Cùng Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung tìm hiểu những bài văn mẫu tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
tìm hiểu tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ là tài liệu ôn tập Ngữ văn 9 cũng như ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn hay, giúp những bạn hiểu thêm về tác giả, tác phẩm cũng như nhân vật Vũ Nương, tính cách, thế cuộc nàng, những ràng buộc phong kiến xã hội… Từ đó thêm cảm nhận, cũng như ý tưởng mới khi tìm hiểu tác phẩm.
Bạn đang xem bài: tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ)
Dàn ý tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
Mẫu dàn ý 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ, và tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương”.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp của Vũ Nương
Vũ Nương là cô gái xinh đẹp: tư dung tốt đẹp.
Là cô gái có đức tính tốt đẹp: thùy mị, nết na.
→ Khiến chàng Trương đem lòng yêu mến và cưới về làm vợ.
Ngày chồng tòng quân: nàng đau lòng, dặn dò và mong chồng bình an trở về.
Khi chồng ra trận: ở nhà một lòng một dạ săn sóc con trai và săn sóc mẹ chồng những ngày cuối đời.
→ Là người vợ hiền lành, đảm đang, đầy đủ “công – dung – ngôn – hạnh” đáng ngưỡng mộ.
→ Là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ với những phẩm hạnh tốt đẹp.
b. Số phận thảm kịch của Vũ Nương
Nguyên nhân: khi chồng bế con ra thăm mộ mẹ, đứa nhỏ đã tiết lộ bố nó đêm nào cũng tới thăm nó → Trương Sinh đem lòng nghi ngờ, ghen tuông.
Khi Trương Sinh về nhà đã chửi mắng nàng và đuổi nàng đi mặc cho nàng van xin và thanh minh.
→ Người phụ nữ không được tự quyết định số phận của mình mà phải phụ thuộc vào người đàn ông tỏng gia đình. Tuy mình bị oan nhưng không được thanh minh.
Để chứng minh tấm lòng chung thủy của mình Vũ Nương đã nhảy sông tự tử.
→ khổ cực, xót thương trước số phận xấu số của nàng sau những điều tốt đẹp nàn dã làm cho nhà chồng.
Sau này, khi Trương Sinh hiểu ra oan khúc của nàng đã vô cùng đau xót nhưng nàng không thể trở về nhân gian được nữa mà mãi ở lại nơi thủy cung. → Đây được coi là cái kết vừa có hậu vừa đoản hậu của Vũ Nương: có hậu vì cuối cùng nàng cũng được thân oan và khiến cho người làm nàng khổ cực là Trương Sinh trông thấy lỗi lầm, ăn năn về lỗi lầm đó; đoản hậu vì nàng không được quay lại nhân gian để sống tiếp kiếp người, để nhận lại phúc đức sau những nghĩa cử cao đẹp nàng đã làm.
3. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp, số phận của Vũ Nương và trị giá của tác phẩm.
Mẫu dàn ý 2
I. Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
Nguyễn Dữ: quê ở Ninh Thanh (Hải Dương), là người học rộng tài cao, có tư cách sáng ngời. Ông sống trong xã hội tao loạn, chế độ phong kiến thối nát, ông viết sách và để lại một số thơ và cuốn văn xuôi cựu truyền kì mạn lục viết bằng chữ Hán.
Chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thương tâm về cái chết oan khúc của nhân vật Vũ Nương, tác giả thể hiện niềm thương cảm sâu sắc đối với thân phận người phụ nữ, đồng thời ca tụng phẩm chất đáng quý của họ trong xã hội phong kiến.
II. Thân bài
1. tìm hiểu nhân vật Vũ Nương
* Những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Vũ Nương
Vũ Nương là người con gái tính tình đã thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp
Vũ Nương lấy người chồng là Trương Sinh tính tình đa nghi, hay ghen nhưng chưa bao giờ nàng để vợ chồng bất hòa
Khi chồng ra trận, nàng ở nhà rất mực thủy chung với chồng, thờ cúng, hiếu thảo với mẹ chồng và săn sóc con cái
→ Nàng làm trọn trách nhiệm người phụ nữ tam tòng tứ đức một cách xuất sắc
* Nỗi oan và cái chết của Vũ Nương
Khi chồng trở về nghe lời đứa con nhỏ dại liền nghi oan và trách mắng Vũ Nương
Nàng đớn đau, thất vọng trước sự đối xử bất công và tàn nhẫn của chồng
Vũ Nương lựa lựa chọn cái chết để rửa nỗi nhục → đây là hành động quyết liệt nhất chất chứa nỗi vô vọng đắng cay, sự bất lực của thân phận
Khi sống dưới thủy cung, nàng vẫn khôn nguôi nhớ về cuộc sống trần thế
Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương:
+ Trực tiếp: lời nói thơ ngây của bé Đản
+ Gián tiếp: người chồng tính tình đa nghi, hay ghen đã cư xử hồ đồ, phũ phàng. Do ngay từ đầu cuộc hôn nhân không có sự đồng đẳng. Do chiến tranh và lễ giáo phong kiến khắc nghiệt
2. trị giá nội dung và nghệ thuật
* trị giá nội dung
trị giá hiện thực: phê phán tố cáo xã hội phong kiến bất công giày đạp lên số phận người phụ nữ, người phụ nữ chịu nhiều oan khúc, bế tắc nhưng không tự bảo vệ được mình
trị giá nhân đạo: ca tụng phẩm chất tốt đẹp và thương cảm cho người phụ nữ thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương
* trị giá nghệ thuật
Xây dựng tình huống truyện độc đáo đặc biệt chi tiết chiếc bóng, nhằm hoàn thiện thêm vẻ đẹp tư cách cho nhân vật Vũ Nương nhưng cũng thể hiện rõ nét thảm kịch số phận nhân vật
Nghệ thuật dựng truyện: tình huống truyện oái oăm, dẫn tới nhiều bất thần thú vị, tăng tính thảm kịch của truyện
Xây dựng thành người lao động vật qua lời nói và hành động, phối hợp với những hình ảnh ước lệ tượng trưng.
III. Kết bài
Chuyện người con gái Nam Xương là tác phẩm xuất sắc góp phần vào tiếng nói chung đòi sự đồng đẳng cho người phụ nữ.
Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Vũ Nương, thể hiện niềm xót thương thân phận người phụ nữ xưa và thông từ đó ca tụng phẩm chất son sắt, thủy chung của họ.
Nội dung tóm tắt tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
tìm hiểu nhân vật Vũ Nương
– Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp cả người lẫn nết, thể hiện qua câu văn trình bày “tính tình thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”
– Với “tư dung” tốt đẹp của Vũ Nương, Trương Sinh đã phải xin mẹ “đem 100 lạng vàng” để cưới được nàng làm vợ. Chi tiết này là minh chứng rõ ràng cho vẻ đẹp và phẩm chất của nàng trong thời kì phong kiến xưa cũ
Về ngoại hình và phẩm chất, Vũ Nương là biểu tượng của người phụ đẹp trong xã hội phong kiến. Song để có thể hiểu rõ hơn về nhân vật, ta cần đặt Vũ Nương trong những mối quan hệ khác nhau có trong truyện, gồm: mối quan hệ vợ chồng, mối quan hệ với mẹ chồng, mối quan hệ với con trai.
1. Nhân vật Vũ Nương trong mối quan hệ với chồng: Đối với Trương Sinh là một người vợ thủy chung, dành tình yêu thương rất mực cho chồng
Trong cuộc sống vợ chồng:
– Vũ Nương hiểu rằng chồng mình “có tính đa nghi”, “đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Vì vậy, nàng rất khéo léo trong cách cư xử, luôn giữ chừng mực, giữ gìn mực thước để tránh vợ chồng thất hòa.
=> Có thể thấy, trong hôn nhân, Vũ Nương là một người phụ nữ có đủ tiết hạnh, sự nết na, khôn khéo và đặc biệt hiểu tâm lý chồng. Mặt khác, sự đối lập trong tính cách của Vũ Nương và Trương Sinh từ đầu đã dự đoán tranh chấp giữa hai người trong cuộc sống sau này.
Khi tiễn biệt chồng đi lính:
Tính cách nhân vật Vũ Nương trong thời khắc này được thể hiện rõ qua những lời dặn dò thiết tha tình nghĩa mà nàng dành cho Trương Sinh:
– “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Câu nói thể hiện rằng, Vũ Nương luôn đặt hạnh phúc gia đình lên trên tất cả. Nàng không phải người ham những thứ vinh hoa phù phiếm mà chỉ mong có một cuộc sống bình yên cùng chồng.
– “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao”. Lời dặn cho thấy, Vũ Nương thông cảm cho nỗi vất vả, gian lao phía trước mà chồng sẽ phải chịu đựng ở nơi chiến trường xa xôi
– “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trồng liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình”. Câu nói thể hiện tâm trạng khắc khoải, xa nhớ chồng mà nàng sắp phải trải qua
=> Có thể thấy, qua những lời dặn mà Vũ Nương nói với Trương Sinh trước khi ra trận đã thể hiện nàng là một người vợ thương chồng rất mực, không màng vật chất, một người phụ nữ đáng trân trọng.
Trong thời gian chồng đi lính:
– Trong thời gian xa chồng, Vũ Nương đã bộc lộ bản thân là một người vợ thủy chung, dành tình yêu thương rất mực cho chồng. Nàng nhớ chồng tới nỗi “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” là nàng lại cảm thấy thổn thức tâm tình, thương nhớ da diết.
– Trong nỗi nhớ khôn nguôi ấy, nàng đã cùng con trai tưởng tượng cái bóng trên tường chình là hình ảnh người chồng, người cha của gia đình. nhịn nhường như nàng đang mơ về một tương lai bình yên bên chồng và con trai, mơ về một ngày gia đình sum họp
– Sau nhiều năm một mình nuôi con, Vũ Nương vẫn giữ được tiết hạnh. Điều này được khẳng định trong câu nói trong buổi thanh minh: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”
=> Có thể thấy, lời văn trình bày của Nguyễn Dữ, cùng với đó là tâm trạng thương nhớ, đau buồn của Vũ Nương đã thay cho lời ngợi ca tấm lòng son sắc, một lòng một dạ thủy chung của nàng
Khi bị chồng nghi oan thất tiết:
Vũ Nương đã nỗ lực phân trần với hy vọng Trương Sinh có thể hiểu rõ tấm lòng thủy chung, trinh trắng của mình. Diễn biến lời phân trần của nàng được biểu hiện như sau:
– Ban đầu, nàng đã nhắc tới thân phận “con kẻ”, để lấy được tấm chồng giàu là điều không thể: “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Vậy nên khi lên duyên vợ chồng với Trương Sinh, nàng đã xác định sẽ sống một thế cuộc bình yên, hạnh phúc bên gia đình nhỏ
– Sau đó, để khẳng định tấm lòng chung thủy, son sắt, trong trắng và vẹn nguyên của mình, Vũ Nương đã bộc bạch rằng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”. tức là trong 3 năm xa chồng, tuy đơn chiếc nhưng chưa bao giờ nàng nghĩ tới việc lừa dối chồng, vẫn một lòng một dạ với lời hứa trước khi xa chàng.
– Cuối cùng, Vũ Nương cầu xin chồng lắng tai lời thổ lộ của mình để ngừng nghi oan và hiểu lầm: “Dám xin thổ lộ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”.
=> Khi bị chồng nghi ngờ, Vũ Nương đã hết sức nhún nhường, tha thiết mong được hàn gắn hạnh phúc gia đình. Thông qua những lời bộc bạch tha thiết đó, có thể thấy, Vũ Nương vô cùng trân trọng chồng mình và gia đình nhà chồng, luôn đặt hạnh phúc gia đình lên hàng đầu.
Khi không thể thuyết phục được Trương Sinh, Vũ Nương trở nên mất hy vọng, sự đớn đau và thất vọng thể hiện qua những chi tiết trình bày:
– Trước kia, hạnh phúc gia đình chính là “thú vui nghi gia, nghi thất” của Vũ Nương. Nhưng sau khi bị chồng nghi oan và không tin tưởng, những niềm vui, ước mong về cuộc sống yên bình hạnh phúc cả đời đã tan vỡ.
– Những hình ảnh ước lệ trong câu văn: “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió” thể hiện tình yêu của thế cuộc nàng giờ đây đã lụi tàn, không thể hàn gắn
– thảm kịch của Vũ Nương khiến nàng thậm chí không thể có được nỗi đau chờ chồng của “cổ nhân”: “đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”
=> Sau bao nỗ lực, quyết tâm thì tình yêu, hạnh phúc gia đình giờ đã không còn ý nghĩa. Vũ Nương mất đi động lực sống và tồn tại lâu nay nay của mình.
Nàng bị cự tuyệt quyền yêu, quyền được hạnh phúc, nàng nhịn nhường như đã bị cự tuyệt quyền tồn tại, không còn lý do nào để tiếp tục sống nữa.
– Vũ Nương tới bến Hoàng Giang với mong muốn giải tỏa nỗi lòng mình, những lời nàng chỉ mong được chồng thấu hiểu. Nàng thề rằng bản thân vẫn còn trinh trắng, sống không thẹn với lương tâm, chết không thẹn với trời đất: “Thiếp nếu như đoan trang giữ tiết, trinh trắng gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược hài lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho tôm cá, trên xin làm cơm cho diều quạ”
Vũ Nương tìm tới cái chết sau tất cả sự quyết tâm phân trần với chồng nhưng không thành
=> Để bảo vệ phẩm giá cũng như chứng minh cho sự trong sạch của mình, Vũ Nương quyết định trẫm mình tự vẫn. Đối với nàng – một người con gái thủy chung, tiết hạnh và giàu đức hi sinh ấy, phẩm giá quan trọng hơn sự sống.
2. Nhân vật Vũ Nương trong Thời gian sống dưới thủy cung:
Ở chốn cung nước, nàng vẫn một lòng hướng về chồng con, hướng về gia đình nhỏ, tuy đã gieo mình xuống sông tự vẫn nhưng thực chất vẫn thèm khát giấc mơ sum họp. Biểu hiện rõ nhất qua lần nàng gặp Phan Lang – một người cùng làng:
– Khi nghe Phan Lang kể về chuyện gia đình nơi trần thế, nàng không kìm được lòng mà ứa nước mắt xót thương
– thèm khát lớn nhất của nàng là được trả lại phẩm giá, danh dự. Vì vậy, nàng gửi chiếc xoa vàng cho Phan Lang, nhờ anh nhắn tới chồng để lập đàn tẩy oan cho mình
– Mặc dù rất thương nhớ chồng con, mong muốn gia đình sum họp nhưng Vũ Nương quyết ở lại thủy cung, cùng sống chết bên Linh Phi. Điều này minh chứng nàng rõ ràng cho việc là một người trọng tình, trọng nghĩa, cho dù có chết cũng không bao giờ lừa dối bất kỳ người nào.
=> Với vai trò là một người vợ, Vũ Nương là một người phụ nữ chung thủy, mẫu mực, lí tưởng trong xã hội phong kiến. Trong trái tim của người phụ nữ ấy chỉ có tình yêu, lòng bao dung và sự vị tha.
3. Nhân vật Vũ Nương quan hệ với mẹ chồng trong Chuyện người con gái Nam Xương: Nàng thể hiện hình ảnh người con dâu hiếu thảo
– Kể từ ngày chồng đi vắng, Vũ Nương không những đã thay chồng làm tròn trách nhiệm của người con, mà còn phụ trách công việc của người trụ cột trong gia đình. Khi mẹ chồng ốm đau, nàng cũng rất mực săn sóc: “hết sức thuốc thang lễ bái thần phật”. Thấy mẹ già phải xa con trai, nàng “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên nhủ” để mẹ bớt lo lắng.
– Tuy không chung máu mủ ruột thịt nhưng mẹ chồng mất, Vũ Nương thương xót vô cùng. Nàng tính liệu ma chay vẹn toàn như cha mẹ ruột của mình
– Nhận thấy tình cảm con dâu dành cho nhà chồng, trước khi mất, mẹ chồng đã nhắn nhủ “Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Lời trăng trối của bà mẹ là minh chứng cho lòng hiếu thảo và tình cảm chân tình mà Vũ Nương đã dành cho gia đình nhà chồng. từ đó thấy được công lao to lớn và sự trân trọng của Vũ Nương đối với gia đình.
4. Nhân vật Vũ Nương trong mối quan hệ với con trai: Nàng dành trọn tình cảm cho con và yêu thương con tận tình
– Dù thiếu vắng Trương Sinh, Vũ Nương vẫn quyết tâm một mình sinh con. Hơn nữa, nàng còn dành nhiều thời gian để nuôi nấng và dạy dỗ con lớn khôn.
– Vì phải xa chồng ngay lúc sắp hạ sinh, Vũ Nương sau đó không chỉ mang trọng trách của một người mẹ, mà còn phải gánh trọng trách của cả người cha. Làm sao để con trai luôn cảm thấy hình ảnh một người cha yêu thương con rất mực luôn kế bên, để con luôn sống với tình cảm gia đình đủ đầy, đầm ấm.
