt đẹp của dân tộc ta. Không chỉ nói lên mà chính là nhắc nhở mọi người, nhắc nhở chính mình bởi vì cái đạo lí ấy thiêng liêng lắm, quý giá lắm, phải giữ gìn và phát huy.

Sâu nặng biết bao trong “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, ân tình biết bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu thơ mà có tới bốn chữ “mình”, bốn chữ “nhớ” hòa quyện vấn vít cùng chữ “ta”, khiến cái đạo lí ân tình Việt Nam đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ Việt Bắc, trở thành chủ đề lớn của tác phẩm.

Sau khúc hát mở đầu là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ của người ra đi và cả người ở lại:

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Có âm thanh da diết và màu sắc đằm thắm thủy chung, có bước chân ngay ngáy và những cái nắm tay đầy lưu luyến. Mỗi bước chân của người đi mang theo nỗi niềm luyến lưu cho người ở lại. “Tiếng người nào” không phải là nghi vấn, cũng ko phải là đại từ phiếm chỉ mà đó chính là cách nói thể hiện nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi”. “Bâng khuâng” vì “đi không nỡ”, nhưng “ngay ngáy” vì ở cũng chẳng đành bởi lẽ Việt Bắc đã trở thành ký ức, thành tình yêu, thành tâm hồn:

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn

Từ láy bâng khuâng, ngay ngáy được Tố Hữu sử dụng rất tinh tế ở câu thơ này. Nó thể hiện được nỗi niềm, được tâm trạng và cả những vận động trong xúc cảm, để rồi hình ảnh tiếp theo xuất hiện là chiếc áo chàm qua thủ pháp hoán dụ gợi tả con người Việt Bắc:

Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Màu áo chàm là một hình ảnh đầy ý nghĩa, đó là màu áo của Việt Bắc đằm thắm, son sắt như chính lòng thủy chung của con người nơi đây. Màu áo ấy nhắc nhở người ra đi nhiều ký ức khó phai nhòa.

Câu thơ “cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay” mang một trị giá biểu cảm vô cùng lớn. “Cầm tay nhau” nhưng chẳng “biết nói gì” vì có quá nhiều nỗi niềm cần thổ lộ, vì trong lòng họ tràn ngập nỗi thương nhớ nên không biết nói điều gì trước, điều gì sau, điều gì nên giãi bày, điều gì nên giấu kín trong tim. Cho nên chẳng “biết nói gì” chính là nói lên rất nhiều tấm lòng thương nhớ. Câu thơ ngắt nhịp 3/3/2 như sự ngập ngừng lưu luyến, làm ta liên tưởng tới buổi tiễn đưa của người chinh phụ và chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”:

Bước đi một bước, giây giây lại ngừng

Trong màn đối đáp giao duyên của cuộc chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đã để cho người ở lại lên tiếng trước. Điều này không chỉ hợp lý, tế nhị mà còn cần thiết cho sự phát triển mạch thơ trong cả bài thơ.

Bằng việc sử dụng đại từ “mình – ta” cùng thể thơ lục bát, Tố Hữu đã tái tạo cuộc chia tay lịch sử của Việt Bắc và người đội viên cách mệnh với biết bao ân tình, chung thủy. Con người dễ cộng khổ nhưng khó đồng cam, Việt Bắc ra đời chính là lời nhắc nhở tình nghĩa gắn bó cùng đạo lý tri ân muôn thuở của dân tộc.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 12

Nhớ về giai đoạn 1945 – 1975, độc giả đều khắc khoải những giây phút đấu tranh hào hùng, những gian khổ khắc nghiệt của bom đạn chiến tranh. Và chính hoàn cảnh đó đã sản sinh ra Những ngòi bút cách mệnh tiêu biểu cho một thời kì văn học dân tộc. nếu như Phạm Tiến Duật hay Quang Dũng viết về gian khổ bằng giọng thơ tươi trẻ, yêu đời, thì Tố Hữu lại đi vào lòng độc giả nhờ cái trữ tình, lắng sâu của lời thơ. Tám câu thơ mở đầu “Viết Bắc” là minh chứng rõ nét cho phong cách thơ Tố Hữu.

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ra và lớn lên nơi xứ Huế mộng mơ. Phải chăng chính đất và người nơi đây đã đọng lại trong tâm hồn thi sĩ chất nhẹ nhõm, duyên dáng, rất thơ, rất Huế. Ở thi nhân có sự hòa quyện thống nhất giữa thế cuộc cách mệnh và thế cuộc thơ. Ông chọn lựa trục đường cách mệnh từ thời niên thiếu, viết thơ cũng là viết cùng chặng đường lịch sử của cả dân tộc. Bởi vậy, Tố sở quan niệm: “Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. thi sĩ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng; xác định thật rõ ràng tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó tâm thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong quan hệ với quốc gia, với nhân dân. Ngoài ra, những thi sĩ cách mệnh còn phải kiên quyết đấu tranh, không nhân nhượng trước những biểu hiện méo mó, với cái xấu cái ác. Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người đội viên xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng. “Và Việt Bắc chính là áng thơ được kết tinh từ tư tưởng chính trị vững vàng cùng trái tim ấm nóng luôn hướng về quê hương quốc gia của thi sĩ. Bài thơ ra đời trong không khí hoan hỉ của quân và dân sau thắng lợi Điện Biên Phủ lịch sử, trong giây phút những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Việt Bắc là khúc ca hùng tráng và cũng là khúc tình khúc về cách mệnh, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, quốc gia trong niềm tự hào dân tộc. Tám câu thơ mở đầu đã dội nên bao nỗi niềm thân yêu, lưu luyến trong tâm tình người đội viên khi rời xa đồng bào vùng cao để trở về.

Cuộc chia tay đầy quyến luyến, tiếc nuối hiện ra qua giọng thơ ngọt ngào, trữ tình của Tố hữu.

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Đoạn thơ nương theo điệu hồn truyền thống từ thể thơ tới cách xưng hô, gợi một nỗi niềm bình dụi, thân thuộc. Tố Hữu tìm về với văn học cổ để khai phá cái tình, cái tứ trong thẻ thơ lục bát bình dị, tạo âm hưởng hội thoại tâm tình giữa quân và dân. Giữa đồng bào và người lính, giữa những đồng đội không phải là “anh – tôi” như trong “Đồng chí” (Chính Hữu), không phải “nàng, em” trong lời thơ Tây Tiến (Quang Dũng), tình cảm son sắt, thắm đượm ấy đã trở thành “mình – ta”. Lối xưng hô thân thuộc trong ca dao dân ca xưa vừa gợi nét đầm ấm, thân tình, vừa tạo nên nét độc đáo trong ngòi bút khám phá của Tố Hữu. Với thi sĩ, tình quân dân cũng ấm nồng như tình cảm gia đình, cần sự thủy chung, gắn bó bền chặt không rời. Lời thơ là lời của người ở lại nói với người ra đi rằng: sau khi trở về thành thị phồn hoa rồi, liệu lòng người có còn vương vấn chút gì nơi đây, có nhớ “mười lăm năm” kháng chiến gian khổ, có nhớ núi rừng đồng cỏ nơi đây hay không. Nỗi niềm ấy cứ day dứt trong lòng người ở lại. Ngay sau cụm từ “mười lăm năm” dài đằng đẵng ấy là hình ảnh của non sông suối nguồn miền cao, gợi cho độc giả cảm giác mênh mang, chơi vơi của nỗi nhớ, nó đã trải ra khắp không gian, thấm đượm vào từng vết hằn của thời gian đời người. Câu thơ chất chứa cái tình, cái nghĩa của người ra đi và người ở lại, hay cũng chính là cái gắn bó sâu đậm của đồng bào miền ngược với những đội viên miền xuôi.

