tìm hiểu bài ca dao Ơn trời mưa nắng phải thì…

Đề bài: tìm hiểu bài ca dao Ơn trời mưa nắng phải thì…Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.

phan tich bai ca dao on troi mua nang phai thi

Bạn đang xem bài: tìm hiểu bài ca dao Ơn trời mưa nắng phải thì…

 tìm hiểu bài ca dao Ơn trời mưa nắng phải thì
 

I. Dàn ý tìm hiểu bài ca dao Ơn trời mưa nắng phải thì (Chuẩn)

1. Mở bài

– Ca dao Việt Nam phản ánh tâm tư tình cảm nhân dân lao động
– Nhiều bài hay, thể hiện tình yêu quê hương, yêu lao động
– Trích dẫn bài ca dao: “Ơn trời mưa nắng phải thì…”

2. Thân bài

– Hai dòng đầu: Cách sử dụng từ đồng âm “thì”, cụm từ “ơn trời” là cách nói bình dị. Cảnh tượng đồng quê yên bình “bừa cạn”, “cày sâu”…(Còn tiếp)

>> Xem chi tiết Dàn ý tìm hiểu bài ca dao Ơn trời mưa nắng phải thì tại đây

 

II. Bài văn mẫu tìm hiểu bài ca dao Ơn trời mưa nắng phải thì (Chuẩn)

Ca dao, dân ca là tiếng lòng của nhân dân lao động, phản ánh tâm tư tình cảm của những con người chất phác. Mà ở tâm hồn của họ, ta có thể nhận thấy tình yêu đối với quê hương, con người, những ước mơ giản dị về một đời sống no ấm. Có rất nhiều bài ca dao Việt Nam đặc sắc, với trị giá nội dung, nghệ thuật cao. Chẳng hạn như bài:

“Ơn trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.
Công lênh chẳng quản bao lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
người nào ơi! Đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.”

Bài ca dao trên được làm theo thể thơ lục bát, vốn là thể thơ truyền thống chủ yếu trong văn học dân gian Việt Nam. Từ bao đời nay, những làn điệu lục bát ngọt ngào tô điểm cho đời sống ý thức con người Việt Nam. Cùng với đó là cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh rất đỗi bình dị:

“Ơn trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.

Cụm từ “ơn trời” như một cách nói thể hiện niềm lạc quan, hàm ơn cuộc sống, hàm ơn thiên nhiên, khi người nông dân thấy mưa thuận gió hòa, tạo điều kiện cho việc cấy cày của nông phu trở nên thuận lợi. Hai câu ca dao mở đầu cũng trở nên độc đáo với cách sử dụng hai từ đồng âm: “thì” thứ nhất với tức là thời vụ, còn “thì” thứ hai lại là một quan hệ từ, khiến cho hai dòng thơ trở nên ấn tượng, dễ thuộc, dễ nhớ. Điệp ngữ “nơi thì…” có tác dụng liệt kê ra bức tranh lao động tươi vui, sôi nổi ở khắp nơi trên quê hương ta, khi đã vào mùa vụ. Người nông dân chẳng quản bừa cạn, cày sâu, bởi họ hiểu rõ rằng:

Công lênh chẳng quản bao lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.

Có người nào đã từng nói: Sức mạnh của con người yêu lao động chính là ở niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Đúng tương tự đó, bằng cái nhìn luôn hướng về phía trước, những người nông dân Việt Nam chân lấm tay bùn có thể hình dung ra thành tựu của “công lênh” nặng nhọc mà họ đã bỏ ra trên đồng ruộng để có vụ mùa bội thu. Trong thơ lục bát, đặc biệt là ca dao, nhân dân ta thường sử dụng phép tiểu đối để tạo ra nhịp độ. Ở câu “Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng” cũng là phép tiểu đối ấy: Câu thơ chia thành hai vế, với hai bức tranh trái ngược của hiện tại và tương lai. Hiện tại là “nước bạc” mênh mông trên đồng, rồi qua bàn tay con người, ngày mai “cơm vàng” sẽ hiện diện đem lại giàu có hạnh phúc. Hình ảnh thơ giản dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày, mà trị giá nghệ thuật lại rất cao, với xúc cảm tươi vui, tích cực. Có thể nói, đây là cách tư duy thân thuộc trong ca dao, ta có thể thấy được qua một bài khác:

Mồ hôi mà đổ xuống đồng
Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi nương…

Và rồi từ cái nhìn yêu đời ấy, người xưa bật lên một lời kêu gọi đầy mến yêu, để gửi gắm cho cháu con sau này:

người nào ơi! Đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.

Thành phần gọi đáp nằm ở đầu câu ca dao là một mô-típ thân thuộc. Nó tạo điều kiện cho lời ca dao thêm giàu chất trữ tình, đi sâu vào trong lòng người: “người nào ơi, bưng bát cơm đầy…”, “người nào ơi, phải nghĩ trước sau”…, những câu ca dao tương tự xuất hiện tương đối nhiều trong văn học dân gian Việt Nam. Từ đó, người nông dân nhắn nhủ rằng đừng bỏ trống đất đai, đừng biếng lười và xao nhãng việc canh tác. Cách so sánh: “tấc đất – tấc vàng” thật đắt giá. Đất đai quý báu lắm bởi đất làm ra lương thực nuôi người, nhất là đối với người trồng trọt, thì mảnh đất quê hương chính là nguồn cội của sự sống. Nhưng có nhẽ, người xưa muốn truyền đạt một trị giá còn quý hơn cả vàng: đó là trị giá của lao động. Chỉ có lao động mới biến đất đai thành vàng ngọc, biến đời sống vất vả thành bình yên hạnh phúc.

Sáu dòng thơ thật ngắn gọn, nhưng dư ba của chúng cứ ngân nga trong lòng người đọc. Với cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh vừa sắp gũi, thân thuộc, vừa tinh luyện; cách vận dụng những phép tu từ như so sánh, điệp ngữ, lối nói giàu nhạc điệu, tác giả bình dân xưa đã góp vào nền văn học dân gian Việt Nam một bài ca dao có thể gọi là tuyệt tác.

Ca dao là tiếng nói của tâm hồn dân tộc. Và quả thực là tương tự, bài ca dao “Ơn trời mưa nắng phải thì…” đã đi sâu vào trong đời sống người Việt, xuất hiện trong những lời ru hời, hay trong câu chuyện tươi vui dưới mái nhà tranh. ngày hôm nay, thưởng thức bài ca dao, thế hệ trẻ vẫn thấy vẹn nguyên nơi đó một ý thức lạc quan, một quan niệm sống tích cực, đặt trọn niềm tin vào lao động, sử dụng lao động để kiến tạo nên thế cuộc no ấm, xây dựng quê hương ngày một sáng tươi hơn.

———————HẾT———————

Cùng với bài văn mẫu  tìm hiểu bài ca dao Ơn trời mưa nắng phải thì, để tìm hiểu ý nghĩa của những câu ca dao thân thuộc khác, những em có thể tham khảo thêm: tìm hiểu một bài ca dao dân ca những câu hát về tình cảm gia đình, Nghị luận về câu ca dao: Cầm vàng mà lội qua sông…, tìm hiểu bài ca dao Thân em như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay người nào, Chứng minh câu ca dao Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

Bản quyền bài viết thuộc Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: https://cmm.edu.vn

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục

Related Posts