– Là một người mẹ tâm lý, sợ con lớn lên thiếu thốn tình cảm từ cha, nàng sớm đã vẽ lên trước mắt người con về một mái ấm gia đình xuất sắc với cả cha và mẹ. Để làm được điều đó, nàng chỉ vào cái bóng của mình trên vách vào buổi đêm mà bảo đó là cha của Đản.

=> Tóm lại, Vũ Nương trong cả 3 mối quan hệ với gia đình là chồng, mẹ chồng và con trai đều hết sức tận tụy và vẹn toàn. Nàng hoàn thành tốt trọng trách của một người vợ. Nàng là một người con dâu hiền lành và hiếu thảo. Với vai trò là người mẹ, nàng luôn dành những gì tốt đẹp nhất cho con của mình. Qua những công lao đó, đáng lẽ nàng phải thừa hưởng một cuộc sống hạnh phúc viên mãn. Thế nhưng, đau lòng thay, cánh cửa hạnh phúc đã đóng lại với số phận của nàng.
tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới cái chết của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương
a. Nguyên nhân trực tiếp
– Chiếc bóng mà con trai tưởng tượng là cha trên vách. Do trước đó, Vũ Nương đã chỉ vào chiếc bóng trên vách và bảo đó là cha Đản khiến bé Đản vô tình tin rằng đó là cha mình. Cho tới khi Trương Sinh trở về, Đản đã không trông thấy và vô tình khiến mẹ bị oan.
b. Nguyên nhân gián tiếp
– Hôn nhân không tương xứng và sự đối lập trong tính cách: Vũ Nương vốn là “con kẻ khó” nhưng lại được hỏi cưới bằng “trăm lạng vàng”. Sự đối lập gia đạo cùng với tính “đa nghi” của Trương Sinh là tiền đề dẫn tới những hành động gia trưởng với Vũ Nương.
– Trương Sinh không có sự tin tưởng và tình thương dành đối với vợ của mình
– Lễ giáo phong kiến quá khắc nghiệt: Chế độ nam quyền đã khiến cho người đàn ông tùy tiện thể hiện thói độc đoán, gia trưởng, áp đặt thành kiến lên người phụ nữ.
– Chiến tranh phong kiến khiến Vũ Nương phải xa vắng chồng, con xa vắng cha. Sự xa vắng như ngọn lửa âm ỉ chỉ trực thời cơ bùng lên, tàn phá hạnh phúc gia đình, phá hỏng thế cuộc của một người phụ nữ.
Một vài chi tiết đặc sắc trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
a. những chi tiết kì ảo trong tác phẩm
– Khi Phan Lang nằm ngủ mơ thấy người con gái áo xanh tới xin tha mạng. Ngay sáng ngày hôm sau đã được người phường chài đem biếu con rùa mai xanh. Nhớ lại giấc mơ, Phan Lang liền thả rùa đi.
– Phan Lang bị chết trôi. Tuy nhiên, vì có công nên được cứu sống bởi Linh Phi. Sau đó gặp Vũ Nương (người cùng làng) dưới thủy cung. Về sau được rẽ nước đưa về trần gian
– Trương Sinh lập đàn tẩy oan cho vợ tại bến Hoàng Giang nơi Vũ Nương tự vẫn. Vũ Nương về, loáng thoáng xuất hiện giữa dòng, biến mất sau khi nói lời từ biệt.
b. Ý nghĩa những chi tiết đặc sắc
– Thể hiện tính chất của thể loại truyền kì
– Tạo sự li kì, hấp dẫn cho câu chuyện và kích thích người đọc tưởng tượng
– Giúp tăng thêm trị giá hiện thực và tính nhân văn của tác phẩm
– Thể hiện mong muốn của con người về sự bất tử, cái thiện, cái đẹp luôn thắng
– Thể hiện thèm khát một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những phụ nữ trong xã hội cũ
– Giúp hoàn thiện vẻ đẹp tính cách của nhân vật Vũ Nương: cho dù ở một toàn cầu khác, nàng vẫn luôn hướng về gia đình và khát khao được tẩy oan
trị giá hiện thực và trị giá nhân đạo rút ra sau tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
a. trị giá hiện thực
– Phản ánh trung thực số phận xấu số, chông chênh của người phụ nữ trong chế độ phong kiến
– Lên án xã hội phong kiến đương thời với đầy những bất công: tạo điều kiện cho chế độ nam quyền khiến người phụ nữ nổi tiếng nói, không thể bảo vệ phẩm giá của chính mình
– Lên án chiến tranh phong kiến khiến gia đình ly biệt, đời sống người dân rơi vào bế tắc, cùng cực
b. trị giá nhân đạo
– Trân quý và tôn trọng vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ
– Bộc lộ niềm tin vào tương lai tốt đẹp: gửi gắm những niềm tin nghìn đời của nhân dân ta vào giáo trị nhân văn “ở hiền thì gặp lành”
– Tác phẩm thể hiện sự thông cảm, xót xa của tác giả đối với người phụ nữ trong xã hội phong kiến
– Là lời tố cáo chế độ độ phong kiến khắc nghiệt cùng chế độ nam quyền, thứ đã thúc ép người phụ nữ tới đường cùng và khiến nhiều gia đình tan vỡ.
Tổng kết chung tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương Ngữ Văn 9
1. Về nội dung
– “Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm giàu ý nghĩa, trong đó rõ ràng nhất là niềm cảm thương sâu sắc trước số phận đáng thương của người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ phong kiến. từ đó làm vượt trội những vẻ đẹp phẩm chất quý báu của họ.
– Tác phẩm còn được xem như một thông điệp tới tương lai: phụ nữ cần có quyền đồng đẳng để phát huy phẩm chất và năng lực tốt đẹp của mình. Có tương tự thì xã hội mới tiến tới văn minh, tiến bộ
2. Về nghệ thuật
– Tác phẩm sở hữu tình huống truyện mới lạ, độc đáo: cao trào nằm ở sự ngộ nhận thơ ngây ở lời nói của bé Đản. Trong đó, hình ảnh cái bóng chính là điểm mấu chốt của tình huống truyện. Từ đó, mạch truyện được thắt nút, mở nút đầy hấp dẫn, kích thích sự tò mò của người đọc.
– Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: tác giả đã dẫn dắt tình huống rất hợp lý khi để lời thoại của nhân vật đan xen với lời kể của tác giả. Đặc biệt, điểm nhấn nghệ thuật thể hiện qua sự phối hợp hài hòa giữa yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo.
– phối hợp hài hòa những phương thức biểu thị: tự sự, biểu cảm giúp tác phẩm trở nên bớt khô khan hơn mà vẫn mang lại xúc cảm cho người đọc
Trên đây là toàn bộ nội dung tìm hiểu tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của tác giả Nguyễn Dữ. Hy vọng với phần tìm hiểu trên đã giúp những bạn học sinh hiểu sâu hơn về tác phẩm, nắm vững tri thức để chuẩn bị cho những kỳ thi học kỳ thi!
những bài văn mẫu tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 1
Nguyễn Dữ là 1 khuân mặt tiêu biểu tiêu biểu cho nền văn học trung đại Việt Nam ở thế kỉ thứ XVI. mặc dầu, sự nghiệp sáng tác văn học của Nguyễn Dữ chỉ vẻn vẹn có tập truyện “Truyền kì mạn lục” mà tập truyện lại có 1 địa điểm đặc thù, được bình lựa chọn là “thiên cổ kì bút” (bút lạ nghìn đời), “là áng văn hay của bậc đại gia”. Đây là tập truyện viết bằng chữ Hán, khai thác những truyện cổ dân gian và những truyền thuyết lịch sử, dã sử Việt Nam.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ 16, trong tổng số 20 truyện của “Truyền kì mạn lục”. Thông qua thảm kịch Vũ Nương, truyện trình bày niềm thương cảm đối với số mệnh oan trái của người nữ giới Việt Nam dưới cơ chế phong kiến, cùng lúc khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là 1 áng văn lạ mắt, ghi lại sự thành công về nghệ thuật dựng truyện; khắc họa mô tả đối tượng và sự liên kết giữa tự sự với trữ tình, giữa nhân tố hiện thực và huyền ảo.
Trước hết, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã khắc họa thành công vẻ đẹp truyền thống và số mệnh oan trái của người nữ giới đương thời. Điều này được trình bày qua nghệ thuật dựng truyện và xây dựng hình tượng đối tượng Vũ Nương. Vũ Nương là 1 người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện cho vẻ đẹp của người nữ giới thời gian phong kiến: “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”.
Trương Sinh vì cảm mến cái dung hạnh đó nên đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về làm vợ. Sau đó, nhà văn tập hợp làm nổi trội vẻ đẹp tiết hạnh của nàng, bằng việc đặt Vũ Nương vào rất nhiều tình cảnh, cảnh huống và những mối quan hệ bao quanh như với chồng, với mẹ chồng và với đứa đàn ông tên là Đản, từ đó góp phần biểu lộ toàn vẹn tính cách, phẩm hạnh của nàng.
Trước tiên là Vũ Nương trong mối quan hệ với người chồng – Trương Sinh. Nàng hiện lên là 1 người vợ nhất định chung tình, mến thương chồng thiết tha. Trong cuộc sống vợ chồng phổ biến, lúc mới lấy nhau, nàng hiểu tính chồng có thói đa nghi, thường dự phòng vợ quá mức nên Vũ Nương đã cư xử khôn khéo, đúng đắn, nhịn nhường và giữ đúng mực thước, ko bao giờ để xảy ra nỗi bất hòa trong gia đình.
Vì vậy, chúng ta có thể thấy, nàng là người nữ giới hiểu chồng, biết mình và rất tiết hạnh. Khi người chồng sẵn sàng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy và dặn dò Trương Sinh bằng những lời nói đầy tình nghĩa, đằm thắm. Nàng ko mong vinh hiển, chỉ cần chồng mang về 2 chữ “bình an”. Ở nhà, Vũ Nương thương nhớ chồng da diết. Mỗi lần thấy “bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” nàng lại cảm thấy “thổn thức tâm tư”, thương nhớ chồng nơi biên cửa ải xã xôi.
Tiết hạnh của nàng còn được khẳng định lúc nàng bị chồng nghi oan: “xa vắng 3 5, giữ trọn 1 tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót…”. Khi Trương Sinh đi lính trở về, 1 mực một mực nghĩ rằng nàng thất tiết, Vũ Nương đã ra sức phân bua để cho chồng hiểu, nói lên thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê và khẳng định 1 lòng nhất định chung tình, son sắt với chồng.
Thậm chí, nàng còn cầu xin chồng “đừng nghi oan cho thiếp”. Có tức là Vũ Nương đang ra sức giữ giàng, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ vỡ vạc. Điều đó cho thấy nàng thực thụ rất trân trọng hạnh phúc gia đình nhưng mà mình đang có và càng làm nổi trội lên niềm khát khát hướng tới hạnh phúc gia đình yên ấm của người nữ giới Vũ Nương.Tiếp tới, Vũ Nương trong mối quan hệ với mẹ chồng và nhỏ Đản. Nàng hiện lên là 1 người con hiếu thảo, 1 người mẹ rất mực tâm lí, mến thương con cái.
Chồng đi lính, ở nhà, nàng 1 mình sinh con, nuôi dạy con, vừa vào vai trò là 1 người mẹ, lại vừa vào vai trò là 1 người cha. Nàng sợ con mình thiếu thốn tình cảm của người cha nên đêm đêm thường mượn bóng mình, chỉ vào tường nhưng mà bảo là cha Đản. Nàng thay chồng làm tròn trách nhiệm, phận sự của 1 người con hiền, dâu thảo: trông nom, thuốc thang, lễ bái thần Phật, hết dạ khuyên nhủ mẹ chồng.
Tới lúc mẹ chồng mất, nàng tổ chức hậu sự tế lễ tỷ mỉ như với bác bỏ mẹ đẻ của mình vậy. Vì vậy, bà mẹ chồng đã viện cả trời xanh để chứng minh cho lòng hiếu thảo của cô con dâu: “Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Điều đó đã cho thấy tư cách xuất sắc và công huân mập mập của Vũ Nương đối với gia đình nhà chồng này.
tương tự, 1 người nữ giới đẹp người, đẹp nết đảm đang, hiếu thảo, nhất định chung tình và hết dạ vun đắp, trân trọng hạnh phúc gia đình như thế, đáng đúng ra phải thừa hưởng hạnh phúc toàn vẹn, tìm được 1 người chồng tâm lí, thông cảm và sẻ chia những nỗi toan lo cho vợ, mà thật trái ngang và nghịch lí thay, nàng lại phải chịu 1 cuộc sống gia đình xấu số và phải chết trong đớn đau, xót xa, đầy nước mắt.
đó là lúc Trương Sinh sau 3 5 đi lính trở về, nhỏ Đản ko chịu nhận cha, nghe lời nói của con “Trước đây, thường có 1 người con trai, đêm nào cũng tới, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, những chẳng bao giờ bế Đản cả”, Trương Sinh nhất nhất nghĩ rằng “vợ hư”. mặc dầu Vũ Nương đã tìm cách để giảng giải lại thêm họ hàng, thôn ấp bênh vực và biện bạch cho nàng mà mối nghi ngại vợ của Trương Sinh ngày càng sâu, ko có gì gỡ ra được.
Cuối cùng “cái niềm vui nghi gia nghi thất” đã ko còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau chờ chồng tới hóa đá cũng ko còn có thể được nữa “đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Nàng đã trẫm mình xuống dòng nước Hoàng Giang lạnh lẽo. đó là hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, phẩm chất trong 1 nỗi đau thất vọng cùng cực, đớn đau.
Vậy đâu là nguyên cớ dẫn tới cái chết oan trái của Vũ Nương. đó trước nhất là do cụ thể cái bóng và những lời nói thơ ngây của nhỏ Đản. Nhưng nguyên cớ sâu sa đằng sau đó là từ người chồng đa nghi, thô bạo. Ngay từ đầu truyện, nhà văn đã giới thiệu Trương Sinh là ” con nhà hào phú mà ko có học”, lại có tính đa nghi, đối với vợ thì hay phòng ngừa quá mức, thiếu cả lòng tin và tình thương với người tay ấp má kề với mình.
đó chính là mầm mống của thảm kịch để rồi trong tình cảnh đi lính 3 5 xa nhà, xa vợ, thói ghen tuông tuông, ích kỉ của bản thân chàng nổi lên và làm thịt chết người vợ của mình. Cùng lúc, cơ chế phong kiến khắc nghiệt, nam quyền độc đoán đã dung túng cho thói gia trưởng của người con trai, cho phép người con trai có thể đối xử bạc nghĩa với người nữ giới của mình.
Và người nữ giới ko có quyền được lên tiếng, ko có quyền tự bảo vệ ngay cả lúc có “họ hàng, thôn ấp bênh vực và biện bạch cho”…Tất cả đã đẩy Vũ Nương – người nữ giới đẹp đương thời vào trục đường thảm kịch, phá tan đi những hạnh phúc gia đình của người nữ giới, dồn đẩy họ vào trục đường cùng ko lối thoát.
Cũng cần nói thêm, sự thành công của “Chuyện người con gái Nam Xương” còn được trình bày ở chỗ, Nguyễn Dữ đã khôn khéo dẫn dắt câu chuyện trên cơ sở tình tiết có sẵn, ông đã sắp xếp lại, tô đậm, thêm bớt khiến cho câu chuyện trở thành sinh động, mang tính kịch và tăng nhanh tính thảm kịch. Có thể nói, dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã có sự thành công vượt trội so với bản kể dân gian “Vợ chàng Trường”.
Điều này được trình bày qua cụ thể chiếc bóng và lời nói của nhỏ Đản. Từ đó, hình thành sự thắt nút và mở nút của câu chuyện, làm câu chuyện trở thành quyến rũ, cốt truyện hấp dẫn, chặt chẽ. Trước tiên là “thắt nút” câu chuyện: chỉ 1 câu nói thơ ngây của 1 đứa trẻ lên 3 nói với cha nhưng mà như 1 cơn bão dây chuyền, đã hình thành biết bao lăm là giống lốc thế cuộc, lật nhào hết tất cả mọi sự bình an thuở trước.
Để rồi, trong 1 chốc nóng giận, thói nghi kị trong lòng người con trai độc đoán, chuyên quyền đã phá tan đi hạnh phúc trạch êm nhưng mà mình đang có; đẩy thế cuộc của người nữ giới đẹp người, đẹp nết vào cái chết thương tâm, thấm đẫm nước mắt. Và cũng thật bất thần thay, câu chuyện lại được “gỡ nút” bằng 1 câu nói thơ ấu non dại. Khi thấy cái bóng của Trương Sinh in trên vách, nhỏ Đản liền nói: “Cha Đản lại tới kia kìa!” thì bao lăm oan khúc lại được lật nhào sáng tỏ. Vũ Nương không có tội!.
Kế bên đó, truyện còn thành công trong việc sử dụng nghệ thuật hội thoại, lời tự bạch của đối tượng được sắp xếp đúng chỗ, khiến cho câu chuyện trở thành sinh động, góp phần khắc họa diễn biến tâm lí và tính cách đối tượng: lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân đức, từng trải; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân tình, dịu dàng, mềm mỏng, hợp lí, có tình – lời của người nữ giới hiền thục, đoan trinh; lời của Nhỏ Đản hồn nhiên, thơ ngây, thiệt thà.