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Nhớ về Việt Bắc, người lính nhớ thiên nhiên đại nghìn hùng vĩ, nhớ về những tháng ngày đấu tranh gian khổ và đặc biệt hơn cả là nhớ về trái tim của những người ở lại. “Tiếng người nào” – tiếng người ở lại hay tiếng người ra đi, thi sĩ không nói rõ nhưng dù là của người nào cũng đều bâng khuâng, ngay ngáy không yên. Phải chăng đó là nỗi lòng người lính khi phải rời xa chốn thân yêu này, bổi hổi, lưu luyến không thể đựng bước. Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật hoán dụ vô cùng tinh tế “Áo chàm đưa buổi phân ly”. Áo chàm là y phục truyền thống của đồng bào dân tộc trên vùng cao, sử dụng hình ảnh áo chàm để khắc họa lên hình ảnh con người, vừa kín đáo, vừa giàu trị giá nghệ thuật, Lời thơ trở nên mềm mại, giàu hình ảnh hơn. Trong giờ phút chia tay ấy, mọi người đứng sắp nhau, nắm tay nhau. Bao kỉ niệm, bao lời giãi bày đều không thể đựng nên thành tiếng. Khoảng lặng vô định bỗng cướp đoạt bầu không gian, là lúc tiếng lòng đựng lời. Chỉ nhìn nhau, chỉ nắm tay nhau cũng đủ hiểu nhau. Đó là biểu hiện của sự kết đoàn, gắn bó keo sơn suốt bao năm tháng. Chỉ bằng những hình ảnh giản dị, tiếng nói giàu hình ảnh, thi sĩ đã khắc họa nên bức tranh buổi chia tay vô cùng ấm nồng, cảm động. Con người, thời gian, không gian như hòa làm một. Tình cảm quân dân, đồng chí- đồng bào đã trở thành tình yêu quốc gia.

Bằng tài năng nghệ thuật cùng tâm hồn nhạy cảm, tha thiết với cách mệnh, Tố hữu đã tái tạo lại quang cảnh buổi chia tay đầy xúc động của đồng bào dân tộc miền núi với đội viên khi về xuôi. Từ đó làm ngời sáng lên vẻ đẹp của tình cảm quân dân gắn bó, thắp lên hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 13

Tố Hữu là thi sĩ trữ tình chính trị, tiêu biểu cho thơ ca cách mệnh Việt Nam. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người cách mệnh. Thơ ông đằm thắm tính dân tộc trong nội dung và phương thức thể hiện. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. “Việt Bắc” là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ “tống biệt” của Tố Hữu. Mặc dù là đề tài cũ, nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi “Việt Bắc” ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10 năm 1954. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình. Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân ly:

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại nói với người ra đi:

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Tác giả mở đầu bằng một nghi vấn mang âm hưởng ca dao, tình yêu: “Mình về mình có nhớ ta”. “Mình về” là hoàn cảnh để người ở lại bộc lộ nỗi niềm. “Về” gợi tới sự chia ly, đó là sự chia ly của người ra đi và người ở lại. Về mặt kết cấu câu thơ thì “mình” đứng ở đầu câu, còn “ta” đứng ở cuối câu thơ. Nó gợi lên cái khoảng cách giữa “ta” và “mình”. Nỗi niềm gợi lên qua nghi vấn ấy của người ở lại là nỗi nhớ, tình cảm của người ở lại hướng tới người ra đi. Đứng giữa câu thơ là một từ “nhớ”, nó làm cho “mình” và “ta” nhường như được xích lại sắp nhau hơn. Cơ sở tạo nên nỗi nhớ ấy là: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Câu thơ phảng phất âm hưởng của thơ Kiều, nhưng từ âm hưởng đó lại vang lên nỗi niềm tình cảm của những con người trong một thời kháng chiến. “Mười lăm năm ấy” gợi tới một quãng thời gian lao khăn, một thời đau thương, mất mát. Tuy vậy, nhường như tất cả mất mát đau thương ấy chìm đi, đọng lại trong câu thơ chỉ còn là tình cảm “thiết tha mặn nồng”. Đó chính là sự gắn bó thân thiết, tình cảm chia bùi sẻ ngọt trong “mười lăm năm ấy” giữa “ta” và “mình”. Bởi vậy, hỏi nhưng cũng chính là để bộc lộ tình cảm và hỏi chính là thể hiện mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình.

tới câu thơ thứ ba cũng là một nghi vấn. nghi vấn: “Mình về mình có nhớ không” cũng có sự lặp lại sắp giống câu thơ đầu. Tuy vậy, đối tượng hỏi không chỉ còn bó hẹp trong mối quan hệ giữa “ta – mình” và nỗi nhớ nhường như không còn chỉ hướng tới “ta”, mà nỗi nhớ đó đã hướng vào đối tượng rộng lớn hơn rất nhiều, đó chính là không gian “núi rừng” và “sông nguồn”. nghi vấn gợi về không gian có “núi”, có “nguồn” ở núi rừng Việt Bắc. Đây chính là không gian thân thuộc gắn với người ở lại và cũng gắn bó với cả người ra đi. Không gian đó với người ra đi và người ở lại không còn là không gian vô hồn, vô cảm mà là không gian chứa đầy kỉ niệm, nó góp phần tạo nên tình cảm cho người ra đi. Ở trong câu thơ xuất hiện nhiều lần hai động từ chỉ hành động “nhìn” và “nhớ”. Một hành động tác động vào thị giác, một hành động tác động vào tâm tưởng; một hành động hướng tới hiện tại, một hành động hướng về quá khứ. Sự đan xen giữa những hành động đó mà người ở lại đưa ra là để muốn nhắc nhở người ra đi sống ở hiện tại đừng quên về quá khứ, sống ở miền xuôi đừng quên miền ngược, đừng quên về những kỉ niệm của một thời đã qua. Đó chính là mong muốn của người ở lại nhắn nhủ tới người ra đi. Trước khi mong muốn người ra đi để nhớ thì người ở lại đã thể hiện nỗi nhớ của mình. Nỗi nhớ đó biểu hiện trực tiếp qua động từ “nhớ” xuất hiện nhiều lần ở khổ thơ, càng về cuối thì từ “nhớ” xuất hiện càng nhiều đã thể hiện cường độ nhớ ngày một tăng và nó đã tạo nên âm hưởng chủ đạo cho bài thơ. Đó là âm hưởng thương nhớ, ân tình tha thiết.

Bốn câu thơ đầu chỉ với hai nghi vấn, nhưng chủ yếu là để giãi bày tình cảm và để mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình, bởi giữa hai đối tượng đó có sự gắn bó khăng khít trong một thời kháng chiến và một vùng kháng chiến. Để rồi từ đó, người ra đi đáp lại sức ở lại bằng bốn câu thơ:

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Người ở lại đặt ra nghi vấn nhưng người ra đi không trực tiếp trả lời nghi vấn đó mà thay vào đó người ra đi thể hiện tình cảm lưu luyến, quyến luyến trong buổi chia tay. Ấn tượng ban đầu đã tác động tới người ra đi: “Tiếng người nào tha thiết bên cồn”. “người nào” là đại từ không xác định. “người nào” có thể là nhân vật đang xuất hiện trước mắt người ra đi, thân thuộc với người ra đi – một con người cụ thể xuất hiện “bên cồn” trong buổi chia ly. “người nào” có thể là bất cứ người dân Việt Bắc đã cùng sống, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với người ra đi. Dù hiểu theo cách nào thì ấn tượng tác động tới người ra đi là âm thanh tiếng nói tha thiết – đó chính là âm thanh rất đỗi ngọt ngào, thiết tha, sâu lắng. Và âm thanh đó nhường như gọi về biết bao kỉ niệm, biết bao buổi trò chuyện tâm tình và âm thanh đó gọi về mối tình keo sơn gắn bó thân thiết giữa người ở lại với người ra đi. Chính âm thanh đó đã khiến cho người ra đi “Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi”. Câu thơ ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối trong tương quan đối lập giữa bên trong và bên ngoài. “Trong dạ” thì “bâng khuâng” còn hành động bên ngoài biểu hiện sự “ngay ngáy” thấp thỏm của người ra đi, nhưng lại có sự tương đồng trong xúc cảm và hành động. Chính vì xúc cảm “bâng khuâng” thì mới có hành động “ngay ngáy” đó được.