Cuối truyện, Vũ Nương hiện về nhấp nhoáng trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, võng lọng, cờ kiệu đặc sắc đầy sông, nàng nói lời đa tạ Linh Phi và tạ từ Trương Sinh rồi mất tích. Đây là những cụ thể, hình ảnh trình bày sự thông minh của Nguyễn Dữ về mặt kết cấu truyện bằng việc sử dụng nhân tố huyền ảo, hoang đường, góp phần ngày càng tăng trị giá hiện thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, làm nên đặc biệt của thể loại truyền kì.
Giả dụ trong truyện kể dân gian, sau lúc Vũ Nương chết, Trương Sinh giác ngộ, nhìn thấy sai trái của mình thì cũng là khi truyện cổ tích khép lại, điều đó đã để lại niềm xót xa đớn đau cho người đọc về thân phận xấu số oan khiên của người nữ giới tiết hạnh, thì trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, ông đã thông minh thêm phần đuôi của truyện, góp phần làm lên những trị giá thẩm mĩ và tư tưởng mới của truyện.
đó là làm hoàn thiện thêm nét đẹp tính cách, phẩm giá của đối tượng và chứng tỏ được Vũ Nương trong sạch. Ở toàn cầu bên kia, nàng được đối xử xứng đáng với phẩm chất của mình. Vì vậy, Nguyễn Dữ đã khắc phục được ước mong của con người về sự bất diệt, sự thắng lợi của cái thiện, cái đẹp, trình bày nỗi thèm khát hạnh phúc trong 1 cuộc sống công bình, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc thù là người nữ giới đương thời.
Tóm lại, “Truyền kì mạn lục” khái quát và “Chuyện người con gái Nam Xương” nói riêng của Nguyễn Dữ là 1 tác phẩm lạ mắt, ghi lại 1 bước tăng trưởng đột khởi của nền văn xuôi tự sự chữ Hán trong nền văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm đã đạt được thành tích nghệ thuật nổi trội trên 3 phương diện: xây dựng cốt truyện, kết cấu; xây dựng đối tượng; sự liên kết giữa nhân tố hiện thực và nhân tố huyền ảo.
Thông qua thế cuộc và số mệnh xấu số của Vũ Nương, tác giả đã phản ảnh số mệnh bi thảm của người nữ giới phong kiến, ca tụng những phẩm giá tốt đẹp của họ. Cùng lúc, trình bày thái độ phê phán đối với 1 xã hội phi nhân đã gây ra biết bao khổ cực cho con người. mặc dầu truyện cũng cách xa chúng ta vài thế kỉ rồi mà tính thời sự của truyện vẫn còn văng vẳng tới ngày bữa nay!
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 2
Truyền kỳ mạn lục là 1 tác phẩm có trị giá của văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, 1 tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán trước hết ở Việt Nam. Truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” là 1 truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
Truyện kể về 1 người nữ giới tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Vốn là 1 người vợ đoan trinh, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, phục dịch mẹ chồng, trông nom con thơ trong suốt thời kì chồng đi lính ở phương xa. Khi trở về vì nghe lời thơ ngây của trẻ nhỏ, người chồng nghi ngại nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi.
Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang. Cảm động vì lòng thiệt thà của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất ăn năn, lập đàn tẩy oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong giây khắc rồi quay về Long Cung.
Chuyện truyền tụng 1 người nữ giới có phẩm giá, có tâm hồn trong trắng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì 1 chuyện ghen tuông tuông vớ vẩn của người chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm tới cái chết để giải nỗi oan tình.
Tác giả đặt đối tượng Vũ Nương vào những tình cảnh không giống nhau, qua đó biểu lộ những phẩm giá tốt đẹp của người nữ giới. Vũ Nương vốn là người con gái có tư dung tốt đẹp, tính tình thùy mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ giàng mực thước, ko để vợ chồng phải thất hòa dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen tuông. Khi chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm mến thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bộc bạch nỗi lo lắng trước những gian lao nguy ngập nhưng mà người chồng sẽ trải qua, niềm ước mong được đoàn viên … làm mọi người trong tiệc đều ứa 2 hàng lệ.
Chồng đi đánh giặc ngoài biên cửa ải, nàng 1 lòng son sắt, chung tình, “xa vắng 3 5, giữ giàng 1 tiết”, mong chờ chồng về trong đơn thân mòn mỏi “mỗi lúc thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là 1 người con dâu hiếu kính, tận tụy trông nom lúc mẹ chồng còn sống, mai táng mẹ chồng lúc mẹ tạ thế (tính liệu như đối với mẹ đẻ mình).
Rồi đằng đẵng thời kì trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là khi nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân bua để chồng thông suốt tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó … mong chàng đừng 1 mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã đề cập thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết dạ tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị vỡ vạc. Dù họ hàng, thôn ấp có bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn ko tin.
Cực chẳng đã Vũ Nương thống thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng … đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. đó là hạnh phúc gia đình, niềm khát khao của cả đời nàng giờ đây vỡ vạc. Tình yêu ko còn, cả nỗi âu sầu chờ chồng giờ đây hoá đá….
vô vọng vì phải gành chịu nỗi oan khúc tày trời ko phương thổ lộ, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong trắng của mình. lời khấn nguyện với thần linh hết sức thảm thiết: “Thiếp nếu như đoan trang giữ tiết, trinh trắng gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ.
Nhược chấp thuận chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ …” lời khấn nguyện đã khiến cho người đọc xót xa – con người rơi hoàn cảnh vô vọng, không thể tiếp tục sống để tự tẩy oan tình nhưng mà phải tìm tới cái chết để thần linh chứng dám.
Sau 1 5 ở thủy cung, lúc nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ tới câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng nước cho thỏa lòng nhớ chồng, con. Qua những tình cảnh không giống nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người nữ giới Việt Nam – 1 người nữ giới đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết dạ vun vén hạnh phúc gia đình, …. đúng ra phải được hạnh phúc toàn vẹn thế nhưng mà phải chết 1 cách oan uổng, đớn đau.
Cái chết của Vũ Nương có rất nhiều nguyên cớ sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với cơ chế “nam quyền”, coi rẻ thân phận của người nữ giới, rồi tính đa nghi, ghen tuông tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm khổ cực bao thế cuộc những người nữ giới.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần ko đồng đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Sinh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những cụ thể này sẵn sàng cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang 1 tâm trạng nặng nề: mẹ tạ thế, con vừa học nói, lòng buồn phiền. Trong tình cảnh như thế, lời của Nhỏ Đản dễ kích động tính hay ghen tuông của Trương Sinh: “trước đây, thường có 1 người con trai đêm nào cũng tới…”
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh lúc đó. Không đủ tĩnh tâm để mày mò vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân bua của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, thôn ấp, ko chịu nói ra duyên do ghen tuông hờn. Cuối cùng, Sinh lại nhiếc mắng nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương Sinh vô tưởng tượng dẫn tới cái chết oan trái của Vũ Nương.
Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ảnh 1 thực trạng về thân phận người nữ giới trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt trong phạm vi khe khắt của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều khổ cực, xấu số. đó cũng chính là trị giá khiếu nại hiện thực của tác phẩm.
Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam Xương, còn bao lăm oan tình xấu số nhưng mà người nữ giới ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, người cung nhân trong “cung ân oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, người nữ giới lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương,…
Phcửa ải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn trước hết viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những đoạn hội thoại. Cách kể chuyện quyến rũ, xây dựng cốt truyện, thắt nút và gỡ nút thật bất thần, đầy kịch tính, càng khiến cho nỗi oan tình của đối tượng xuất hiện với tất cả nét thảm khốc.
“Thắt nút” truyện bằng nhân tố bất thần. 1 câu nói thơ ngây nghe như thật của thơ ấu nhưng mà gây bão tố dây chuyền trong thế cuộc. Bão tố nghi kị trong 1 đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí não; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của 1 gia đình ấm êm. Bão tố oan khiến phá nát thế cuộc của 1 người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thương trên 1 dòng sông.
“Gỡ nút” cũng bất thần bằng 1 câu nói thơ ấu non dại (lúc chỉ cái bóng của chàng Trương trên vách: “cha Đản lại tới kia kìa”) thì bao lăm oan gây thảm kịch trong khoảnh khắc bỗng được sáng tỏ. Truyện có những đoạn hội thoại và những lời tâm tư của đối tượng được sắp xếp đúng chỗ, khiến cho câu chuyện trở thành sinh động, góp phần khắc họa diễn biến tâm lí và tính cách đối tượng; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân đức, từng trải; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân tình, dịu dàng, mềm mỏng, hợp lí, có tình – lời của người nữ giới hiền thục, đoan trinh; lời của Nhỏ Đản hồn nhiên, thơ ngây, thiệt thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương Sinh giác ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương mà Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về trần giới, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những trị giá tư tưởng và thẩm mĩ mới.
Điều đó, làm ngày càng tăng sức quyến rũ của truyện và hoàn chỉnh tính cách đối tượng Vũ Nương, ước mong của quần chúng là “ở hiền gặp lành”, người tốt sẽ được bồi thường. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những nhân tố truyền kì tập hợp ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thủy Cung, rồi hiện về với kiệu hoa đặc sắc trên sông… đó là những cốt truyện huyền ảo, ko có thực mà đã tạo ra 1 toàn cầu nghệ thuật lung linh huyền ảo.
số phận và thế cuộc thực thụ vẫn là thực lâu nay. Nhân tố hoang đường truyền kì không thể cứu được thế cuộc Vũ Nương với số mệnh bi thương của nàng. Vũ Nương muốn sống lại nhưng mà ko được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương nhưng mà không thể trở về được.
Truyện “Người con gái Nam Xương” có trị giá hiện thực khiếu nại và ý nghĩa nhân đạo thâm thúy. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người nữ giới khác trong xã hội phong kiến được phản ảnh trong những tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ trị giá cuộc sống của những người nữ giới Việt Nam trong 1 xã hội tốt đẹp bữa nay. Họ đang vươn lên làm chủ thế cuộc, sống đồng đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao phẩm chất trong xã hội của thời đại mới.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 3
Nguyễn Dữ, 1 học sinh giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thành tài, đỗ đạt, ông ra làm quan. 1 5 sau, vì chán cảnh triều đình thối nát, ông đã lấy cớ phải nuôi mẹ già nhưng mà xin từ quan. Trong những ngày sống “cảnh điền viên vui tuế nguyệt”, ông viết “Truyền kỳ mạn lục”, 1 tác phẩm văn xuôi trước hết của văn học cổ Việt Nam gồm những truyện có những cụ thể li kì. Phần mập truyền tụng phẩm giá cao đẹp của người nữ giới Việt Nam phải sống trong khuôn mẫu “tam tòng, tứ đức” của đạo đức phong kiến, nhưng mà “Chuyện người con gái Nam Xương” là 1.
Truyện kể lại Vũ Thị Thiết vâng lời bác bỏ mẹ làm vợ Trương Sinh, 1 người kém học, quốc gia gặp cảnh binh lửa nên Trương Sinh phải ra trận. 1 tuần sau, Vũ Nương sinh con đầu lòng. 1 mình chị chăm lo mẹ chồng, lo tang ma lúc mẹ chồng chết, nuôi dạy con và lo công việc đồng áng.
Giặc tan, Trương Sinh về, nghe lời con nhưng mà nghi ngại lòng chung thuỷ của vợ. Vũ Nương ko tẩy oan được nên đành trẫm mình xuống sông. Nàng được hoàng hậu ở động Rùa tương trợ. Sau đó, nàng gặp Phan Lang, người láng giềng đã cứu hoàng hậu ở động Rùa. Phan Lang về kể lại cho Trương Sinh nghe. Trương Sinh hối lỗi lập đàn cầu xin theo lời của nàng. Nàng hiện lên gặp chồng con mà lại trở lại sống ở động Rùa vì 2 người hầu 2 toàn cầu khác biệt.
Cũng như truyện cổ, những kho truyện của Trung Hoa có tác động nhiều tới nhà Nho đương thời (thế kỉ XVI). “Thiếu phụ Nam Xương” cũng có 2 tuyến đối tượng, có những tình cảnh tiêu biểu, có người giàu kẻ nghèo ở trong xã hội đang thời binh đao, nhiễu nhương. Nhưng dù sống trong tình cảnh nào thì người tốt vẫn không hề chỉnh sửa thực chất của mình, nhưng mà Vũ Thị Thiết là đối tượng tiêu biểu.
Vũ Nương nhà nghèo mà “tư dung tốt đẹp”, “thuỳ mị, nết na”. Thời phong kiến, con gái “tại gia tòng phụ” để có “công, dung, ngôn, hạnh”, Vũ Nương được như thế chứng tỏ nàng có nhan sắc (dung) trời cho mà “thuỳ mị, nết na” thì ắt là do sự giáo dục của gia đình.
Nàng nghèo mà ko mất nền nếp gia phong. Trái lại “Trương Sinh tuy con nhà hào phú mà ko có học”. 1 loạt những đối tượng tốt xuất thân từ những tình cảnh sống không giống nhau như mẹ chồng, người láng giềng Phan Lang, hoàng hậu động Rùa Linh Phi … đủ chứng tỏ giàu nghèo tuy có tác động tới vẻ ngoài sống mà khó chỉnh sửa được thực chất của họ.
“Nam Xương tử nữ truyện” ko chỉ giới thiệu những đối tượng tốt, xấu đó nhưng mà còn phê chuẩn họ Nguyễn Dữ muốn đề cao sự chung thuỷ và lòng bao dung luôn được đối tượng này trình bày trong từng lời đề cập từng sự việc. Vâng lời bác bỏ mẹ chịu lấy Trương Sinh làm chồng, nàng đã trước sau như 1 làm người con hiếu thảo. Không chỉ hiếu thảo với bác bỏ mẹ ruột. Vũ Nương còn hiếu thảo với mẹ chồng.
Nàng 1 mình đã toan lo đỡ đần mẹ chồng khi ốm đau, rồi mẹ chồng chết lại lo mai táng. Người nữ giới có con mọn như nàng nhưng mà vẫn kiêm toàn những công việc vất vả đó thay chồng nhưng mà ko tiếng kêu than thì quả thực là hiếm có. Mẹ chết, 1 mình ở vậy nuôi con chờ ngày chồng trở về thì bảo nàng ko chung thuỷ sao cho được?! Chồng với vợ như bóng với hình, nàng đã mượn chiếc bóng của mình để xoa dịu con, muốn đứa con nhỏ tuổi luôn nghĩ rằng mình cũng là đứa trẻ có cha.
Khi bị Trương Sinh nghi ngại, nàng đã bao lần hỏi rõ dù bị dằn vặt, chửi mắng, đánh đập. Nàng đã từng hàn ôn với chồng: “Thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu … Đâu có hư thân như lời chàng nói. Khi nhận thấy không thể nào xoá tan được mối nghi ngại nhục nhã, hạ thấp phẩm chất 1 cách oan khúc, nàng đã quyết định tự trẫm mình, mượn dòng nước trong để rửa sạch những oan khiên.
Xét cho cùng, kiên quyết bảo toàn danh dự của con người cũng là lòng chung thuỷ sắt son! Lại nữa lúc gặp được Phan Lang, người láng giềng tốt bụng ở động Rùa, Vũ Nương vẫn ko quên chồng lúc nàng hàn ôn cùng Phan Lang và nhờ Phan Lang về nói lại với Trương Sinh đề nghị của nàng, điều đó vừa trình bày sự chung thuỷ, vừa tỏ ra bao dung đối với Trương Sinh.
Cả tới Phan Lang, hoàng hậu Linh Phi cũng đều là những người có lòng bao dung, chung thuỷ. Chỉ riêng có Trương Sinh là có lòng ích kỉ, hẹp hòi, tối dạ vì thuở bé ko lo chuyện sách đèn. Chỉ cần nghĩ tới công huân của vợ khi chàng đang ở ngoài trận mạc, chỉ cần sống sắp gụi với láng giềng, chỉ cần có lòng tin vào lòng chung thuỷ của vợ thì nghi vấn xuất hành từ lời nói của con trẻ “Trước đây, thường có 1 người con trai, đêm nào cũng…” đã được thổ lộ để rồi vợ chồng lại sống trong cảnh êm ấm, thương mến.
1 nội dung khác thật rõ ràng trong chuyện là oán rành mạch. Vũ Nương là người nữ giới, có nhẽ mang đặc tính đó trong cuộc sống. Vì lẽ đó, lúc nàng ko còn đủ nhẫn nại kì vọng chồng bộc lộ đó thì nàng tự bộc lộ. Cái chết của nàng hàm chứa ý nghĩa đó, khiến cho Trương Sinh phải nhìn thấy ân tình nàng đã đem lại cho chàng và nỗi oan khiên nhưng mà nàng phải chịu.
Trường hợp giữa hoàng hậu Linh Phi và Phan Lang cũng vậy. Hoàng hậu đã được Phan Lang cứu nên lúc Phan Lang gặp nạn lúc lên thuyền ra biển tránh sự truy đuổi của quân giặc thì đã được Linh Phi hết dạ cứu chữa, lại thếp tiệc đãi, tặng thêm ngọc ngà … trước lúc tiễn chân chàng trở về làng quê.
Như thế, ngay truyện ngắn thuộc văn viết, dù là chữ Hán trong buổi sơ khai cũng đang mang tình cảnh tiêu biểu, con người tiêu biểu của đời thường vào tác phẩm; cũng có đầy đủ người giàu, kẻ nghèo, hỉ – nộ – ái – ố với kết thúc có hậu ở nội dung là ở hiền gặp lành.
Truyện có rất nhiều cụ thể mà được phối hợp bởi quan hệ nhân quả nên có kết cấu khá chặt chẽ. Khởi đầu truyện, Nguyễn Dữ đã khôn khéo giới thiệu Vũ Thị Thiết và Trương Sinh, 2 đối tượng chính có tình cảnh, tính cách trái ngược nhau để làm cơ sở cho việc khai thác đối tượng sau này. tính tình, tình cảnh sống trái ngược nhau mà lại nên vợ nên chồng chỉ vì vâng lời bác bỏ mẹ. Quan hệ nhân quả trình bày từ đầu.
Từ đó, quan hệ nhân quả của 2 đối tượng diễn ra 1 cách thiên nhiên, cân đối. Vì nước có loạn tao loạn nên chàng mới ra trận. Vì chàng vào nơi gió cát nên nàng phải nặng gánh nước nhà nhà chồng. Vì con thơ đề cập cha nên mẹ đã mượn cái bóng của mình thay thế; cho con đỡ hổ ngươi với bè bạn. Vì nghe lời trẻ nhỏ nên Trương Sinh mới nghi ngại vợ … Chuỗi nguyên cớ và kết quả đầy kịch tính đó đã dần tới đỉnh điểm là Vũ Nương quyết định trẫm mình. nếu như chuyện kết thúc ở đây thì quả là người nào oán, ko có hậu.
Có nhẽ thành ra nhưng mà những cụ thể thần kỳ được thêm vào. Đó là Phan Lang nằm mộng thấy con rùa xanh kêu cứu. Rồi Phan Lang nhớ lại và thả rùa để rồi sau đó là được rùa cứu mạng trả ân và gặp Vũ Nương ở động Rùa. Những cụ thể thần kỳ đó ở vào thời buổi nhưng mà vua quan, thần dân đều tin vào sự hiện hữu của Trời, Thần, Quỷ, Ma… giống như trong những truyện cổ thì cũng là điều ko mấy sửng sốt.
Có những cụ thể đó, Vũ Nương mới gặp được chồng để giải mối oan khiên, nhục nhã nhất của đời làm vợ. Và dù xây dựng thương hiệu sau ”Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn 3 thế kỷ, “Nam Xương tử nữ truyện” vẫn còn những câu văn biền ngẫu cổ kính.
Dù có những hạn chế đó mà truyện Người con gái Nam Xương không những có trị giá đạo lý, lịch sử (phản ảnh sự rối ren của xã hội phong kiến) nhưng mà cũng có trị giá nghệ thuật xây dựng truyện.
Cho tới nay, “Người con gái Nam Xương” vẫn còn hấp dẫn người đọc. Giữa xã hội nam nữ bình quyền thì nó là cột mốc để so sánh vai trò của người nữ giới trong văn học xưa và nay. Giữa xã hội suy đồi về đạo đức, nhất là với phụ nữ thì nội dung truyện là 1 bài học đạo đức truyền thống tốt.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 4
Nguyễn Dữ là người học rộng tài cao, ông sống chỉ cần khoảng nhà Lê khởi đầu khủng khoảng, những tập đoàn phong kiến tranh quyền, đoạt vị với nhau. Do vậy ông ra làm quan ko lâu sau đó lui về ở ẩn. Thời gian lui về ở ẩn, ông sưu tầm những truyện dân gian để sáng tác lại thành tập “Truyền kì mạn lục”. Trong số 2 mươi truyện của truyền kì mạn lục, nổi trội nhất là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Tác phẩm vừa giàu trị giá hiện thực vừa trình bày trị giá nhân đạo thâm thúy của tác giả.
Tác phẩm quay quanh số mệnh và thế cuộc đối tượng Vũ Nương. Vũ Nương là người con gái xinh xẻo: “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, nàng mang vẻ đẹp toàn diện cả về vẻ ngoài và tâm hồn. Nàng là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp của người nữ giới trong xã hội phong kiến. Chi tiết Trương Sinh “mến về dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về” càng nhấn mạnh, tô đậm hơn nữa vẻ đẹp sắc đẹp và phẩm hạnh của nàng.
Vũ Nương là người mang trong mình nhiều phẩm giá cao quý. Trước hết, nàng là 1 người vợ, người mẹ đảm đang, người con dâu hiếu thảo, tận tụy với mẹ chồng. Khi chồng đi lính, thân là nữ giới mà nàng đã 1 mình đứng ra phụ trách công việc gia đình. Mẹ chồng già yếu, nhớ con nhưng mà đổ bệnh nàng vô cùng trông nom, “thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khéo léo khuyên nhủ” mong cho mẹ mau mau khỏi bệnh.
Trong xã hội phong kiến xưa, mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu thường chỉ mang tính chất ràng buộc, tổ tông ta vẫn thường có câu: “Trời mưa ướt lá đài bi/ Con mẹ, mẹ xót, xót gì con đâu” hay “thiệt thà cũng thể lái trâu/ Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng”,… Nhưng những lời bà mẹ trăng trối rốt cuộc trước lúc mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân tình, sâu nặng của Vũ Nương với mẹ chồng.
Những lời lạy tạ của bà mẹ đã cho thấy tấm lòng mến thương rất mực của nàng với bà bởi vậy bà cũng coi Vũ Nương như con gái của mình vậy. Mấy người nào trong xã hội đó lại được lòng mẹ chồng yêu quý tới tương tự. Khi bà mất, nàng lo tang ma tỷ mỉ như cho bác bỏ mẹ đẻ của mình. Qua những hành động đó ta thấy Vũ Nương là nàng dâu vô cùng nết na, hiếu thảo, tiếng thơm của nàng còn để lại mãi muôn thuở.
Không chỉ vậy nàng còn là người vợ nết na, chung tình, giàu lòng vị tha. Khi mới cưới, Vũ Nương thông suốt chồng mình có tinh đa nghi, hay ghen tuông và hay phòng ngừa quá mức, bởi vậy nàng luôn giữ giàng mực thước, để 2 vợ chồng không hề chịu cảnh bất hòa. Chính vậy, trong suốt những 5 tháng chung sống bên nhau, trước lúc Trương Sinh ra trận gia đình nàng luôn được sống trong cảnh êm ấm, hạnh phúc.
Ngày Trương Sinh ra trận, tiễn chồng những lời dặn dò không hề công danh phú quý nhưng mà là “chỉ xin ngày về mang theo được 2 chữ bình an, thế là đủ rồi”. Ba 5 xa chồng, 1 mình sinh con, nàng nhớ chồng khôn nguôi, nàng bỏ cả trang điểm, dành tất cả thời kì trông nom gia đình, làm tròn trách nhiệm của người vợ, người mẹ. Ngay cả lúc Trương Sinh trở về nghi ngại nàng thất tiết nàng cũng chỉ biết khóc và thanh minh bằng những lời lẽ thiết tha, dịu dàng mong chồng hiểu cho tấm lòng của mình.
Khi bị chồng nghi oan, nhiếc mắng, đánh đuổi đi, ko cho thời cơ thổ lộ, giảng giải nàng chỉ âu sầu, nỗ lực thanh minh nhưng mà không hề ân oán hận với người chồng hẹp hòi, ích kỉ. Được Linh Phi cứu, sống thế cuộc thảnh thơi, bất diệt mà lòng nàng khi nào cũng hướng về quê hương, về gia đình bé bỏng của mình. Việc nàng gặp lại Phan Lang dưới thủy cung và gửi chiếc xoa về cho chồng cho thấy nàng đầy vị tha, chuẩn bị tha thứ cho chồng.
Khoảng khắc ẩn hiện, mờ ảo trên bến sông Hoàng Giang, Vũ Nương ko 1 lời ân oán hận, trách móc: “Đa tạ tình chàng. Thiếp không thể trở về dương gian được nữa”. Qua đây ta có thể thấy, Vũ Nương ko chỉ là người nữ giới tiết hạnh, người con dâu tốt nết nhưng mà còn là 1 người nữ giới bao dung, giàu lòng vị tha với người chồng đã đẩy tới bước đường cùng. Vũ Nương là hiện thân cho vẻ đẹp người nữ giới Việt Nam thảo hiền, tiết hạnh.
mặc dầu mang trong mình đầy đủ những phẩm giá tốt đẹp để thừa hưởng cuộc sống êm đềm, hạnh phúc mà thế cuộc Vũ Nương lại đầy oan trái, oái oăm. Khởi đầu ngay từ cuộc hôn nhân của nàng, ko có sự đăng đối giữa 2 gia đình, về phẩm giá giữa 2 con người: nàng tụ hội đầy đủ vẻ đẹp phẩm giá: công-dung-ngôn-hạnh, mà Trương Sinh lại là kẻ ít học, đa nghi, hay ghen tuông.
Lấy chồng ko bao lâu, Trương Sinh phải đi lính, nàng sống trong nỗi đơn thân, nặng nhọc: phụ trách việc gia đình, nuôi dạy con thơ và trông nom mẹ già; nỗi nhớ chồng, lo lắng cho chồng nơi biên cửa ải thiết tha hôm sớm. Tới lúc chồng về lại phải gánh nỗi oan lạ, oan thất tiết nhưng mà ko có dịp mày mò nguyên cớ. Cuối cùng nàng đã phải lấy cái chết để chứng minh tấm lòng chung tình, trong sạch của mình.
Đây là phản ứng dữ dội và quyết liệt của Vũ Nương để bảo vệ phẩm chất cũng như cho thấy nỗi xấu số tột đỉnh của nàng. Dù sống bất diệt dưới thủy cung mà nàng không hề hạnh phúc, bởi hạnh phúc thực thụ của con người là ở nhân gian, được chung sống, thừa hưởng ko khí êm ấm của gia đình. Nhưng điều đó đối với nàng mãi mãi không thể làm được nữa.
Thân ở thủy cung, lòng lại 1 mực hướng về thế gian, nơi có chồng, có con làm cho nỗi xấu số của nàng càng được đậm tô hơn nữa. Vũ Nương là tiêu biểu cho phận bạc của biết bao nữ giới trong xã hội phong kiến bất công, hung tàn, nặng nề lễ giáo phong kiến.
Ngoài đối tượng Vũ Nương, ta cũng không thể quên 1 Trương Sinh hồ đồ đã đẩy người đầu gối tay ấp với mình tới chỗ chết. Trương Sinh là con nhà trọc phú, ít học, tính tình cục mịch, hay ghen tuông. Cũng bởi do ít học nên lúc chiến tranh xảy ra anh ta là người trước hết trong danh sách đi lính. Cũng bởi tính đa nghi, hay ghen tuông đã khiến cho Trương Sinh mờ mắt, chỉ nghe lời từ đứa con thơ ngây ko chịu nghe lời phân bua của vợ.
Chính Trương Sinh là người đã trực tiếp đẩy Vũ Nương phải tìm tới cái chết. Khi hiểu ra mọi chuyện thì đã quá muộn màng. Trương Sinh phải ôm nỗi hối hận, nỗi đau trong suốt phần đời còn lại. Trương Sinh chính là đại diện tiêu biểu cho những người con trai vũ phu, những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt đã đẩy người nữ giới rơi vào thảm kịch.
Tác phẩm đã xây dựng được cảnh huống truyện lạ mắt, cụ thể mang tính thắt nút, đẩy câu chuyện lên cao trào, đình điểm: cái bóng là then chốt của câu chuyện, là cụ thể thắt nút cũng như cởi nút cho diễn biến tác phẩm. Nghệ thuật kể chuyện rực rỡ: dẫn dắt cảnh huống hợp lí. Liên kết hài hòa giữa hiện thực và huyền ảo. Nghệ thuật xây dựng đối tượng cũng là 1 điểm thu hút, đối tượng được mô tả nội tâm khá phong phú. Những nhân tố đó góp phần hình thành sự thành công cho tác phẩm.
Chuyện người con gái Nam Xương thấm đẫm trị giá hiện thực và nhân đạo. Tác phẩm là tiếng nói thương cảm cho số mệnh những người nữ giới trong xã hội phong kiến. Cùng lúc cũng lên án khiếu nại xã hội nam quyền và chiến tranh phi chính nghĩa đã tước đoạt hạnh phúc và đẩy con người tới bước đường cùng.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 5
Đớn đau thay phận nữ giới,
Lời rằng bạc phận cũng là lời chung.
số phận người nữ giới trong xã hội phong kiến xưa kia đúng như đánh giá của Nguyễn Du. Người nữ giới dù được sinh ra trong gia đình thuộc thành phần giai cấp nào, dù tốt đẹp nết na cũng đều cùng chung số mệnh “bạc phận” hệt nhau. số phận hẩm hiu đáng thương đó đã được những nhà văn phản ảnh lại trong tác phẩm của mình.
Có nhẽ tiêu biểu nhất là Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, 1 tác phẩm nổi danh của thế kỉ XVI (Trong tập Truyền kì mạn lục). Đây là 1 tác phẩm có trị giá thâm thúy về nhiều mặt và đã gây được xúc cảm trong lòng người đọc ở mọi lứa tuổi.
Chuyện người con gái Nam Xương là 1 tác phẩm có trị giá hiện thực thâm thúy. Xã hội thời đó là 1 xã hội binh đao, chiến tranh xảy ra miên man đã khiến cho cuộc sống của người dân thật điêu linh khốn khổ. Thành ra nhưng mà họ rất đáng ghét chiến tranh. Qua buổi tống biệt Trương Sinh ra trận, với những lời dặn dò của bà mẹ, lời hàn ôn của Vũ Nương với chồng, ta cũng thấy được thái kinh độ sợ chiến tranh của người dân khi bấy giờ.
Chính chiến tranh đã khiến cho vợ phải xa chồng, cha phải xa con… và nó còn là nguyên cớ gây ra bao nỗi xấu số cho người 1 vợ nữa. Trương Sinh đi lính, Vũ Thị Thiết ở nhà 1 mực chung tình với chồng, thay chồng phụ trách hết mọi công việc gia đình: sinh con, trông nom mẹ chồng, toan lo mọi công việc trước sau. Mẹ chồng bệnh lo thuốc thang, mẹ mất lo hậu sự, cúng tế tử tế.
Vậy nhưng mà lúc chồng trở về, nàng chưa được vui sum họp lại gặp tai họa bất thần. Bởi anh chồng thât học lại có tính đa nghi, ghen tuông tuông mù quáng chỉ nghe theo lời đứa trẻ thơ ngây ko biết xét suy đã vội nghi oan cho vợ. Chỉ vì “cái bóng” vô hình nhưng mà Vũ Nương bị mắc oan. Nỗi oan động đất trời lại không thể thổ lộ được cùng người nào. Bởi cái lễ giáo phong kiến, cái thế lực nam quyền ko cho phép người nữ giới được lên tiếng tẩy oan. Họ ko có 1 quyền hành gì cả, ko được người nào bênh vực hay chở che. Cuối cùng nàng phải mang mối oan tình xuống dòng nước bạc.
số phận của người phụ nừ trong xã hội phong kiến là như thế đó! Sợi dây lễ giáo trói buộc người nữ giới, họ phải mang số mệnh “bạc phận” tới hết thế cuộc. Thậm chí lúc được tẩy oan, dẫu Vũ Nương rất thương nhớ chồng con mà cũng không thể nào quay về cõi tục được vì nơi đó luôn gieo tai họa cho người nữ giới. Đây là 1 cụ thể mang trị giá khiếu nại cao.
Nó khẳng định được thực chất xấu xa của xã hội phong kiến, 1 nhà đá giam hãm thế cuộc của người nữ giới suốt bao thế kỉ. Cả tác phẩm là 1 bức tranh hiện thực sinh động phản ảnh được thân phận đáng thương của người nữ giới trong xã hội xưa kia.
Đằng sau nỗi khổ của Vũ Nương, ta còn thấy tấm lòng nhân đạo đáng quý của nhà văn. Xuất phát từ tấm lòng mến thương trân trọng người nữ giới, Nguyễn Dữ tập hợp truyền tụng phẩm giá tốt đẹp của người con gái Nam Xương: đảm đang, hiếu nghĩa, chung tình. Khi chồng đi lính, nàng 1 mình làm hết cả vai trò của chồng lẫn vợ ko 1 chút thở than: nuôi dạy con thơ, trông nom mẹ già.