Trong cảm nhận của người ra đi, một hình ảnh bình dị, thân thuộc thường xuất hiện trong cuộc sống đời thường đó là hình ảnh “áo chàm”. Hơn thế nữa chiếc “áo chàm” gợi tới sắc màu dẻo dai khó phai. Tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” để chỉ người dân Việt Bắc và bởi vậy nói “áo chàm đưa buổi phân li” là nói về cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa người Việt Bắc với người cách mệnh. Mượn hình ảnh “áo chàm” nhường như tác giả muốn nói tới tình cảm thủy chung sắt son khó phai mờ của người dân Việt Bắc với người đội viên cách mệnh. Và ấn tượng đậm nét nhất với người ra đi chính là hành động “Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…”. Trước tiên là hành động “cầm tay nhau” là hành động thân thuộc và rất đẹp của những người nào khi chia li, nó thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết và đồng thời thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người đi. Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào, vì vậy không nói lên lời. Dấu ba chấm xuất hiện cuối dòng thơ như nốt nặng không lời, nhưng chính nó lại quý giá hơn rất nhiều những lời nói thường nhật bởi cái cầm tay đã nói lên tất cả những lưu luyến, quyến luyến. Câu thơ kết lại đoạn thơ có nhịp thơ thay đổi khác thường. Sự thay đổi của nhịp thơ không chỉ tạo nên sự ngập ngừng cho giọng điệu của câu thơ mà còn tạo nên cái ngập ngừng của tình cảm. Và đồng thời sự khác lạ trong nhịp thơ ấy đã diễn tả sự khác lạ trong diễn biến tình cảm của kẻ ở người đi.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 14

Bạch Cư Dị khi nói về nói thơ, nghĩ rằng: “Thơ, ấy là gốc của tình, lời là ngọn, âm thanh là hoa, tức là quả”, đó là một sự toàn diện tạo nên sức sống của thơ giữa dòng thời gian. Tiếng thơ Tố Hữu cũng vậy. thi sĩ dụng công hiến dâng áng thơ “Việt Bắc” để gửi gắm tư tưởng tình cảm sâu sắc về tình nghĩa trong thời chiến còn làm rung động lòng người. Tám câu thơ đầu: “Ta về mình có nhớ ta… Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay” là kết tinh tư tưởng chủ đề đó.

Tám câu thơ đầu hay dòng tâm trạng bâng khuâng, quyến luyến khi giờ chia ly đã điểm, đậm tô ân tình cách mệnh của người đồng bào miền núi với cán bộ, đội viên. Thể thơ lục bát khiến câu thơ mềm mại, điệu thơ trầm bổng, phối hợp với vần phong phú, nhịp đều đặn gợi trạng thái muôn vàn trong tâm hồn người ở, kẻ đi. Kết cấu đối đáp, cách xưng hô “mình, ta” thân thuộc xuất hiện trong ca dao giao duyên buổi tự tình, hò hứa của chàng – nàng, mận – đào, mở ra bầu không khí tâm tình, giọng tình thương mến, ngọt ngào. Đoạn thơ nói tình cảm chính trị mà không khô khan.

Với người ở lại, nhạy cảm với sự thay đổi nên lên tiếng trước:

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

nghi vấn tu từ láy đi, láy lại theo phương thức tăng tiến “có nhớ ta, có nhớ không” gợi những cung bậc xúc cảm từ ướm hỏi xa xôi tới nỗi khắc khoải lắng tai lời đồng vọng. từ đó giúp ta cảm tấm chân tình của người ở lại, tình đồng bào với người đựng bước. Thời gian lịch sử “mười lăm năm”, cũng là thời gian tình cảm mặn nồng ơn nghĩa. Không gian “cây, núi, sông, nguồn” gợi Việt Bắc đại nghìn, núi thăm thẳm. Điệp từ “nhớ” diễn tả nỗi lòng lớp lớp, khôn nguôi. Cách diễn đạt mang lỗi nghĩ dân gian như lời nhắn nhủ của tổ tông về lối sống ẩm hà tư nguyên, nhắc nhớ sự thủy chung.

Lời người đi xuôi đáp lại tiếng lòng kẻ ở lại:

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Cặp câu lục bát sử dụng những láy từ “ngay ngáy, bâng khuâng” biểu hiện mọi nỗi niềm trong lòng người ly biệt. Tâm trạng được hữu hình hóa, vô hình thành hữu hình “ngay ngáy bước đi” gợi bước đi chầm chậm chẳng nỡ rời buông như bước chân kẻ chinh phu, tráng sĩ ngày nào trong “Chinh phụ ngâm”: “Bước đi một bước, giây giây lại ngừng”

Nhưng đó là tình phu – phụ, còn “Việt Bắc” nói tới tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Hình ảnh áo chàm trong buổi phân ly đã từng đi về từng đi về trong ca dao xưa, chiếc áo để người đắp cho bớt hiu quạnh, áo bào của nàng Kiều trong buổi chia ly Thúc Sinh. Nhưng Tố Hữu mượn sắc áo chàm bình dị, bền, khó phai, khó nhạt của đồng bào miền ngược nói sắc lòng người ở lại mãi vẹn nguyên. Tâm tư tình cảm người ở được cảm bởi người đi, nhường như “ta, mình” hiểu nhau cả những điều không nói ra. Bởi vậy, hành động “Cầm tay nhau biết nói gì” như khoảng lặng của âm nhạc, khoảng trống của nhiếp ảnh, khoảng vô ngôn dư tình trong văn học. Thời gian như ngừng lại để kẻ ở và người đi hội thoại đàm tâm, sự thấu hiểu của tình tri kỉ, tri kỷ giữa người đồng bào và cán bộ cách mệnh mang ân tình cách mệnh sâu đậm.

Tám câu thơ đầu trong “Việt Bắc” vừa tiếp thu trị giá dân gian phong phú vừa được thi sĩ Tố Hữu sáng tạo ý mới, hình ảnh mới, diễn đạt tình cảm, sự kiện thời đại phản ánh quy luật kế thừa, cải cách nghệ thuật.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 15

Chiến tranh đã mang tới cho con người biết bao mất mát, hy sinh, niềm đau và nước mắt. Đó là điều mà người nào cũng có thể cảm nhận được. Thế nhưng, chính những gieo neo ấy cũng là nền tảng và đòn bẩy để những tình cảm thiết tha, tâm thành có thời cơ được bộc lộ. Trong đó, tình quân nhân là một loại tình cảm cao đẹp và thiêng liêng được xuất phát từ chính tấm lòng của người lính và nhân dân nơi họ đặt chân tới. Bài thơ “Việt Bắc” là một khúc ca dạt dào tình cảm của kẻ ở, người đi trong một cuộc chia ly đầy nghẹn ngào và xúc động.

Năm 1947, chiến dịch Việt Bắc thu đông giành thắng lợi vẻ vang, toàn bộ cơ quan đầu não phải rời căn cứ để xuống xuôi tiếp tục sự nghiệp phóng thích dân tộc. Bài thơ được Tố Hữu sáng tác để thổ lộ nỗi niềm lưu luyến và thiết tha của những người lính cũng như nhân dân vùng núi rừng Việt Bắc. Tám câu thơ đầu của “Việt Bắc” là sự thổ lộ rõ ràng và sâu sắc nhất xúc cảm của những người có mặt trong cuộc chia ly ấy.

Mở đầu bài thơ là một nghi vấn tu từ tâm thành, thấm đượm tình cảm.

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

Chỉ tám câu thơ mà có tận bốn chữ nhớ cũng đủ để nói lên nỗi nhớ ấy da diết biết chừng nào. thi sĩ sử dụng “mình-ta” để xưng hô như cách mà những người vợ, người chồng hay những người thân thiết gọi nhau. Nhân dân và người lính Việt Bắc, qua những năm tháng gắn bó, đấu tranh cùng nhau mà tình cảm của họ cũng mặn nồng, sâu sắc như người thân trong gia đình. thi sĩ sử dụng lối hát giao duyên như trong ca dao truyền thống để tạo nên một không khí sắp gũi, thân yêu và dễ đi vào lòng người. “Mình về mình có nhớ ta” là nghi vấn mà người ở lại dành cho kẻ ra đi. nghi vấn ấy thực ra cũng chẳng cần phải trả lời. Người ở lại như muốn hỏi chính mình, liệu rằng những người đội viên ấy khi về xuôi thì có còn nhớ về núi rừng, về cuộc sống nơi bản nhỏ. Mười lăm năm, một quãng thời gian dài đằng đẵng của những năm kháng chiến. Chính trong thời gian ấy, nhân dân và người lính đã cùng nhau đồng cam cộng khổ, gắn bó với nhau, chia sẻ và bảo vệ nhau trước những trở ngại, nguy hiểm của cuộc sống. Người lính về xuôi, liệu rằng khí nhìn cây, nhìn sông họ có nhớ tới rừng núi chập chùng, có nhớ tới nguồn nước từ trên cao đổ xuống. Những kỉ niệm của mười lăm năm gắn bó liệu có còn vương lại trong lòng họ hay không? Người dân Việt Bắc cứ tự đặt ra nghi vấn ấy, vừa để tỏa nỗi nhớ, vừa để thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn và lòng yêu thương, kết đoàn của dân tộc.

Sau nỗi nhớ là cảnh chia ly đầy nước mắt.

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi

Cả vùng Việt Bắc sát cánh cùng nhau bỗng nhiên ngày hôm nay lại phải chia lìa. người nào cũng hụt hẫng, người nào cũng mang trong mình nỗi buồn man mác. người nào cũng mong giành được thắng lợi, nhưng tới khi thắng lợi rồi thì họ lại phải xa nhau. “Tiếng người nào” là một loại âm thanh không rõ từ đâu tới, cũng chẳng rõ là của người nào, nhưng nó là tượng trưng cho tiếng nói của núi rừng và con người đang dạt dào sự nghẹn ngào, tiếc nuối. Giờ phút chia tay sao trôi nhanh quá. Người lính dẫu không muốn nhưng vẫn phải đựng bước ra đi. Những bước đi cũng họ nặng nề và nặng nhọc quá. Nó tiếng về phía trước nhưng lại không ngừng muốn quay trở lại, không phải xa lìa nơi mà họ đã gắn bó suốt tuổi xanh. Những bước chân ấy mang theo the cả nỗi niềm lưu luyến, “bâng khuâng” cho người ở lại. Trong lòng người đi và kẻ ở là những cảm giác không tên, nghẹn ngào rơi nước mắt.

Và cuộc chia li mỗi lúc lại càng thêm sầu thẳm, quyến luyến.

Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay

Ở hai câu cuối của đoạn một, hình ảnh “áo chàm” hiện lên với những ý nghĩa to lớn. Nó là đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Bắc đang ra tiễn những minh chủ sở hữu lên đường về xuôi. Ta bắt gặp cảnh chia tay với những cái bắt tay đầy nghẹn ngào. Họ cầm tay nhau mà chẳng người nào có thể thốt lên một lời từ biệt. có nhẽ, họ muốn được nắm tay nhau mãi, ở cạnh nhau để cùng sẻ chia những đắng cay thế cuộc. Họ không biết nói gì không phải không có gì để nói mà vì có quá nhiều những lời sự mà họ không biết khởi đầu từ đâu, nói thế nào. có nhẽ, cái nắm tay tình cảm và ánh mắt họ nhìn nhau cũng đủ để cả hai bên thấu hiểu và thông cảm cho nhau. Họ không nói nhưng tình cảm lại lan tỏa và được giãi bày qua ánh mắt họ giành cho nhau. Họ không cần nói nhưng người nào cũng cảm nhận được nỗi niềm và sự thương nhớ bởi họ đã quá hiểu nhau suốt mười lăm năm gắn bó.

Bài thơ Việt Bắc và đặc biệt là tám câu đầu đã vẽ nên một cuộc chia ly đầy nước mắt và để từ đó, người đọc có thể cảm nhận được tình cảm tâm thành và sâu sắc nhất giữa quân và dân trong những năm đấu tranh gian khổ. Đó là thứ tình cảm cao cả, thiêng liêng đáng tự hào và giữ gìn suốt thế cuộc.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 16

“Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi thi sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn…”

(Vân chữ, Lê Đạt)

Cái “vân chữ không trộn lẫn” của thi sĩ hay của một nhà văn thứ thiệt mà Lê Đạt nhắc tới ở đây chính là phong cách tác giả, là sự thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ qua tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn tư nhân của tác giả. Là lá cờ đầu của thơ ca cách mệnh, Tố Hữu xuất hiện giữa làng thơ với một phong cách thơ độc đáo, hấp dẫn, đó chính là tính trữ tình chính trị sâu sắc, đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Kết tinh vẻ đẹp độc đáo ấy của thơ Tố Hữu phải kể tới “Việt Bắc” – bản anh hùng ca, cũng là bản tình khúc về cách mệnh kháng chiến và con người kháng chiến. Làm nên “Việt Bắc” – một bản tình khúc thấm đẫm màu sắc dân tộc phải kể tới tám câu thơ đầu của tác phẩm:

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Tố Hữu là thi sĩ của lý tưởng cộng sản. Ông tới với thơ ca và cách mệnh cùng một lúc. Vì vậy cho nên chặng đường thơ của ông luôn song hành với những chặng đường cách mệnh mà lộng gió thời đại với những tập thơ: “Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng đờn, Ta với ta”. Trong đó có thể nói “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ ca Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ Việt Bắc được trích từ tập thơ cùng tên và được sáng tác vào tháng 10 năm 1945, khi Trung ương Đảng và Chính phủ cùng cán bộ đội viên rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm cảm hứng từ buổi chia tay ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên bài thơ này. Tính dân tộc của bài thơ thể hiện ở cả nghệ thuật lẫn nội dung và thể hiện sâu sắc nhất là ở tám câu thơ đầu.