Nàng luôn giữ trọn đạo hiếu đối với bác bỏ mẹ, thờ cúng mẹ chồng như mẹ ruột. Đối với chồng, trước sau nàng vẫn giữ trọn tình nghĩa. Biết chồng vốn tính đa nghi, “nàng cũng giữ giàng mực thước, ko từng để khi nào vợ chồng phải tới bất hòa”. Khi bị chồng nghi oan, không thể thổ lộ được, nàng đã lấy cái chết để chứng thực tình nghĩa của mình.
Lời nguyện thề của Vũ Nương trước lúc chết cũng chứng tỏ được tấm lòng trong trắng, chung tình của nàng. “Thiếp nếu như đoan trang giữ tiết, trinh trắng gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược chấp thuận chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Vũ Nương tin ở tấm lòng chung tình trong trắng của mình nên sau lúc chết đã được như lời nguyền.
Tiết nghĩa của người con gái Nam Xương như thế! Câu chuyện càng thương tâm, tấm lòng nàng lại càng sáng tỏ. Vũ Thị Thiết là hiện thân của tâm hồn cao đẹp. Trong lòng nàng như không hề gợn 1 mảy may vẩn đục nào ngoài lòng mến thương chồng, thương con. ý thức nhân đạo của tác phẩm còn biểu lộ rõ rệt trong việc phản ảnh nỗi oan của Vũ Nương. Trong lúc cơ chế phong kiến khinh thường quyền sống của người nữ giới, không hề ân cần tới nỗi khổ của họ, ước muốn của họ, thì truyện ngắn này đã nói tới tới nỗi khổ đó, xót thương tới nỗi oan đó.
Kế bên đó, Nguyễn Dữ còn đề cao 1 khát vọng của họ: được tôn trọng. Sau lúc vợ chết ko chỉ chàng Trương hiểu ra nỗi oan của nàng và lập đàn tẩy oan, nhưng mà tấm lòng trong trắng chung tình đó, nỗi khổ đó còn cảm động tới thần linh. Hình ảnh “Vũ Nương ngồi kiệu hoa, theo sau đó có hơn 5 mươi chiếc xe, cờ tán võng lọng đặc sắc” thật là đẹp tươi. đó là phần thưởng, là niềm xoa dịu cho nàng. Cùng lúc nó cũng trình bày được ước mong của tác giả, của quần chúng ta ngày xưa.
Kế bên đó, truyện còn có rất nhiều thành công về mặt nghệ thuật.
Đặc trưng là nghệ thuật dựng truyện giàu kịch tính. Những chỗ thắt nút, mở nút, bất thần nhưng mà vẫn hợp lí. Người đọc bất thần vì những câu nói thơ ngây của đứa trẻ lần đầu gặp cha, không thể tinh được và thương tâm trước cái chết của người vợ, càng sững sờ lúc đọc tới cụ thể: đứa con chỉ bóng cha in trên vách nhưng mà nói: “Cha Đản lại tới kia kìa!”. Thì ra nguyên cớ nỗi âu sầu, nỗi oan ức của 1 con người, sự tan tành của 1 gia đình chỉ vì 1 “cái bóng” qua lời nói của thơ ấu. Chính cụ thể đó làm nỗi oan nổi rõ lên với tất cả cái bi thương của nó.
những đối tượng trong truyện tuy chưa thật sự có phong cách rõ rệt mà cũng biểu thị được với 1 vài đặc điểm khá sắc sảo: đứa trẻ thì không lo nghĩ, người vợ thảo hiền chung tình cam chịu, người chồng vừa nóng nảy hay ghen tuông lại vừa cả tin nhẹ dạ. Truyện lại liên kết chất hiện thực với những nhân tố hoang đường thần kì gây hứng thú cho người đọc.
Tuy nhiên do được viết bằng chữ Hán, với những cách diễn tả bóng bẩy và to nhỏ công thức, tiếng nói của truyện còn gây cho ta cảm giác thiếu thiên nhiên ta chưa biết được thực thụ lời nói của ông cha ta ngày đó. Nhưng dẫu sao, đây cũng là 1 truyện ngắn trước hết của văn học Việt Nam có những thành công sắc sảo.
Tóm lại, Chuyện người con gái Nam Xương là 1 câu chuyện tình đầy oan khúc. Qua truyện, ta hiểu được sự bất công vô lí của xã hội phong kiến đã đem lại nỗi âu sầu cho người nữ giới đẹp trong văn học Việt Nam thế kỉ XVI làm sáng ngời phẩm giá đáng quý của người nữ giới Việt Nam. Dẫu đã trải qua nhiều thế kỉ, mà thời kì vẫn ko làm giảm đi trị giá của tác phẩm văn học rực rỡ này. Tác phẩm là 1 trong những viên đá trước hết đã góp phần xây dựng nên ngôi nhà mập văn xuôi Việt Nam.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 6
Theo mọi thứ theo thời kì sẽ bị bào mòn và băng hoại. Chỉ có duy nhất vô nhị nghệ thuật, mình nó không chấp nhận cái chết. Có những tác phẩm dù trải qua bao lăm thế kỉ, qua sự thử thách của dòng đời, nó vẫn còn nguyên sinh khí của mình. “Chuyện người con gái Nam Xương” là 1 câu chuyện như thế.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là 1 trong số 20 truyện trích trong “Truyền kì mạn lục”, áng văn được thiên hạ bình lựa chọn là “thiên cổ kì bút”- cây bút thần kì truyền tới nghìn đời. Truyện được viết từ tình tiết cổ tích “Vợ chàng Trương”, mà với ngòi bút tài năng của mình, Nguyễn Dữ đã sáng hình thành “Chuyện người con gái Nam Xương” rất riêng, giàu trị giá và ý nghĩa. Qua câu chuyện về thế cuộc và cái chết thương tâm của Vũ Nương, tác phẩm đã trình bày trị giá hiện thực và cảm hứng nhân đạo thâm thúy.
Trước hết. “Chuyện người con gái Nam Xương” là bản án sắt đá khiếu nại xã hội phong kiến nam quyền, bất công bấy giờ qua số mệnh thảm kịch của Vũ Nương cũng như sự độc đoán của đối tượng Trương Sinh. Ngay lúc khởi đầu, Vũ Nương đã phải chịu 1 tơ duyên oái oăm. Nàng- người con gái thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp lại phải lấy Trương Sinh- 1 kẻ thất học, rất đa nghi, với vợ thường phòng ngừa quá sức. Cuộc tơ duyên đó đã chứa đựng mầm mống của của tranh chấp.
Lấy chồng chưa được bao lâu, Vũ Nương lại phải sống trong cảnh kì vọng nặng nhọc. Vợ chồng phải chia lìa vì “động việc lửa binh”. Cảnh nàng tiễn chồng đi lính thật ái ngại, xót xa: nàng rót chén rượu đầy nhưng mà ứa 2 hàng lệ. Rồi lúc chồng đi lính, nàng phải sống vò võ 1 mình trông ngóng tin chồng. Nàng thay chồng toan lo phụ trách công việc gia đình: nuôi dạy con bé, trông nom, thờ cúng mẹ già khi ốm đau, hậu sự tế lễ tỷ mỉ lúc mẹ chồng mất. Ái ngại thay cho nàng, sau lúc mẹ chồng mất, trong ngôi nhà trống vắng đơn thân, chỉ có người vợ trẻ và đứa con thơ ấu.
Hơn nữa, người nữ giới đó còn phải chịu nỗi oan và cái chết thương tâm. Chỉ vì 1 lời nói của đứa con bé nhưng mà Trương Sinh đã đinh ninh vợ mình hư hỏng, 1 mực nhiếc mắng, đánh đuổi nàng đi. Hỏi nguyên do thì Trương Sinh giấu, nàng hết lời tẩy oan mà chồng ko nghe, bà con thôn ấp biện minh cho nàng cũng chẳng ích gì. Nàng bị chồng đẩy vào thảm kịch: “người vợ mất nết hư thân”, dồn đẩy nàng phải tìm tới cái chết để tẩy oan. Nhưng chỉ trong 1 thời kì ngắn sau, Trương Sinh nhìn thấy nỗi oan của vợ thì “việc đã rót qua rồi”. Người đọc chỉ biết ngùi ngùi thở dài xót thương cho người nữ giới bạc phận.
Vũ Nương còn phải chịu nỗi oan ngăn cách. Sống dưới thủy cung, cuộc sống đầy đủ, xứng đáng với nàng mà đó không hề cuộc sống nàng ước mong. Nàng vẫn khát khao cuộc sống gia đình, quê hương. Việc nàng trở về mà hông thể trở về nhân gian được nữa, âm dương xa vắng, nàng ko còn được làm vợ, làm mẹ nữa.
Còn đối tượng Trương Sinh được xây dựng là con nhà hào phú mà thất học và rất đa nghi. Chính lòng ghen tuông tuông mù quáng, cách cư xử hồ đồ, Trương Sinh đã đẩy vợ mình tới cái chết oann nghiệt. thảm kịch của Vũ Nương tiêu biểu cho thảm kịch của người nữ giới Việt Nam trong xã hội phong kiến: số mệnh bé nhỏ, ko nổi tiếng nói và cũng ko được quyền quyết định số mệnh thế cuộc mình.
Trương Sinh chính là thành phầm của xã hội phong kiến bất công với thói gia trưởng độc đoán, với tư tưởng trọng nam khinh nữ đã đẩy người nữ giới tới với thảm kịch. Qua đó chính là lời khiếu nại xã hội phong kiến bất công, hủ lậu với những thành kiến xã hội, với trận đấu tranh phi chính nghĩa đã làm tan tành bao gia đình, thế cuộc.
Nhưng đằng sau sự xót xa, phẫn uất trước cơ chế phong kiến lại là thái độ trân trọng, là tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ dành cho con người. Tác giả trình bày sự trân trọng, ca tụng cho vẻ đẹp của người nữ giới: Vũ Nương. Vũ Nương là người con gái đẹp người đẹp nết. Ngay phần đầu giới thiệu, tác giả đã sử dụng những từ ca tụng để dành riêng cho nàng. Thành ra nhưng mà Trương Sinh mới xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về.
Nàng còn là người vợ chung tình. Trong cuộc sống gia đình, nàng luôn giữ giàng mực thước. Dù chồng có tính đa nghi mà gia đình chưa từng tới thất hòa. Trong buổi tiễn chồng đi lính, nàng chỉ mong chồng bình an trở về. Với nàng, mọi vinh hoa phú quý ko có nghĩa lí bằng hạnh phúc gia đình. Nàng còn thông cảm với những gieo neo hiềm nguy nhưng mà chồng phải trải qua nơi chiến trường, cùng lúc bộc bạch nỗi nhớ nhung của mình.
Khi chồng đi lính, nàng luôn hướng về chồng, nỗi buồn nhớ dài theo 5 tháng. Khi bị chồng nghi oan, nàng đã hết lời phân bua: sử dụng thân phận, tấm lòng. Nỗi đớn đau thất vọng lúc hạnh phúc gia đình đang nguy cơ vỡ vạc. Nàng đã tìm đủ mọi cách để cứu vãn hạnh phúc gia đình, để tẩy oan cho mình. Hành động nhảy xuống sông tự sát để tỏ rõ với đời người nữ giới đoan trang, giữ tiết, trinh trắng, gìn lòng.
Sống dưới thủy cung, nàng vẫn luôn hướng về gia đình, quê hương. Việc nàng trở về để được tẩy oan mà nàng ko trở về được nữa để giữ mãi lòng chung tình với Linh Phi- người đã nuôi nấng nàng. Hơn nữa, Vũ Nương còn là 1 người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo.
Nàng đảm đang, toan lo mọi công việc gia đình lúc chồng đi vắng. Lời trăng trối của người mẹ chồng là sự ghi nhận cao nhất cho phẩm hạnh làm dâu, làm con của nàng: bà cảm ơn công huân của nàng với gia đình nhà chồng, bà cầu mong đứa con của mình sẽ được hạnh phúc: “xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Có thể nói, Vũ Nương là người nữ giới lí tưởng, ở nàng hiện ra cả 3 con người: người vợ chung tình, người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo. Tất cả đều xuất sắc, sáng tỏ tới mức xuất sắc. Trân trọng, ca tụng vẻ đẹp của người nữ giới, vốn ko được coi trọng trong xã hội chính là trị giá nhân văn của tác phẩm. Đặc trưng, tác giả còn thông minh so với cổ tích lúc để Vũ Nương có thể trở về để tẩy oan.
Nó như khúc vĩ thanh trong bản nhạc để ngân lên những ước mong nghìn đời của người nông dân, rằng thế cuộc này vẫn còn công lí, người tốt dù chịu oan khúc rồi cũng sẽ được trả lại sự trong sạch, cái thiện rồi cũng sẽ thắng lợi. Cũng chính thành ra nhưng mà tác phẩm vợi đi phần nào sự bi thảm, đớn đau để đánh thức trong người đọc niềm tin, sáng sủa hướng về ngày mai.
Ngoài những trị giá nội dung thâm thúy, tác phẩm còn có những thành tích nghệ thuật rực rỡ. Tất cả mọi diễn biến tính cách, số mệnh đối tượng đều quay quanh cụ thể chiếc bóng. Nó ko hiện ra ngay từ đầu mà là nhân tố để câu chuyện lên tới cao trào và cũng nó để cởi nút cho câu chuyện.
Nhờ cách sắp xếp cảnh huống nhưng mà câu chuyện trở thành bất thần, thấp thỏm, căng thẳng. Cộng với đó là nghệ thuật khắc họa đối tượng tiêu biểu, đại diện cho những đặc điểm tầng lớp và số mệnh con người trong xã hội. Giọng văn cùng những hình ảnh so sánh, ẩn dụ, tuy có ước lệ những vẫn sinh động, chân thật và hài hòa.
tương tự, “Chuyện người con gái Nam Xương” là tiếng nói lên án, khiếu nại xã hội phong kiến bất công, phi lí. Cùng lúc lên tiếng nói cảm thương, ca tụng với vẻ đẹp con người, niềm tin vào công bình và công lí xã hội. Tấm lòng đau đáu của Nguyễn Dữ nhìn vào thực tế và dành cho con người đã khởi nguồn cho tiếng nói nhân đạo của Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, … sau này.
Từ 1 chiếc bóng oan trái, tác phẩm thấm đẫm cảm hứng nhân văn, mở ra cho chúng ta biết bao lăm bài học về tình người, về cuộc sống. Đây là 1 áng “thiên cổ kì bút” đáng mày mò và suy ngẫm.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 7
Mỗi 1 câu chuyện viết ra đều mang 1 ý nghĩa tự thân của nó, có công dụng cảm hoá thế cuộc và con người. nếu như 1 tác phẩm văn học ko mang được những ý nghĩa sâu xa tương tự, nó sẽ vẫn nằm trong sự băng hoại của thời kì. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã vượt qua được quy luật của thời kì và ko gian để tới với chúng ta ngày bữa nay.
“Chuyện người con gái Nam Xương” nằm trong tập “Truyền kì mạn lục”, 1 trong những câu chuyện lạ lưu truyền trong dân gian được ghi chép lại. Lạ mà câu chuyện đó ko viển vông tới xa vắng thực tiễn, nhưng mà nó như 1 tấm gương soi chiếu xã hội bấy giờ, là khúc ca cho tấm lòng nhân đạo của tác giả Nguyễn Dữ. Bởi những trị giá đó nhưng mà đã hàng nghìn 5 trôi qua, vẫn còn 1 tác phẩm đồng hành với chúng ta ngày bữa nay.
Truyện kể về người con gái vùng Nam Xương, tính đã dịu hiền nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Nàng được gả cho Trương Sinh, 1 chàng trai sang giàu mà ít học, tính tình lại cục mịch hay ghen tuông. Và chiến tranh nổ ra, Trương Sinh bị bắt đi lính, để mẹ già vợ trẻ ở nhà ngày đêm mong nhớ. Trương Sinh đi để lại cho Vũ Nương 1 người đàn ông, vì thương nhớ chồng nên nàng chỉ chiếc bóng trên tường và nói với con đó là cha.
Ba 5 sau, Trương Sinh trở về, nghi ngại vợ mình thất tiết và đuổi đánh vợ, khiến nàng nhảy xuống sông nhưng mà tự sát. 1 thời kì sau, Trương Sinh phát xuất hiện sự thực, muốn vợ quay trở về mà mọi chuyện đã quá muộn. Cả câu chuyện như 1 vở kịch đau thương về số mệnh của người nữ giới dưới cơ chế phong kiến, tủi nhục, âu sầu tới nhường nào!
“Chuyện người con gái Nam Xương” còn tồn tại tới ngày bữa nay có nhẽ là nhờ vào trị giá hiện thực thâm thúy của nó. đó là bức tranh về hiện thực xã hội phong kiến chứa đầy những uất ức bất công, đặc thù là với người nữ giới. Vũ Nương dù mang trong mình những phẩm giá tốt đẹp mà cũng ko được lựa chọn lọc hạnh phúc cho thế cuộc mình.
Nàng vì trăm lạng bạc của mẹ Trương Sinh nhưng mà về làm dâu làm vợ của người, ko người nào biết nàng có hạnh phúc hay ko. Rồi lúc bị chồng nghi oan, nàng cũng ko có quyền nói lên nỗi lòng của mình. Dù bị đánh đập, bị đuổi đi nhưng mà ko được nói 1 lời giảng giải. Chính cơ chế nam quyền lúc đó là nguyên cớ dẫn tới thế cuộc thảm kịch của Vũ Nương.