Tính dân tộc dân tộc là một khái niệm thuộc phạm trù tư tưởng- thẩm mĩ chỉ mối quan hệ văn học và dân tộc, thể hiện qua tổng thể những đặc điểm độc đáo tương đối vững bền chung cho những sáng tác của một dân tộc được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử và phân biệt so với những dân tộc khác. Tính dân tộc được thể hiện xuyên suốt từ nội dung tới phương thức.

Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã vô cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mệnh. Từ xưa tới nay lục bát vốn là thể thơ dễ đi vào lòng người bởi âm điệu ngọt ngào vốn có của nó. nếu như sử dụng để diễn đạt tình cảm thì không còn gì hay bằng. Hay hơn nữa thi sĩ đã khéo vận dụng lối đối đáp vốn là phương thức diễn ý thân thuộc trong ca dao dân ca:

Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng có lối người nào vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa người nào vào

Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào và thấm đượm ý thức dân tộc. không những thế tiếng nói là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn dân tộc của tác phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là tiếng nói. tiếng nói thơ của Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cặp đại từ nhân xưng mình-ta vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng mà ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình yêu lứa đôi:

Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

Chuyện ân tình cách mệnh đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tình yêu lứa đôi.

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

“Mình” trên câu thơ trên chỉ người ra đi, còn “ta” là người ở lại. nhường như đây không còn là cuộc chia ly giữa đồng bào và cách mệnh mà nó đã trở thành buổi chia ly của lứa đôi yêu nhau mặn nồng da diết. từ đó ta mới mới phần nào thấm thía cái tình cảm mặn nồng, keo sơn của quân dân ta trong những buổi đầu đầu kháng chiến gian khổ, khó khăn. Dù bị cách trở bởi không gian và thời gian nhưng nhường như xúc cảm từ trái tim đã nâng đỡ họ vượt qua mọi rào cản để trong tâm hồn “như chưa hề có cuộc chia ly”. Tính dân tộc về mặt phương thức còn thể hiện qua hình ảnh. Đó là dáng núi hình sông :” Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đó là hình ảnh chiếc áo chàm trong “buổi phân li”. Áo chàm là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc tình nghĩa nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Những con người ấy là đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa hào hùng lại hào hoa: “Lưng mang gươm tay mềm mại bút hoa/Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”.

Tính dân tộc không chỉ vô cùng thành công trên phương diện nghệ thuật mà còn đậm nét qua nội dung, tư tưởng. Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh đậm nét hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mệnh; đã đưa những tư tưởng tình cảm cách mệnh hòa nhịp và tiếp nối truyền thống ý thức, tình cảm đạo lý dân tộc.

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Người ở lại đặt nghi vấn tu từ “Mình về mình có nhớ ta” để nhắc nhớ người ra đi, gợi trong người ra đi những kỷ niệm về ” mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Mười lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho tới tháng 10.1954, là mười lăm năm “Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi”, là mười lăm năm có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia, mười lăm năm “bát cơm chấm muối mối thù nặng vai” làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. có nhẽ vì vậy nên nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã nghĩ rằng: “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính là thứ thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn”.

Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.

Lại một nghi vấn tu từ nữa xuất hiện. Lại là một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Hà Nội rồi, thấy cây hãy nhớ tới núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ tới suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà tâm thành: Việt Bắc là cội nguồn cách mệnh, “Quê hương cách mệnh dựng nên Cộng hòa”, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này phải chăng là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của thi sĩ Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. từ đó thi sĩ cũng nhắc nhớ những thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc tích, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

nếu như như người Việt Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha thiết. Không sử dụng đại từ xưng hô “mình”, “ta” mà người xưng hô sử dụng đại từ “người nào” để khẳng định trước hết là sự gắn bó với người ở lại. người nào có thể là đại từ để hỏi nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất sắp cách nói của ca dao: “Nhớ người nào bổi hổi bổi hổi” Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong trị giá biểu cảm của từ “người nào”. Một chữ “người nào” của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc tới chừng nào và hiểu nỗi niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mệnh, đối với người miền xuôi. Một chữ “người nào” làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” Hai từ láy “bâng khuâng” và “ngay ngáy” góp phần làm tăng thêm tâm trạng người ra đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại “Bước đi một bước lâu lâu lại ngừng” để rồi “cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”. Không biết nói gì phải chăng là vì có quá nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ơn nghĩa, sắt son không thể nào sử dụng ngôn từ để diễn tả, đành phải gửi tâm tình qua cái nắm tay thật chặt, thật lâu. “Cầm tay” là biểu tượng của yêu thương kết đoàn. Chỉ cần cầm tay nhau thôi và hãy để tương đối ấm nói lên tất cả, yêu thương, nhung nhớ, tình nghĩa sẽ ấm mãi như tương đối ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu chấm lửng ở cuối câu như càng làm tăng thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận. Nó như nốt lặng trong một khuông nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. từ đó con người Việt Nam hiện lên thật đẹp với những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc: ơn nghĩa, thủy chung, son sắt.

Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mệnh, Tố Hữu đã viết nên một bản tình khúc, anh hùng ca đằm thắm bản sắc dân tộc. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở thành một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 17

Tố Hữu là một trong những thi sĩ lớn của dân tộc. Ông là một tượng đài về thể thơ lục bát. Nhắc tới ông, người đọc liền nghĩ ngay tới “Việt Bắc” – một bản tình khúc dạt dào xúc cảm để lại trong lòng người đọc một xúc cảm khó diễn tả được. Mỗi câu thơ như vẽ ra một quang cảnh rất đỗi bình dị của quê hương, quốc gia, con người mà nơi ấy ơn nghĩa, sự thủy chung như làm điểm nhấn vượt trội trên tất cả. Bài thơ “Việt Bắc” cũng thể hiện tính dân tộc sâu sắc.

“Việt Bắc” được sáng tác vào tháng 10 tháng 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, những cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.

Tính dân tộc được thể hiện ở hai phương diện, nội dung và phương thức. Trước hết về mặt nội dung bài thơ thể hiện ở những khía cạnh sau, hình ảnh chiếc “áo chàm” rất đỗi giản dị, tự nhiên:

Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

“Áo chàm” là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc anh hùng nhưng trung thực. Câu thơ như đang ca tụng tình người của con người Việt Nam. Từ những con người xa lạ không quen biết, chiến tranh đã kéo đẩy họ lại sắp với nhau để giờ đây kỉ niệm tưởng chừng ngắn ngủi như lại dài đằng đẵng ấy vô thức còn đọng lại trong tâm trí của họ. Bài thơ là cuộc hội thoại “mình – ta” vừa ngọt ngào, vừa sâu lắng:

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Khoảng thời gian mười lăm năm xảy ra biết bao nhiêu biến cố, thăng trầm của lịch sử để cho tình nghĩa giữa đội viên và người dân Việt Bắc ngày một gắn bó keo sơn.

không những thế, hình ảnh đội viên cách mệnh hiện lên cũng rất trung thực, mang đậm tính dân tộc. Trong giờ phút chia ly, họ quyến luyến không nỡ rời xa:

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Chỉ một cái “nắm tay” nhưng sao khó nói nên lời tới vậy. Cầm tay như truyền thêm cả sức mạnh, cả tương đối ấm của người ở lại cho người ra đi. Họ một lòng một dạ thủy chung son sắt:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước tình nghĩa bấy nhiêu

Hình ảnh “mình” lặp đi lặp lại mang dụng ý của tác giả. Người đội viên và người dân Việt Bắc họ như hòa quyện lại làm một không phân biệt rẽ ròi được. ơn nghĩa sâu nặng giữa họ không thể đong đếm. Rời xa Việt Bắc người đội viên mang trong mình bao nỗi nhớ, nhớ về thiên nhiên hùng vĩ, nhớ về tình người Việt Bắc. Tuy nhiên họ vẫn giữ ý thức lạc quan, yêu đời.