Trong tác phẩm, ta còn nhìn thấy 1 hiện thực thảm khốc hơn nữa, chính là chiến tranh phong kiến phi chính nghĩa. Cuộc chiến đó khiến mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha. Dù cho 1 người sang giàu như Trương Sinh, cũng ko tránh khỏi vòng vây đao kiếm. Tất cả đều là để sử dụng cho cho nhu cầu của những thế lực phong kiến tranh giành quyền lực nhưng mà đổ lên đầu con đỏ thứ dân.
Giả dụ ko có chiến tranh phong kiến, cũng ko có 3 5 cách biệt đằng đẵng giữa Vũ Nương và chồng, cũng ko có sự hiểu lầm đáng tiếc đó. Vũ Nương phải chết, cũng 1 phần vì chiến tranh nhưng mà ra. Có thể nói, tác phẩm đã phản ảnh chân thật được những hiện thực còn nhức nhối trong xã hội bấy giờ, để sau này thiên hạ còn nhìn vào và hiểu rằng, đã có 1 thời lầm than như thế.
Nhưng 1 tác phẩm văn học sẽ không thể sống nếu như nó chỉ là sự sao chép lại hiện thực 1 cách giản đơn. Trong hiện thực, ta còn phải thấy được cả tấm lòng của tác giả gửi gắm, hay chính là tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm của mình. Tiếng nói nhân đạo đó trước nhất trình bày ở sự truyền tụng, trân trọng vẻ đẹp của người nữ giới trong xã hội phong kiến.
Vũ Nương được mô tả là 1 cô gái, đã có tư dung tốt đẹp lại dịu hiền nết na. Nguyễn Dữ nhìn ra được những phẩm giá cao quý nhất trong tâm hồn người con gái đó. Chính phương thức xinh xẻo và tính tình của nàng đã chiếm được trái tim chàng Trương Sinh, để chàng phải bắt mẹ hỏi cưới cho bằng được. Từ khi đó, Vũ Nương nổi trội lên là 1 người con hiếu thảo. Chồng đi lính, nàng hết dạ phụng sự, chăm lo cho mẹ chồng.
Khi bà ốm, nàng tất tưởi toan lo thuốc thang, lúc bà mất, nàng lo toàn hậu sự cho thật tỷ mỉ. Dẫu chỉ là mẹ chồng, nàng vẫn toàn tâm trông nom như cha mẹ. đó là 1 tấm lòng thơm thảo, luôn dành sự hàm ân cho đấng sinh thành. Phẩm chất đó thật đáng quý biết nhường nào.Khi đã làm mẹ, Vũ Nương lại hết dạ mến thương và trông nom con.
Thương con mập lên trong cảnh thiếu cha, ngày ngày nàng chỉ chiếc bóng trên tường và nói với con đó là cha nó. Ta có thể thấy 1 khát khao gia đình toàn vẹn để con được đủ đầy mến thương. thảm kịch của thế cuộc Vũ Nương, có chăng cũng là từ tình mến thương con đó nhưng mà ra.
Nét nổi trội nhất trong vẻ đẹp của Vũ Nương có nhẽ chính là tấm lòng chung thuỷ 1 lòng với chồng. Khi chồng ở nhà, nàng khéo léo đảm đang ko để chồng phật ý, lúc chồng ra trận, nàng lại 1 lòng trông nom mẹ già con bé. Nàng sống trong nỗi nhớ chồng, khát khao được gặp lại sức chồng của mình. Nàng luôn giữ được 2 chữ “tiết hạnh” để ko có lỗi với chồng.
Chiếc bóng hiện ra mỗi đêm có nhẽ là minh chứng rõ nhất cho sự chung tình của Vũ Nương. Và đặc thù, lúc chết đi, nàng quay quay về gặp chồng lần nữa, 1 mặt là khẳng định tấm lòng chung tình, 1 mặt vẫn còn quyến luyến tình xưa nghĩa cũ. Tấm lòng chung tình của Vũ Nương, ko người nào có thể phủ nhận. đó chính là vẻ đẹp tiêu biểu nhất cho người nữ giới Việt Nam, dù chịu bất công mà 1 lòng chung tình.
Tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ, ta còn gặp ở sự đồng cảm với khát vọng hạnh phúc của con người. thế cuộc Vũ Nương luôn là những chuỗi ngày bị ép buộc, kì vọng. Nàng luôn thèm khát về 1 mái ấm gia đình có đủ đầy tình mến thương mà ko thành hiện thực. Nguyễn Dữ để nàng sống hạnh phúc ở 1 toàn cầu khác, ko còn khổ cực hờn ghen tuông, chính là để hiện thực hóa ước mong hạnh phúc của con người.
“Chuyện người con gái Nam Xương”, với những trị giá hiện thực và nhân đạo của mình, đã thực thụ chạm được tới phần sâu kín nhất của trái tim con người. đó là nỗi lòng của chính Nguyễn Dữ, là cặp mắt nhìn đời tinh nhanh sắc sảo và tấm lòng nồng ấm mến thương. Tác phẩm đã cho ta thấy được cái tâm và cái tài của 1 nghệ sĩ mập, đó mới là nghệ thuật chân chính ma muôn thuở con người theo đuổi.
Thời gian vẫn sẽ tuần hoàn theo quy luật của nó, mà ta sẽ vẫn còn nhớ về tác phẩm để hoài niệm về kí vãng xa rời, để đau xót, để mến thương!
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 8
Nguyễn Dữ là một trong những tác giả nổi tiếng về truyện truyền kỳ. Trong những tác phẩm của ông, có nhẽ “Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện đặc sắc nhất. Tác phẩm viết về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, ca tụng phẩm chất cao đẹp của học. Đồng thời, từ đó ta thấy được sự đồng cảm sâu sắc của tác giả với hoàn cảnh của họ.
Vũ Nương là người con gái “tính tình thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chồng nàng là Trương Sinh, một người đa nghi và hay ghen. Mặc dù vậy, với tính cách dung hòa của mình, “nàng luôn giữ gìn mực thước”, cuộc sống gia đình của hai người luôn ổn định, không hề xảy ra bất hòa. Khi Trương Sinh phải sung binh, nàng lại là người vợ chung thủy, một lòng một dạ với chồng, chỉ mong chàng lên đường bình an trở về, không mong đeo được ấn phong hầu. Tình yêu và ước mơ của nàng thật giản dị và ý nghĩa. Chồng đi xa, nàng sinh con và săn sóc mẹ chồng một cách chu đáo. Khi mẹ ốm, “nàng hết sức thuốc thang, lễ Phật cầu thần”, câu nói “Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.” của mẹ chồng nàng đã cho ta thấy Vũ Nương là một người vợ chu đáo, một người con hiếu thảo biết chừng nào. Khi mẹ chồng mất, nàng đau xót, tính liệu ma chay như với cha mẹ đẻ của mình.
Tuy nhiên, người phụ nữ tiết hạnh ấy lại phải chịu đựng một nỗi oan và dẫn tới cái chết thương tâm của nàng. Trong thời gian chồng đi tòng quân, nàng thường hay đùa với con bằng cách trỏ vào bóng mình trên tường và nói đó là cha Đản. Khi bị Trương Sinh nghi ngờ, nàng vẫn quyết tâm hỏi rõ sự tình và thanh minh với chàng: “Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói.” Tuy nhiên, khi Trương Sinh một mực không tin, nàng đã gieo mình xuống bến Hoàng Giang mà chết. Chi tiết này đã nói lên nét đẹp con người Vũ Nương, nàng sẵn sàng lấy cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Hành động mà Vũ Nương nhờ Phan Lang về nói với Trương Sinh yêu cầu của nàng cũng một lần nữa nói nên tấm lòng chung thủy, một lòng son sắt của nàng. Khi hiểu ra sự tình, Trương Sinh đã vô cùng ăn năn, đàn tẩy oan đã khiến cho Vũ Nương được trả lại sự trong sạch, yên lòng, nàng đã được đức Linh Phi cho hiện về, dẫu không thể trở lại thiên hạ được nữa.
Tác phẩm của Nguyễn Dữ, một tác phẩm truyền kỳ có sử dụng những yếu tố hoang đường kỳ ảo. Nhưng từ đó lại thấy được cái nhìn, sự trân trọng và thông cảm của tác giả đối với số phận người phụ nữ xưa, ca tụng phẩm chất cao đẹp của họ.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 9
Nguyễn Dữ là nhà văn lỗi lạc của quốc gia ta trong thế kỷ 16. Vốn là học trò giỏi của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngoài thơ, ông còn để lại tập văn xuôi viết bằng chữ Hán, gồm có 20 truyện ghi chép những mẩu chuyện hoang đường lưu truyền trong dân gian; cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Đằng sau mỗi câu chuyện thần kỳ. “Truyền kì mạn lục” chứa đựng nội dung phê phán những hiện thực xã hội đương thời được nhìn dưới con mắt nhân đạo của tác giả.
“Chuyện người con gái Nam Xương” trích trong “Truyền kì mạn lục” ghi lại thế cuộc thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương thuộc tỉnh Nam Hà ngày nay.
Vũ Nương là một người phụ nữ nhan sắc và tiết hạnh “có tư dung tốt đẹp” tính tình “thuỳ mị nết na”. Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về, sum họp thất gia. Thời buổi chiến tranh tao loạn, chồng phải đi lính đánh giặc Chiêm. Vũ Nương ở nhà lo bề thất gia. thờ cúng mẹ già nuôi dạy con trẻ, đạo dâu con, nghĩa vợ chồng, tình mẹ con, nàng giữ trọn vẹn, chu tất. Khi mẹ chồng già yếu qua đời, một mình nàng lo việc tang ma, phận dâu con giữ tròn đạo hiếu. Có thể nói Vũ Nương là một người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp, đáng được trân trọng ngợi ca. Ước mơ của nàng rất bình dị. Tiễn chồng ra trận, nàng không hề mơ tưởng “đeo ấn phong hầu”, chỉ mong ngày sum họp, chồng trở về “được hai chữ bình yên”.
Cũng như số đông người phụ nữ ngày xưa. thế cuộc của Vũ Nương là những trang buồn đầy nước mắt. Năm tháng trôi qua, giặc tan, Trương Sinh trở về, con thơ vừa học nói. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng rồi chuyện “cãi bóng” từ mồm đứa con thơ đã làm cho Trương Sinh ngờ vực, “đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có ý gỡ ra được”. Vốn tính hay ghen, lại gia trưởng, vũ phu, ít được học hành, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói. Trương Sinh đã “nhiếc mắng nàng và đánh đuổi đi”. Vợ phân trần, không tin; láng giềng khuyên can cũng chẳng ăn thua gì cả! Chính vì chồng và con – những người thân yêu nhất của Vũ Nương đã xô đẩy nàng tới bên bờ vực thẳm. Thời chiến tranh tao loạn, nàng đã trải qua những năm tháng đơn chiếc, giờ đây đứng trước nỗi oan, nàng chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng… Vũ Nương chỉ có một trục đường để bảo toàn danh tiết: nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để làm sáng ngời “ngọc Mị Nương “, toả hương “cỏ Ngu Mĩ”.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 10
Mỗi một câu chuyện viết ra đều mang một ý nghĩa tự thân của nó, có tác dụng cảm hoá thế cuộc và con người. nếu như một tác phẩm văn học không mang được những ý nghĩa sâu xa tương tự, nó sẽ vẫn nằm trong sự băng hoại của thời gian. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã vượt qua được quy luật của thời gian và không gian để tới với chúng ta ngày ngày hôm nay.
“Chuyện người con gái Nam Xương” nằm trong tập “Truyền kì mạn lục”, một trong những câu chuyện lạ lưu truyền trong dân gian ghi được chép lại. Lạ nhưng câu chuyện ấy không viển vông tới xa rời thực tế, mà nó như một tấm gương soi chiếu xã hội bấy giờ, là khúc ca cho tấm lòng nhân đạo của tác giả Nguyễn Dữ. Bởi những trị giá ấy mà đã hàng nghìn năm trôi qua, vẫn còn một tác phẩm đồng hành với chúng ta ngày ngày hôm nay.
Truyện kể về người con gái vùng Nam Xương, tính đã dịu hiền nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Nàng được gả cho Trương Sinh, một chàng trai giàu có nhưng ít học, tính tình lại cục cằn hay ghen. Và chiến tranh nổ ra, Trương Sinh bị bắt đi lính, để mẹ già vợ trẻ ở nhà ngày đêm mong nhớ. Trương Sinh đi để lại cho Vũ Nương một người con trai, vì thương nhớ chồng nên nàng chỉ chiếc bóng trên tường và nói với con đó là cha.
Ba năm sau, Trương Sinh trở về, nghi ngờ vợ mình thất tiết và đuổi đánh vợ, khiến nàng nhảy xuống sông mà tự vẫn. Một thời gian sau, Trương Sinh phát hiện ra sự thực, muốn vợ quay trở về nhưng mọi chuyện đã quá muộn. Cả câu chuyện như một vở kịch đau thương về số phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, tủi nhục, khổ cực tới nhường nào!
“Chuyện người con gái Nam Xương” còn tồn tại tới ngày ngày hôm nay có nhẽ là nhờ vào trị giá hiện thực sâu sắc của nó. Đó là bức tranh về hiện thực xã hội phong kiến chứa đầy những uất ức bất công, đặc biệt là với người phụ nữ. Vũ Nương dù mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp nhưng cũng không được lựa lựa chọn hạnh phúc cho thế cuộc mình.
Nàng vì trăm lạng bạc của mẹ Trương Sinh mà về làm dâu làm vợ của người, không người nào biết nàng có hạnh phúc hay không. Rồi khi bị chồng nghi oan, nàng cũng không có quyền nói lên nỗi lòng của mình. Dù bị đánh đập, bị đuổi đi mà không được nói một lời giảng giải. Chính chế độ nam quyền khi ấy là nguyên nhân dẫn tới thế cuộc thảm kịch của Vũ Nương.
Trong tác phẩm, ta còn trông thấy một hiện thực thảm khốc hơn nữa, chính là chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Cuộc chiến ấy khiến mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha. Dù cho một người giàu có như Trương Sinh, cũng không tránh khỏi vòng vây đao kiếm. Tất cả đều là để phục vụ cho nhu cầu của những thế lực phong kiến tranh giành quyền lực mà đổ lên đầu con đỏ thứ dân.
nếu như như không có chiến tranh phong kiến, cũng không có ba năm xa vắng đằng đẵng giữa Vũ Nương và chồng, cũng không có sự hiểu lầm đáng tiếc ấy. Vũ Nương phải chết, cũng một phần vì chiến tranh mà ra. Có thể nói, tác phẩm đã phản ánh trung thực được những hiện thực còn nhức nhối trong xã hội bấy giờ, để sau này người đời còn nhìn vào và hiểu rằng, đã có một thời lầm than như thế.
Nhưng một tác phẩm văn học sẽ không thể sống nếu như nó chỉ là sự sao chép lại hiện thực một cách giản đơn. Trong hiện thực, ta còn phải thấy được cả tấm lòng của tác giả gửi gắm, hay chính là tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm của mình. Tiếng nói nhân đạo ấy trước hết thể hiện ở sự ca tụng, trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Vũ Nương được trình bày là một cô gái, đã có tư dung tốt đẹp lại dịu hiền nết na. Nguyễn Dữ nhìn ra được những phẩm chất cao quý nhất trong tâm hồn người con gái ấy. Chính vẻ ngoài xinh đẹp và tính tình của nàng đã chiếm được trái tim chàng Trương Sinh, để chàng phải bắt mẹ hỏi cưới cho bằng được. Kể từ đó, Vũ Nương vượt trội lên là một người con hiếu thảo. Chồng đi lính, nàng tận tình phụng sự, chăm lo cho mẹ chồng.
Khi bà ốm, nàng tất tả toan lo thuốc thang, khi bà mất, nàng toan lo ma chay cho thật chu đáo. Dẫu chỉ là mẹ chồng, nàng vẫn toàn tâm săn sóc như bố mẹ. Đó là một tấm lòng thơm thảo, luôn dành sự hàm ân cho đấng sinh thành. Phẩm chất ấy thật đáng quý biết nhường nào.Khi đã làm mẹ, Vũ Nương lại tận tình yêu thương và săn sóc con.
Thương con lớn lên trong cảnh thiếu cha, ngày ngày nàng chỉ chiếc bóng trên tường và nói với con đó là cha nó. Ta có thể thấy một thèm khát gia đình trọn vẹn để con được đủ đầy yêu thương. thảm kịch của thế cuộc Vũ Nương, có chăng cũng là từ tình yêu thương con ấy mà ra.
Nét vượt trội nhất trong vẻ đẹp của Vũ Nương có nhẽ chính là tấm lòng chung thuỷ một lòng với chồng. Khi chồng ở nhà, nàng khôn khéo đảm đang không để chồng phật ý, khi chồng ra trận, nàng lại một lòng săn sóc mẹ già con nhỏ. Nàng sống trong nỗi nhớ chồng, thèm khát được gặp lại sức chồng của mình. Nàng luôn giữ được hai chữ “tiết hạnh” để không có lỗi với chồng.
Chiếc bóng xuất hiện mỗi đêm có nhẽ là minh chứng rõ nhất cho sự thủy chung của Vũ Nương. Và đặc biệt, khi chết đi, nàng quay trở lại gặp chồng lần nữa, một mặt là khẳng định tấm lòng chung thủy, một mặt vẫn còn lưu luyến tình xưa nghĩa cũ. Tấm lòng chung thủy của Vũ Nương, không người nào có thể phủ nhận. Đó chính là vẻ đẹp tiêu biểu nhất cho người phụ nữ Việt Nam, dù chịu bất công nhưng một lòng chung thủy.
Tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ, ta còn gặp ở sự đồng cảm với khát vọng hạnh phúc của con người. thế cuộc Vũ Nương luôn là những chuỗi ngày bị ép buộc, chờ đợi. Nàng luôn khát khao về một mái ấm gia đình có đủ đầy tình yêu thương nhưng không thành hiện thực. Nguyễn Dữ để nàng sống hạnh phúc ở một toàn cầu khác, không còn khổ đau hờn ghen, chính là để hiện thực hóa ước mơ hạnh phúc của con người.
“Chuyện người con gái Nam Xương”, với những trị giá hiện thực và nhân đạo của mình, đã thực sự chạm được tới phần sâu kín nhất của trái tim con người. Đó là nỗi lòng của chính Nguyễn Dữ, là cặp mắt nhìn đời tinh nhanh sắc sảo và tấm lòng nồng ấm yêu thương. Tác phẩm đã cho ta thấy được cái tâm và cái tài của một nghệ sĩ lớn, đó mới là nghệ thuật chân chính mà muôn thuở con người theo đuổi.
Thời gian vẫn sẽ tuần hoàn theo quy luật của nó, nhưng ta sẽ vẫn còn nhớ về tác phẩm để hoài niệm về quá khứ xa vắng, để đau xót, để yêu thương!
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 11
Nguyễn Dữ, một học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thành tài, đỗ đạt, ông ra làm quan. Một năm sau, vì chán cảnh triều đình thối nát, ông đã lấy cớ phải nuôi mẹ già mà xin từ quan. Trong những ngày sống “cảnh điền viên vui tuế nguyệt”, ông viết “Truyền kỳ mạn lục”, một tác phẩm văn xuôi trước hết của văn học cổ Việt Nam gồm những truyện có những chi tiết li kì. Phần lớn ca tụng phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam phải sống trong khuôn mẫu “tam tòng, tứ đức” của đạo đức phong kiến, mà “Chuyện người con gái Nam Xương” là một.
Truyện kể lại Vũ Thị Thiết vâng lời cha mẹ làm vợ Trương Sinh, một người kém học, quốc gia gặp cảnh đao binh nên Trương Sinh phải ra trận. Một tuần sau, Vũ Nương sinh con đầu lòng. Một mình chị chăm lo mẹ chồng, lo tang ma khi mẹ chồng chết, nuôi dạy con và lo công việc đồng áng. Giặc tan, Trương Sinh về, nghe lời con mà nghi ngờ lòng chung thuỷ của vợ. Vũ Nương không thân oan được nên đành trẫm mình xuống sông. Nàng được hoàng hậu ở động Rùa trợ giúp. Sau đó, nàng gặp Phan Lang, người láng giềng đã cứu hoàng hậu ở động Rùa. Phan Lang về kể lại cho Trương Sinh nghe. Trương Sinh hối cải lập đàn cầu xin theo lời của nàng. Nàng hiện lên gặp chồng con nhưng lại quay về sống ở động Rùa vì hai người ở hai toàn cầu khác biệt.
Cũng như truyện cổ, những kho truyện của Trung Hoa có tác động nhiều tới nhà Nho đương thời (thế kỉ XVI). “Thiếu phụ Nam Xương” cũng có hai tuyến nhân vật, có những hoàn cảnh tiêu biểu, có người giàu kẻ nghèo ở trong xã hội đang thời tao loạn, nhiễu nhương. Nhưng dù sống trong hoàn cảnh nào thì người tốt vẫn không hề thay đổi thực chất của mình, mà Vũ Thị Thiết là nhân vật tiêu biểu. Vũ Nương nhà nghèo nhưng “tư dung tốt đẹp”, “thuỳ mị, nết na”. Thời phong kiến, con gái “tại gia tòng phụ” để có “công, dung, ngôn, hạnh’’, Vũ Nương được như thế chứng tỏ nàng có sắc đẹp (dung) trời cho nhưng “thuỳ mị, nết na” thì ắt là do sự giáo dục của gia đình.
Nàng nghèo nhưng không mất nền nếp gia phong. Trái lại “Trương Sinh tuy con nhà hào phú nhưng không có học”. Một loạt những nhân vật tốt xuất thân từ những hoàn cảnh sống khác nhau như mẹ chồng, người láng giềng Phan Lang, hoàng hậu động Rùa Linh Phi … đủ chứng tỏ giàu nghèo tuy có tác động tới phương thức sống nhưng khó thay đổi được thực chất của họ.
“Nam Xương tử nữ truyện” không chỉ giới thiệu những nhân vật tốt, xấu ấy mà còn thông qua họ Nguyễn Dữ muốn đề cao sự chung thuỷ và lòng bao dung luôn được nhân vật này thể hiện trong từng lời nói tới từng sự việc. Vâng lời cha mẹ chịu lấy Trương Sinh làm chồng, nàng đã trước sau như một làm người con hiếu thảo. Không chỉ hiếu thảo với cha mẹ ruột. Vũ Nương còn hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng một mình đã toan lo đỡ đần mẹ chồng lúc ốm đau, rồi mẹ chồng chết lại lo chôn đựng. Người phụ nữ có con mọn như nàng mà vẫn vẹn toàn những công việc nặng nhọc ấy thay chồng mà không tiếng kêu than thì quả thực là hiếm có. Mẹ chết, một mình ở vậy nuôi con chờ ngày chồng trở về thì bảo nàng không chung thuỷ sao cho được?! Chồng với vợ như bóng với hình, nàng đã mượn chiếc bóng của mình để yên ủi con, muốn đứa con nhỏ dại luôn nghĩ rằng mình cũng là đứa trẻ có cha. Khi bị Trương Sinh nghi ngờ, nàng đã bao lần hỏi rõ dù bị dằn vặt, chửi mắng, đánh đập. Nàng đã từng tâm sự với chồng: “Thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu … Đâu có hư thân như lời chàng nói. Khi nhận thấy không thể nào xóa tan được mối nghi ngờ nhục nhã, hạ thấp phẩm giá một cách oan khúc, nàng đã quyết định tự trẫm mình, mượn dòng nước trong để rửa sạch những oan khiên. Xét cho cùng, kiên quyết bảo toàn danh dự của con người cũng là lòng chung thuỷ sắt son! Lại nữa khi gặp được Phan Lang, người láng giềng tốt bụng ở động Rùa, Vũ Nương vẫn không quên chồng khi nàng tâm sự cùng Phan Lang và nhờ Phan Lang về nói lại với Trương Sinh yêu cầu của nàng, điều đó vừa thể hiện sự chung thuỷ, vừa tỏ ra bao dung đối với Trương Sinh.
Cả tới Phan Lang, hoàng hậu Linh Phi cũng đều là những người có lòng bao dung, chung thuỷ. Chỉ riêng có Trương Sinh là có lòng ích kỷ, hẹp hòi, tối dạ vì thuở nhỏ không lo chuyện sách đèn. Chỉ cần nghĩ tới công lao của vợ lúc chàng đang ở ngoài mặt trận, chỉ cần sống sắp gũi với láng giềng, chỉ cần có lòng tin vào lòng chung thuỷ của vợ thì nghi vấn xuất phát từ lời nói của con nít “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng…” đã được giãi bày để rồi vợ chồng lại sống trong cảnh đầm ấm, thương yêu.
Một nội dung khác thật rõ ràng trong chuyện là ân oán rành mạch. Vũ Nương là người phụ nữ, có nhẽ mang đặc tính ấy trong cuộc sống. Vì lẽ đó, khi nàng không còn đủ nhẫn nại chờ đợi chồng biểu lộ ấy thì nàng tự biểu lộ. Cái chết của nàng hàm chứa ý nghĩa ấy, làm cho Trương Sinh phải trông thấy ân tình nàng đã mang tới cho chàng và nỗi oan khiên mà nàng phải chịu. Trường hợp giữa hoàng hậu Linh Phi và Phan Lang cũng vậy. Hoàng hậu đã được Phan Lang cứu nên khi Phan Lang gặp nạn khi lên thuyền ra biển tránh sự truy đuổi của quân giặc thì đã được Linh Phi tận tình cứu chữa, lại thếp tiệc đãi, tặng thêm ngọc ngà … trước khi tiễn chân chàng trở về làng quê.
Như thế, ngay truyện ngắn thuộc văn viết, dù là chữ Hán trong buổi sơ khai cũng đang mang hoàn cảnh tiêu biểu, con người tiêu biểu của đời thường vào tác phẩm; cũng có đầy đủ người giàu, kẻ nghèo, hỉ – nộ – ái – ố với kết thúc có hậu ở nội dung là ở hiền gặp lành.
Truyện có rất nhiều chi tiết nhưng được liên kết bởi quan hệ nhân quả nên có kết cấu khá chặt chẽ. Mở đầu truyện, Nguyễn Dữ đã khéo léo giới thiệu Vũ Thị Thiết và Trương Sinh, hai nhân vật chính có hoàn cảnh, tính cách trái ngược nhau để làm cơ sở cho việc khai thác nhân vật sau này. Tính tình, hoàn cảnh sống trái ngược nhau nhưng lại nên vợ nên chồng chỉ vì vâng lời cha mẹ. Quan hệ nhân quả thể hiện từ đầu. Từ đó, quan hệ nhân quả của hai nhân vật diễn ra một cách tự nhiên, hợp lý. Vì nước có loạn binh đao nên chàng mới ra trận. Vì chàng vào nơi gió cát nên nàng phải nặng gánh giang san nhà chồng. Vì con thơ nói tới cha nên mẹ đã mượn cái bóng của mình thay thế; cho con đỡ hổ thẹn với bạn bè. Vì nghe lời con trẻ nên Trương Sinh mới nghi ngờ vợ … Chuỗi nguyên nhân và kết quả đầy kịch tính ấy đã dần tới đỉnh điểm là Vũ Nương quyết định trẫm mình. nếu như chuyện kết thúc ở đây thì quả là bi đát, không có hậu. có nhẽ vì vậy mà những chi tiết thần kỳ được thêm vào. Ấy là Phan Lang nằm ngủ mơ thấy con rùa xanh kêu cứu. Rồi Phan Lang nhớ lại và thả rùa để rồi sau đó là được rùa cứu mạng trả ân và gặp Vũ Nương ở động Rùa. Những chi tiết thần kỳ ấy ở vào thời buổi mà vua quan, thần dân đều tin vào sự hiện hữu của Trời, Thần, Quỷ, Ma… giống như trong những truyện cổ thì cũng là điều không mấy ngạc nhiên. Có những chi tiết đó, Vũ Nương mới gặp được chồng để giải mối oan khiên, nhục nhã nhất của đời làm vợ. Và dù ra đời sau “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn ba thế kỷ, “Nam Xương tử nữ truyện” vẫn còn những câu văn biền ngẫu thượng cổ.
Dù có những hạn chế ấy nhưng truyện Người con gái Nam Xương không những có trị giá đạo lý, lịch sử (phản ánh sự rối ren của xã hội phong kiến) mà cũng có trị giá nghệ thuật xây dựng truyện.
Cho tới nay, “Người con gái Nam Xương” vẫn còn lôi cuốn người đọc. Giữa xã hội nam nữ bình quyền thì nó là cột mốc để so sánh vai trò của người phụ nữ trong văn học xưa và nay. Giữa xã hội suy đồi về đạo đức, nhất là với nữ giới thì nội dung truyện là một bài học đạo đức truyền thống tốt.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 12
Nguyễn Dữ là nhà văn lỗi lạc của quốc gia ta trong thế kỷ XVI. Vốn là học trò giỏi của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngoài thơ, ông còn để lại tập văn xuôi viết bằng chữ Hán, gồm có 20 truyện ghi chép những mẩu chuyện hoang đường lưu truyền trong dân gian; cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Đằng sau mỗi câu chuyện thần kỳ. “Truyền kì mạn lục” chứa đựng nội dung phê phán những hiện thực xã hội đương thời được nhìn dưới con mắt nhân đạo của tác giả.
“Chuyện người con gái Nam Xương” trích trong “Truyền kì mạn lục” ghi lại thế cuộc thảm thương của Vũ Nương. Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính tình thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp nên được Trương Sinh đem lòng yêu mến liền xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ. Biết chồng có tính đa nghi nên, Vũ Nương rất mực giữ gìn mực thước. Bấy giờ, quốc gia có chiến tranh, Trương Sinh phải lên đường đi lính. Vũ Nương ở nhà sinh nuôi dạy con và săn sóc mẹ già, lo ma chay chu đáo khi mẹ chồng mất. Khi Trương Sinh trở về, bế con ra mộ thăm mẹ thì hiểu lầm rằng vợ có người khác. Vũ Nương chịu oan khúc biết không thể rửa sạch liền nhảy xuống sông tự vẫn. Một đêm nọ, Trương Sinh bế con ngồi trước ngọn đèn, thấy đứa bé chỉ vào cái bóng mình bảo đó là cha mới trông thấy mình đã hiểu lầm vợ, hối hận cũng đã muộn. Cùng làng có người tên là Phan Lan vì cứu Linh Phi trước đó nên khi gặp nạn chết trôi đã được Linh Phi cứu sống, tình cờ gặp Vũ Nương ở thủy cung. Phan Lang trở về trần gian Vũ Nương gửi theo chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trương Sinh. Trương Sinh lập đàn tẩy oan bên bến Hoàng Giang. Vũ Nương hiện ra và nói lời đa tạ chàng, rồi biến mất.
Có thể nói Vũ Nương là một người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp, đáng được trân trọng ngợi ca. Ước mơ của nàng rất bình dị. Tiễn chồng ra trận, nàng không hề mơ tưởng “đeo ấn phong hầu”, chỉ mong ngày sum họp, chồng trở về “được hai chữ bình yên”. Nhưng người phụ nữ ấy lại không thừa hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Chiến tranh kết thúc, Trương Sinh trở về cũng là lúc con thơ vừa học nói. Tưởng rằng ngày đoạn tụ cũng là ngày hạnh phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng câu chuyện “cái bóng” từ mồm đứa con thơ đã làm cho Trương Sinh hiểu lầm và nghĩ rằng “vợ hư”. Mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có ý gỡ ra được”. Vốn đa nghi lại hay phòng ngừa vợ. Giấu biệt lời con nói. Trương Sinh đã “nhiếc mắng nàng và đánh đuổi đi”. Cho dù Vũ Nương kết mực giảng giải cũng không được. Cuối cùng, nàng phải tìm tới cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Thời chiến tranh tao loạn, nàng đã trải qua những năm tháng đơn chiếc, giờ đây đứng trước nỗi oan, nàng chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng…
Thông qua thế cuộc của Vũ Nương, nhà văn muốn gửi gắm những trị giá nhân văn cao cả. Truyện là lời khẳng định sự trân trọng đối với những ước mơ chính đáng, khát vọng cao đẹp như: khát vọng được hạnh phúc, ước mơ về sự công bằng trong xã hội. Cùng với đó là niềm xót thương, thông cảm sâu sắc của tác giả đối với số phận của người phụ nữ. Không chỉ vậy, nhà văn cũng lên án, phê phán, tố cáo xã hội phong kiến đã giày đạp lên quyền sống của con người. Cuối cùng là lời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những tác phẩm xuất sắc góp phần vào tiếng nói chung đòi sự đồng đẳng cho người phụ nữ.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 13
“Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc tác phẩm “Truyền kì mạn lục” (ghi chép tản mạn những điều kỳ lạ vẫn được lưu truyền), được viết ở thế kỉ XVI. Tác phẩm này có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian “Vợ chàng Trương”. Nhưng điều làm nên sự khác biệt cho tác phẩm chính là tư tưởng mà nhà văn muốn gửi gắm trong câu chuyện.
Vũ Nương vốn là một người phụ nữ “người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Những tưởng con người ấy sẽ có được cuộc sống hạnh phúc nhưng nàng lại gặp phải nhiều xấu số. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đã thể hiện tấm lòng trân trọng của tác giả đối với những vẻ đẹp dung dị, cao cả của người phụ nữ cũng như đồng cảm với những xấu số mà thế cuộc họ phải hứng chịu.
Người phụ nữ Việt Nam muôn thuở nay được ngợi ca bởi vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo và tâm hồn hồn hậu bao dung. Người phụ nữ hiện lên trong “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng vậy. Đó là nàng Vũ Nương đẹp nết đẹp người và đầy tự trọng.