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 18

Những tên địa danh, đối với Địa lý chỉ đơn thuần là một địa điểm, một đối tượng tìm hiểu nhưng với Văn học, nó là cả một miền nhớ, miền ký ức và là nơi khơi nguồn xúc cảm. Tây Tiến. Sông Đuống, Kinh Bắc,… đã trở thành một miền thơ, là ký ức về một những năm tháng không thể nào quên của dân tộc. Việt Bắc cũng là một địa danh như thế. “Việt Bắc” chính là bản hùng ca, khúc tình khúc về cuộc sống kháng chiến và con người kháng chiến. Ngay trong tám câu thơ đầu đã thể hiện được những điều đó:

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp quay trở lại nước ta đã kết thúc thắng lợi. Hòa bình được lặp lại, nửa quốc gia được phóng thích. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội được phóng thích, trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Lịch sử dân tộc bước sang một trang mới. Ở thời khắc này, người ta có nhu cầu nhìn lại chặng đường vừa qua, đồng thời hướng về trục đường tương lai để bước tiếp. Bài thơ “Việt Bắc” ra đời để phục vụ nhu cầu ấy của xã hội, là tiếng lòng của đồng bào mọi người. “Việt Bắc” là bản trường ca đầy ân tình – tình quê hương, tình quốc gia, tình nghĩa giữa con người. vì vậy bài thơ là một bản tổng kết lịch sử bằng tâm tình. Bởi là một chặng đường dài nên từ những câu thơ này tới dòng thơ sau đều có sự phát triển và vận động, mang ý nghĩa riêng của nó.

Mở đầu bài thơ là lời của người ở lại gửi tới người ra đi:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Ta lại bắt gặp lối đối đáp “mình – ta” thân thuộc trong những câu hát giao duyên của lứa đôi, giữa “bến – thuyền”, “mận – đào”. Điệp cấu trúc: “Mình về, mình có nhớ….” là nghi vấn hay là sự gợi nhắc đầy ý tứ, ý tình. Nghe đâu đây những câu hát ơn nghĩa ngày xưa như vọng về:

Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền

Hay:

Chàng về để áo lại đây
Phòng khi em đắp gió Tây lạnh lùng…

Lối đối đáp mình – ta với âm điệu ngọt ngào, thiết tha làm cho những câu thơ bỗng trở nên mềm mại, như cũng vương vít nỗi lưu luyến, nhớ nhung. Tình quân – dân, vấn đề chính trị khô khan, từ bao giờ lại được trữ tình hóa, trở nên da diết và nồng nàn như tình yêu lứa đôi, đó chính là nhờ ngòi bút của thi sĩ Tố Hữu. “Mười lăm năm” không chỉ là khoảng thời gian địa lí, nó kí ức, là một phần thanh xuân của biết bao con người, của cả dân tộc. Một chữ “ấy” thôi, không cụ thể nhắc tới thời gian nào nhưng lại mở ra muôn vàn ý nghĩa. Mười năm năm của thời gian: từ những ngày thành lập ở Cao Bằng, những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc tới thắng lợi vang lừng của Hồng Thái, Tân Trào… Mười năm năm ân tình, ơn nghĩa của đồng đội, quân – dân của những tháng ngày “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, “miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”. Mất đi một tí rõ ràng để thêm nhiều tầng ý vị và tình cảm chính là như thế. Người ở lại còn gợi nhắc về những ân tình, thủy chung – đạo lí dân tộc: “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Những thành ngữ, chất liệu dân gian, qua ngòi bút tài hoa Tố Hữu, vừa mang tương đối thở thời đại, vừa giữ được tính dân tộc của nó: “cây – núi”, “sông – nguồn”. Đó ko phải là câu thành ngữ thân thuộc: “Uống nước nhớ nguồn” đó sao? Bốn dòng thơ, cho 15 năm dằng dặc, vất vả mà hào hùng. Bốn dòng thơ cho những tình nghĩa không bao giờ nói hết. Bốn dòng thơ cho những da diết, luyến lưu không lỡ rời. Bốn dòng thơ cho cả lẽ sống cần có, bây giờ và mãi về sau: ân tình, thủy chung, uống nước nhớ nguồn…

Bốn câu thơ tiếp theo là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi lưu luyến, nhớ nhung của kẻ ở người đi:

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Người ra đi quyến luyến, nhớ nhung, ngập ngừng mà lưu luyến khiến từng bước chân còn vương vấn mãi những âm thanh mơ hồ: “tiếng người nào”. Đó là tiếng người ở lại hay tiếng vọng từ trong tâm tưởng người ra đi. Không gian từ ngoại giới: “bên cồn” chuyển vào “trong dạ” rồi “ngay ngáy bước đi” từ hữu hình tới vô hình. Hữu hình hóa cái vô hình, ngoại giới hóa nội tâm càng làm bước đi thêm ngập ngừng, chầm chậm chẳng muốn rời. Những bước chân ngập ngừng ấy ta đã bắt gặp trong giây phút chia phút chia li của “chàng” và “nàng” trong “Chinh phụ ngâm”:

Bước đi một bước giây giây lại ngừng

Nhưng ở đây lại là tình đồng chí, nghĩa đồng bào, thắm thiết và vương vít tha thiết.

Từ âm thanh mơ hồ ấy, Tố Hữu đề cập tới hình ảnh cụ thể tới nao lòng: “áo chàm đưa buổi phân li”. Nói tới “áo” trong buổi chia ly là Tố Hữu đã trở về với ngọn nguồn dân tộc:

Áo xông hương để chàng vắt mắc
Đêm em nằm em đắp dành tương đối

(Ca dao)

Người về để áo lại đây
Phòng khi em đắp gió Tây lạnh lùng

(Ca dao)

Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan sơn

(Truyện Kiều, Nguyễn Du)

Nhưng chiếc áo trong thơ Tố Hữu không phải áo xông hương đài những hay áo bào sang trọng mà chỉ là “áo chàm” giản dị một sắc nâu. Đó không phải cái cầm tay “Nhủ rồi tay lại cầm tay” (Chinh phụ ngâm, Đoàn Thị Điểm) của nghĩa phu thê hay của tình đồng chí, đồng đội: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” mà là cái nắm tay của tình đồng chí, đồng bào. Dấu “…” như khoảng trống, khoảng trắng vô ngôn mà hữu ý, dư tình. thỉnh thoảng, không nói là để nói được rất nhiều nhất. thỉnh thoảng, tiếng nói cũng bất lực trước tình cảm mênh mông của con người.

Đoạn thơ của Tố Hữu chỉ tám câu mà gợi lên tình nghĩa bao kể xiết: tình quân dân cá nước, tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Những tình cảm chính trị được đưa vào thơ một cách rất tự nhiên, ý tình khiến cho thơ có “thép” mà không cứng, nói về lẽ sống lớn dân tộc mà không sa vào giáo điều, khô khan. Có được hiệu quả ấy chính là nhờ những câu thơ với lối nói dân gian sắp gũi, giọng điệu tâm tình nhẹ nhõm với tiếng nói, hình ảnh trở về với cội nguồn dân tộc mà vẫn mang tương đối thở thời đại càng làm cho đoạn thơ thêm hấp dẫn. Và chính những tình cảm ấy là động lực, là hậu phương cho con người Việt Nam vượt qua mưa bom bão đạn mà làm nên những thắng lợi “Lừng lẫy năm châu, chấn động trái đất”. Phải chăng, Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mệnh. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ?

Xin mượn lời của thi sĩ – nhà phê bình một thời cùng Tố Hữu sống và viết, Chế Lan Viên, để làm lời kết: “Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì người nào kia còn phung phí đời mình, làm gì cũng được, sống sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy khởi đầu thử ngừng lại mà biết quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó.”

tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất – Mẫu 19

Tố Hữu là thi sĩ tiêu biểu cho thiên hướng thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mệnh Việt Nam. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc đã tái tạo niềm thương nỗi nhớ, cũng chính là niềm trằn trọc chung của đồng bào ta trong lần chia tay lịch sử.

Tính dân tộc là những dấu ấn độc đáo, không lặp lại, biểu hiện những gì là bản sắc, là những nét riêng biệt đặc thù của một dân tộc. Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính nhưng đồng thời cũng là thước đo trị giá của một tác phẩm văn học. Những tác phẩm văn học lớn từ trước cho tới nay. Mà những tác phẩm vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc sâu sắc.

Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn phương thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề hiện thực đời sống cách mệnh nóng bỏng liên quan tới vận mệnh dân tộc, những tình cảm chính trị có sự gắn bó, hòa nhập với truyền thống tình cảm và đạo lí của dân tộc, khát vọng và ý chí của một dân tộc. Về phương thức nghệ thuật, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc (cách so sánh, ẩn dụ, hiện tượng chuyển nghĩa, cách diễn đạt sắp với ca dao dân ca). nếu như hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách nghệ thuật “đằm thắm bản sắc dân tộc”.

Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người ở lại, khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội tình nghĩa, thể hiện tâm trạng thương nhớ, tình cảm gắn bó, thủy chung của quê hương Việt Bắc, con người Việt Bắc dành cho người về xuôi. Ở đây, thi sĩ sử dụng thành công những hình ảnh đối đáp kiểu dân gian:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

quang cảnh chia tay quyến luyến giữa kẻ ở và người về. Cách xưng hô “mình – ta”: thân tình sắp gũi như trong ca dao. Điệp từ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng. Cách xưng hô “mình – ta” : thân tình sắp gũi như trong ca dao. Điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” : lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc tình nghĩa.

Người ở lại đặt nghi vấn tu từ “Mình về mình có nhớ ta” để nhắc nhớ người ra đi, gợi trong người ra đi những kỷ niệm về ” mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Mười lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho tới tháng 10.1954, là mười lăm năm “Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi”, là mười lăm năm có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia, mười lăm năm “bát cơm chấm muối mối thù nặng vai”…làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. có nhẽ vì vậy nên nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã nghĩ rằng: ” “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính là thứ thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn”.

“Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Lại một nghi vấn tu từ nữa xuất hiện. Lại là một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Hà Nội rồi, thấy cây hãy nhớ tới núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ tới suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà tâm thành: Việt Bắc là cội nguồn cách mệnh, “Quê hương cách mệnh dựng nên Cộng hòa”, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này phải chăng là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của thi sĩ Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. từ đó thi sĩ cũng nhắc nhớ những thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc tích, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài. Hai nghi vấn đều hướng về nỗi nhớ, một nỗi nhớ về thời gian “mười lăm năm”, một nỗi nhớ về không gian: sông, núi, nguồn. Đó là khoảng thời gian gắn bó biết bao kỉ niệm của người dân Việt Bắc với người lính.

Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…

Bốn câu thơ là tiếng lòng của người cán bộ cách mệnh về xuôi: tâm trạng bâng khuâng, ngay ngáy đầy lưu luyến, quyến luyến của người kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc.

Từ láy “bâng khuâng” thể hiện sự xao xuyến, “ngay ngáy” thể hiện sự không yên tâm trong dạ, không nỡ rời bước. Hình ảnh “áo chàm” chỉ người dân Việt Bắc thân yêu giản dị. Cử chỉ “cầm tay nhau” thay lời nói chứa đầy xúc cảm. Không khí buổi chia tay thân tình, sắp gũi, quyến luyến không muốn chia xa.

Lời người ở lại nhắn gửi tới người ra đi: Lời nhắn gửi được thể hiện dưới phương thức những nghi vấn: nhớ về Việt Bắc cội nguồn quê hương cách mệnh, nhớ thiên nhiên Việt Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ những kỉ niệm ân tình…

nếu như như người Việt Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha thiết. Không sử dụng đại từ xưng hô “mình”, “ta” mà người xưng hô sử dụng đại từ “người nào” để khẳng định trước hết là sự gắn bó với người ở lại. người nào có thể là đại từ để hỏi nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất sắp cách nói của ca dao: “Nhớ người nào bổi hổi bổi hổi” Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong trị giá biểu cảm của từ “người nào”. Một chữ “người nào” của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc tới chừng nào và hiểu nỗi niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mệnh, đối với người miền xuôi. Một chữ “người nào” làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Hai từ láy “bâng khuâng” và “ngay ngáy” góp phần làm tăng thêm tâm trạng người ra đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại “Bước đi một bước lâu lâu lại ngừng” để rồi “cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”. Không biết nói gì phải chăng là vì có quá nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ơn nghĩa, sắt son không thể nào sử dụng ngôn từ để diễn tả, đành phải gửi tâm tình qua cái năm tay thật chặt, thật lâu. “Cầm tay” là biểu tượng của yêu thương kết đoàn. Chỉ cần cầm tay nhau thôi và hãy để tương đối ấm nói lên tất cả, yêu thương, nhung nhớ, tình nghĩa sẽ ấm mãi như tương đối ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu chấm lửng ở cuối câu như càng làm tăng thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận. Nó như nốt lặng trong một khuông nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. từ đó con người Việt Nam hiện lên thật đẹp với những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc: ơn nghĩa, thủy chung, son sắt.

Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã vô cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mệnh. Từ xưa tới nay lục bát vốn là thể thơ dễ đi vào lòng người bởi âm điệu ngọt ngào vốn có của nó. nếu như sử dụng để diễn đạt tình cảm thì không còn gì hay bằng. Hay hơn nữa thi sĩ đã khéo vận dụng lối đối đáp vốn là phương thức diễn ý thân thuộc trong ca dao dân ca.

Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào và thấm đượm ý thức dân tộc. không những thế tiếng nói là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn dân tộc của tác phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là tiếng nói. tiếng nói thơ của Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cặp đại từ nhân xưng mình-ta vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng mà ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình yêu lứa đôi.

Tính dân tộc về mặt phương thức còn thể hiện qua hình ảnh. Đó là dáng núi hình sông :” Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đó là hình ảnh chiếc áo chàm trong “buổi phân li”. Áo chàm là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc tình nghĩa nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Những con người ấy là đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa hào hùng lại hào hoa: “Lưng mang gươm tay mềm mại bút hoa/Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”.

Tính dân tộc không chỉ vô cùng thành công trên phương diện nghệ thuật mà còn đậm nét qua nội dung, tư tưởng. Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh đậm nét hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mệnh; đã đưa những tư tưởng tình cảm cách mệnh hòa nhịp và tiếp nối truyền thống ý thức, tình cảm đạo lý dân tộc.

Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mệnh, Tố Hữu đã viết nên một bản tình khúc, anh hùng ca đằm thắm bản sắc dân tộc. tình nghĩa sâu nặng của người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc, của quần chúng đối với cách mệnh trong thơ Tố Hữu là sự kế thừa tình cảm, đạo lý sống của con người Việt Nam “Uống nước nhớ nguồn”, ơn nghĩa thủy chung. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở thành một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.

Đoạn thơ nói riêng và bài thơ Việt Bắc nói chung là minh chứng cho sự thành công của thơ Tố Hữu trong việc phối hợp hai yếu tố: cách mệnh và Dân tộc trong phương thức đẹp đẽ của thơ ca. Tính dân tộc là một trong những đặc điểm vượt trội làm nên phong cách thơ Tố Hữu. Thơ Tố Hữu mang vẻ đẹp của thơ ca truyền thống nhưng vẫn mang đậm hồn thơ của thời đại cách mệnh.

tìm hiểu 8 câu thơ đầu trong bài Việt Bắc để chứng minh nhận định: Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc thì dù viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Tố Hữu được biết tới với những tác phẩm mang đậm tính trữ tình – chính trị. Bàn về phong cách thơ độc đáo của ông, có ý kiến nghĩ rằng: “Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc thì dù viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người”. Đặc trưng này đã được thể hiện rõ qua bài thơ Việt Bắc nói chung và tám câu thơ trước hết của thi phẩm này nói riêng.

Giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tiếng nói giản dị mà tha thiết trong thơ Tố Hữu là giọng điệu của sự ngọt ngào, mang tính tâm tình, thủ thỉ sâu lắng, đằm thắm. Trong bài thơ Việt Bắc, để thể hiện nội dung về tình cảm cách mệnh, tác giả Tố Hữu đã sử dụng giọng thơ tâm tình để bộc lộ những xúc cảm nặng tình nghĩa. Giọng điệu đó quyện hòa cùng nghệ thuật giàu tính dân tộc qua thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp “mình – ta” thân thuộc trong những câu ca dao và khúc hát dân ca, hệ thống tiếng nói bình dị cùng những hình ảnh thơ thân thuộc nhưng vẫn giàu sức gợi. Dù viết về đề tài chính trị gắn với sự kiện lịch sử tháng 10 năm 1954, sau khi hiệp nghị Giơnevơ được kí kết, những cơ quan trung ương của Đảng rời chiến khu Việt Bắc để trở về hoạt động tại thủ đô Hà Nội nhưng bài thơ Việt Bắc nói chung và tám câu thơ trước hết vẫn hiện lên chất chứa xúc cảm của sự ngọt ngào, tha thiết.

Trong tám câu thơ trước hết, tác giả đã tái tạo không khí bâng khuâng, lưu luyến trong những phút giây trước hết của buổi chia ly giữa kẻ ở – người đi. Khúc dạo đầu được khơi gợi từ lời của những người ở lại:

“- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”

Trong lời ca của người dân Việt Bắc hướng tới những người đội viên, cán bộ cách mệnh, chúng ta có thể thấy được xúc cảm trữ tình sâu lắng qua điệp cấu trúc câu: “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình về mình có nhớ không?”. Sự láy đi láy lại của nghi vấn tu từ đã xoáy sâu vào trong nỗi nhớ và sự day dứt khôn nguôi. Quãng đường đồng hành đầy tình nghĩa và “thiết tha mặn nồng” giữa nhân dân Việt Bắc và người đội viên cách mệnh đã được diễn tả qua khoảng thời gian “Mười lăm năm ấy”. Đó là những tháng ngày đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, gợi lên sự bao bọc của nhân dân: “Thương nhau chia củ sắn lùi/ Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”. Cuộc kháng chiến của dân tộc ta vì vậy luôn ngời sáng sức mạnh của ý thức kết đoàn và mang tính toàn dân. Biết bao ân tình, gắn bó một lần nữa được gợi nhắc qua những hình ảnh “cây”, “núi”, “sông”, “nguồn” – không gian thân thuộc nơi núi rừng ẩn dụ cho lối sống ơn nghĩa thủy chung. tương tự, qua bốn câu thơ đầu, chúng ta có thể thấy được giọng điệu tâm tình, thủ thỉ tràn đầy xúc cảm bâng khuâng, xao xuyến của đồng bào dân tộc.

Cuộc hội thoại trữ tình tiếp tục được tiếp nối qua lời đáp của người ra đi – những cán bộ đội viên cách mệnh:

“- Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, ngay ngáy bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…”

Bốn câu thơ đã thể hiện rõ sự lưu luyến quyến luyến, dù chưa chia xa những viễn cảnh nhớ nhung đã hiện lên trước mắt. Đại từ “người nào” ngân vang cùng sự “tha thiết” đã nhấn mạnh vào tình cảm, xúc cảm đặc biệt của người ra đi và sự thấu hiểu đối với xúc cảm của người ở lại. Điều này khiến cho câu thơ giống như một câu trả lời gián tiếp khẳng định người ra đi sẽ mãi mãi không quên được “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” và luôn một lòng hướng về và nhớ tới “cây”, “núi”, “sông”, “nguồn”. Trạng thái này được xoáy sâu hơn nữa qua những tính từ trình bày xúc cảm như “bâng khuâng”, “ngay ngáy”. Hình ảnh người ở lại đã được khắc họa trong tâm tưởng của những đội viên cách mệnh qua hình ảnh hoán dụ “Áo chàm” – màu áo đặc trưng của đồng bào Việt Bắc. Cuộc chia ly cứ thế diễn ra trong sự bâng khuâng xúc động, và tất cả mọi xúc cảm nhường như nén lại: “Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”.

Chỉ với tám câu thơ trước hết, chúng ta có thể thấy được tài năng của thi sĩ Tố Hữu trong việc sử dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo và linh hoạt thể thơ lục bát – thể thơ dân tộc với những đặc trưng riêng trong cách gieo vần và tiết điệu. Đồng thời, kết cấu bài thơ được kiến tạo theo lối đối đáp giao duyên qua cặp đại từ “mình – ta” khiến lời thơ chất chứa yêu thương như những lời tâm tình của lứa đôi yêu nhau. Câu chuyện cách mệnh, kháng chiến vốn thuộc ngành chính trị khô khan được tái tạo đầy tâm tình và sâu lắng như một câu chuyện tình yêu ngọt ngào, làm vượt trội tình cảm ân tình thủy chung, cao đẹp của tình nghĩa cách mệnh.

tương tự, qua tám câu thơ trước hết, chúng ta có thể khẳng định: “Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc thì dù viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người”. Câu chuyện cách mệnh, kháng chiến mang tính chính trị, gắn với sự kiện lịch sử cụ thể vì vậy khi đi vào trang thơ “Việt Bắc” vẫn chất chứa xúc cảm và da diết, bổi hổi. Điều này đã thể hiện rõ đặc trưng chính trị – trữ tình trong phong cách thơ Tố Hữu. Đồng thời tạo nên nét đặc sắc và sức hút của bài thơ.

****************

Việt Bắc là bài thơ trữ tình chính trị nổi tiếng của thi sĩ Tố Hữu, người được mệnh danh là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mệnh. Tìm hiểu chi tiết về nội dung cũng như đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Việt Bắc, kế bên bài tìm hiểu 8 câu thơ đầu trong bài thơ Việt Bắc trên đây, những em không nên bỏ qua những bài văn hay lớp 12 cùng chủ đề khác như: Tính dân tộc qua bài Việt Bắc, Cảm nhận về đoạn trích trong bài thơ Việt Bắc, Bình giảng bức tranh tứ bình trong bài Việt Bắc, tìm hiểu nỗi nhớ của người cán bộ cách mệnh về xuôi đối với Việt Bắc trong bài Việt Bắc, Tố Hữu.

Đăng bởi: Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Chuyên mục: Giáo Dục

Bản quyền bài viết thuộc THPTSocTrang.Edu.Vn. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: cmm.edu.vn

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục

Related Posts