Nàng có một “tư dung tốt đẹp” nức tiếng xa sắp. Chẳng vậy mà Trương Sinh – một người “con nhà hào phú” phải xin mẹ trăm lạng vàng rước nàng về làm vợ. không những vậy, nàng còn là người phụ nữ hiền hậu nết na, người vợ hiền, dâu thảo, người mẹ thương con.
Trong mối quan hệ vợ chồng hằng ngày, biết chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Vũ Nương đã luôn “giữ gìn mực thước, không lần nào vợ chồng phải tới nỗi thất hoà”. Hai vợ chồng chia ly, Vũ Nương một lòng nghĩ tới sự an nguy của chồng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. […] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. tương tự là nàng không hề nghĩ tới vinh hoa phú quý, chỉ nghĩ tới chân tình với tình vợ chồng keo sơn. Xa chồng, Vũ Nương thuỷ chung, tấm lòng luôn tha thiết hướng về chồng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”.
Trương Sinh trở về, nghi cho Vũ Nương một cái oan thảm khốc và sử dụng những lời lẽ tàn nhẫn mà nhiếc móc nàng. Nhưng ngay cả khi ấy, Vũ Nương vẫn nói năng đúng mực, tha thiết thổ lộ nỗi niềm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng tận tình săn sóc mẹ chồng lúc ốm đau: “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên nhủ”. Khi mẹ chồng mất, nàng thương yêu, lo lắng vẹn toàn: “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, tính liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Tấm lòng nàng dành cho mẹ chồng khiến bà cảm động để khi mất, những lời cuối cùng thiêng liêng của thế cuộc bà dành để chúc phúc cho con dâu. Xưa nay, trong dân gian vẫn lưu truyền câu nói “mẹ chồng con dâu” để chỉ mối quan hệ vốn không yên ấm giữa hai đối tượng này nhưng qua thái độ của người mẹ chồng đối với Vũ Nương người đọc thấu hiểu tấm lòng chân tình, sâu sắc đối với mẹ chồng của nàng.
Với con, Vũ Nương đã hết sức nuôi dạy, dạy bảo, thương yêu và chiều chuộng con (để tới nỗi một trong những hành động vô tư của nàng đã trở thành nguyên nhân buộc nàng tự vẫn…).
Không chỉ vậy, với tư cách là một tư nhân trong xã hội, ở Vũ Nương còn vượt trội lên lòng tự trọng đầy cảm động. Bị chồng hiểu lầm, bị hàm oan tức tưởi, dẫu vẫn còn thèm khát hạnh phúc trần gian nhưng Vũ Nương đã lựa chọn cái chết để chứng minh phẩm tiết trong sạch của mình. Hành động này cho thấy lòng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự, tiết hạnh ở người phụ nữ đáng trân trọng này.
Ngợi ca vẻ đẹp của “người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã góp tiếng nói chung vào cảm hứng ngợi ca người phụ nữ đầy nhân văn của văn học trung đại. kế bên Vũ Nương của Nguyễn Dữ ta còn có thể kể tới chị em Thúy Kiều, Thúy Vân của Nguyễn Du, người chinh phụ trong thơ của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm…
Nhưng trong xã hội phong kiến thời kỳ suy sụp, thối nát, cái đẹp thường đi liền với nỗi xấu số và những tai họa khôn lường: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Khi ấy, văn học lại đựng lên tiếng nói đồng cảm với những thân phận bị “gió dập sóng vùi” chẳng biết “tấp vào đâu”. Nàng Vũ Nương của Nguyễn Dữ cũng phải hứng chịu nhiều xấu số.
Trước hết, nàng có một cuộc hôn nhân không được lựa lựa chọn. Với vẻ đẹp vốn có, đúng ra nàng phải được kén một tấm chồng đức tài tương xứng. Nhưng đáng tiếc thay, thế cuộc lại chỉ dành cho nàng một gã Trương Sinh. Đó là một kẻ vô học nhưng giàu có “con nhà hào phú” đã “xin mẹ trăm lạng vàng” lấy nàng về làm vợ. Người phụ nữ vẹn toàn này không có quyền lựa lựa chọn cho mình một người chồng tương xứng. Cuộc hôn nhân của nàng do vàng bạc mở đường, đó như một cuộc trao đổi, mua bán đầy tính thương nghiệp.
Về tới nhà chồng, Vũ Nương phải hết sức giữ gìn trước con người rất mực đa nghi của Trương Sinh: “Đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Nhưng hạnh phúc phải do cả hai bên vợ chồng cùng đắp vun giữ gìn. Sau mấy năm dài đằng đẵng ngóng trông chồng về, cái giá Vũ Nương nhận được thật quá đau xót.
Khi chồng đi lính, đêm đêm để con đỡ tủi và lòng mình đỡ nhớ, Vũ Nương chỉ bóng mình trên vách rồi bảo con đó là cha nó. Nhưng thiện ý của nàng đã bị hiểu lầm. Nghe con nói kể về người cha đêm đêm vẫn tới của nó, Trương Sinh với tính đa nghi sẵn có đã hiểu oan cho tấm lòng thủy chung của Vũ Nương. Chàng ta vội nghe lời con trẻ mà không suy xét đúng sai: “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. Rồi hồ đồ, độc đoán không đếm xỉa tới những lời thanh minh của vợ, đối xử tệ bạc, vũ phu với Vũ Nương: “Chỉ lấy chuyện xa xôi này nọ mà nhiếc mắng nàng, và đánh đuổi đi”.
Trước nỗi oan không gì giãi bày được (vì Trương Sinh không nói rõ nguyên cớ việc nổi nóng của mình), thế cuộc Vũ Nương bế tắc: nếu như sống thì phải mang cái tiếng phản chồng đầy ô nhục. Bởi vậy, dẫu vẫn còn thèm khát vương vấn hạnh phúc trần gian, nàng đành chấp nhận cái chết, trẫm mình xuống sông Hoàng Giang.
Thân phận nhỏ nhoi, bọt bèo của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến là vậy, họ không được làm chủ cuộc sống của mình, luôn luôn là kẻ tiêu cực, hứng chịu những oan khiên, đắng cay. Số phận xấu số của Vũ Nương gợi tới bao phong ba bão táp đã đi qua thế cuộc của những Đạm Tiên, Thúy Kiều, Tiểu Thanh, người cung nữ, người chinh phụ… trong văn học trung đại.
Nhưng nếu như chỉ ngừng lại ở đó, tác phẩm của Nguyễn Dữ không tiến xa hơn câu chuyện dân gian là mấy. Nguyễn Dữ đã vô cùng trằn trọc với số phận của người con gái đa đoan trong tác phẩm của mình. Tin tưởng và yêu mến nhân vật, nhà văn đã để nàng gửi mình chốn cung mây dưới nước của Linh Phi. Chốn ấy dẫu chẳng được sum vầy cùng con trẻ, người thân song vẫn là nơi biết trọng những tâm hồn trong đẹp. Vũ Nương trở về nhân gian trong ánh sáng lung linh kì ảo của ánh nến, mặt nước diệu kỳ.
Ngoài nhân vật Vũ Nương, ta cũng không thể quên một Trương Sinh hồ đồ đã đẩy người đầu gối tay ấp với mình tới chỗ chết. Trương Sinh là con nhà trọc phú, lại ít học cũng như đa nghi. Do ít học nên khi chiến tranh xảy ra tuy nhà giàu có nhưng Trương Sinh vẫn phải đi lính. Do đa nghi, hay ghen đã làm cho Trương Sinh mờ mắt, chỉ nghe lời từ đứa con thơ ngây không chịu nghe lời phân trần của vợ. Trương Sinh là người trực tiếp đẩy Vũ Nương vào thảm kịch và phải tìm tới cái chết. tới khi hiểu ra và hối hận thì đã quá muộn màng.
kế bên nội dung, tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, chi tiết mang tính thắt nút, đẩy câu chuyện lên cao trào, đỉnh điểm: cái bóng trở thành chi tiết thắt nút cũng như cởi nút cho diễn biến tác phẩm. Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: việc dẫn dắt tình huống hợp lý. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn. Bước đầu nhà văn đã trình bày nội tâm nhân vật khá phong phú.
Qua tìm hiểu trên, có thể thấy “Chuyện người con gái Nam Xương” là một tác phẩm giàu trị giá của nhà văn Nguyễn Dữ.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 14
Nguyễn Dữ là một gương mặt tiêu biểu tiêu biểu cho nền văn học trung đại Việt Nam ở thế kỉ thứ XVI. Mặc dù, sự nghiệp sáng tác văn học của Nguyễn Dữ chỉ vẻn vẹn có tập truyện “Truyền kì mạn lục” nhưng tập truyện lại có một vị trí đặc biệt, được đánh giá là “thiên cổ kì bút” (bút lạ nghìn đời), “là áng văn hay của bậc đại gia”. Đây là tập truyện viết bằng chữ Hán, khai thác những truyện cổ dân gian và những truyền thuyết lịch sử, dã sử Việt Nam. “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ 16, trong tổng số 20 truyện của “Truyền kì mạn lục”. Thông qua thảm kịch Vũ Nương, nhà văn đã thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan trái của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn độc đáo, đánh dấu sự thành công về nghệ thuật dựng truyện; khắc họa trình bày nhân vật và sự phối hợp giữa tự sự với trữ tình, giữa yếu tố hiện thực và kì ảo.
Trước hết, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã khắc họa thành công vẻ đẹp truyền thống và số phận oan trái của người phụ nữ đương thời. Điều này được thể hiện qua nghệ thuật dựng truyện và xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương là một người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ thời kì phong kiến: “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Trương Sinh vì cảm mến cái dung hạnh ấy nên đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về làm vợ. Sau đó, nhà văn tập trung làm vượt trội vẻ đẹp tiết hạnh của nàng, bằng việc đặt Vũ Nương vào rất nhiều hoàn cảnh, tình huống và những mối quan hệ xung quanh như với chồng, với mẹ chồng và với đứa con trai tên là Đản, từ đó góp phần bộc lộ trọn vẹn tính cách, phẩm hạnh của nàng.
trước hết là Vũ Nương trong mối quan hệ với người chồng – Trương Sinh. Nàng hiện lên là một người vợ nhất mực thủy chung, yêu thương chồng tha thiết. Trong cuộc sống vợ chồng thông thường, khi mới lấy nhau, nàng hiểu tính chồng có thói đa nghi, thường ngừa vợ quá mức nên Vũ Nương đã cư xử khéo léo, đúng mực, nhường nhịn và giữ đúng mực thước, không bao giờ để xảy ra nỗi bất hòa trong gia đình. vì vậy, chúng ta có thể thấy, nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình và rất tiết hạnh. Khi người chồng chuẩn bị đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy và dặn dò Trương Sinh bằng những lời nói đầy tình nghĩa, thắm thiết. Nàng không mong vinh hiển, chỉ cần chồng mang về hai chữ “bình yên”. Ở nhà, Vũ Nương thương nhớ chồng da diết. Mỗi lần thấy “bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” nàng lại cảm thấy “thổn thức tâm tình”, thương nhớ chồng nơi biên ải xa xôi. Tiết hạnh của nàng còn được khẳng định khi nàng bị chồng nghi oan: “cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót…”. Khi Trương Sinh đi lính trở về, một mực khăng khăng nghĩ rằng nàng thất tiết, Vũ Nương đã ra sức phân trần để cho chồng hiểu, nói lên thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê và khẳng định một lòng nhất mực thủy chung, son sắt với chồng. Thậm chí, nàng còn cầu xin chồng “đừng nghi oan cho thiếp”. tức là Vũ Nương đang ra sức giữ gìn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Điều đó cho thấy nàng thực sự rất trân trọng hạnh phúc gia đình mà mình đang có và càng làm vượt trội lên niềm khát khát hướng tới hạnh phúc gia đình ấm êm của người phụ nữ Vũ Nương.
Tiếp tới, Vũ Nương trong mối quan hệ với mẹ chồng và bé Đản. Nàng hiện lên là một người con hiếu thảo, một người mẹ rất mực tâm lý, yêu thương con cái. Chồng đi lính, ở nhà, nàng một mình sinh con, nuôi dạy con, vừa đóng vai trò là một nguời mẹ, lại vừa đóng vai trò là một người cha. Nàng sợ con mình thiếu thốn tình cảm của người cha nên đêm đêm thường mượn bóng mình, chỉ vào tường mà bảo là cha Đản. Nàng thay chồng làm tròn trách nhiệm, trách nhiệm của một người con hiền, dâu thảo: săn sóc, thuốc thang, lễ bái thần Phật, tận tình khuyên nhủ mẹ chồng. tới khi mẹ chồng mất, nàng tổ chức ma chay tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình vậy. vì vậy, bà mẹ chồng đã viện cả trời xanh để chứng minh cho lòng hiếu thảo của cô con dâu: “Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Điều đó đã cho thấy tư cách tuyệt vời và công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia đình nhà chồng này.
tương tự, một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đảm đang, hiếu thảo, nhất mực thủy chung và tận tình vun vén, trân trọng hạnh phúc gia đình như thế, đáng lẽ ra phải thừa hưởng hạnh phúc trọn vẹn, tìm được một người chồng tâm lý, thông cảm và sẻ chia những nỗi toan lo cho vợ, nhưng thật oái oăm và nghịch lý thay, nàng lại phải chịu một cuộc sống gia đình xấu số và phải chết trong đớn đau, xót xa, đầy nước mắt. Đó là khi Trương Sinh sau ba năm đi lính trở về, bé Đản không chịu nhận cha, nghe lời nói của con “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng tới, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”, Trương Sinh nhất nhất nghĩ rằng “vợ hư”. Mặc dù Vũ Nương đã tìm cách để giảng giải lại thêm họ hàng, thôn xóm bênh vực và biện bạch cho nàng nhưng mối nghi ngờ vợ của Trương Sinh ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được. Cuối cùng “cái thú vui nghi gia nghi thất” đã không còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau chờ chồng tới hóa đá cũng không còn có thể được: “đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Nàng đã trẫm mình xuống dòng nước Hoàng Giang lạnh lẽo. Đó là hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, phẩm giá trong một nỗi đau vô vọng cùng cực, đớn đau.
Vậy đâu là nguyên nhân dẫn tới cái chết oan trái của Vũ Nương. Đó trước hết là do chi tiết cái bóng và những lời nói thơ ngây của bé Đản. Nhưng nguyên nhân sâu xa đằng sau đó là từ người chồng đa nghi, thô bạo. Ngay từ đầu truyện, nhà văn đã giới thiệu Trương Sinh là “con nhà hào phú nhưng không có học”, lại có tính đa nghi, đối với vợ thì hay phòng ngừa quá mức, thiếu cả lòng tin và tình thương với người tay ấp má kề với mình. Đó chính là mầm mống của thảm kịch để rồi trong hoàn cảnh đi lính ba năm xa nhà, xa vợ, thói ghen tuông, ích kỷ của bản thân chàng nổi lên và làm thịt chết người vợ của mình. Đồng thời, chế độ phong kiến khắc nghiệt, nam quyền độc đoán đã dung túng cho thói gia trưởng của người đàn ông, cho phép người đàn ông có thể đối xử tệ bạc với người phụ nữ của mình. Và người phụ nữ không có quyền được lên tiếng, không có quyền tự bảo vệ ngay cả khi có “họ hàng, thôn xóm bênh vực và biện bạch cho”… Tất cả đã đẩy Vũ Nương – người phụ nữ đẹp đương thời vào trục đường thảm kịch, phá tan đi những hạnh phúc gia đình của người phụ nữ, dồn đẩy họ vào trục đường cùng không lối thoát.
Cũng cần nói thêm, sự thành công của “Chuyện người con gái Nam Xương” còn được thể hiện ở chỗ, Nguyễn Dữ đã khéo léo dẫn dắt câu chuyện trên cơ sở cốt truyện có sẵn, ông đã sắp xếp lại, tô đậm, thêm bớt làm cho câu chuyện trở nên sinh động, mang tính kịch và tăng cường tính thảm kịch. Có thể nói, dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã có sự thành công vượt bậc so với bản kể dân gian “Vợ chàng Trường”. Điều này được thể hiện qua chi tiết chiếc bóng và lời nói của bé Đản. Từ đó, tạo nên sự thắt nút và mở nút của câu chuyện, làm câu chuyện trở nên hấp dẫn, tình tiết lôi cuốn, chặt chẽ. trước hết là “thắt nút” câu chuyện: chỉ một câu nói thơ ngây của một đứa trẻ lên ba nói với cha mà như một cơn bão dây chuyền, đã tạo nên biết bao nhiêu là giống lốc thế cuộc, lật nhào hết tất cả mọi sự bình yên thủa trước. Để rồi, trong một chốc nóng giận, thói nghi kị trong lòng người đàn ông độc đoán, chuyên quyền đã phá tan đi hạnh phúc yên ấm mà mình đang có; đẩy thế cuộc của người phụ nữ đẹp người, đẹp nết vào cái chết thương tâm, thấm đẫm nước mắt. Và cũng thật bất thần thay, câu chuyện lại được “gỡ nút” bằng một câu nói trẻ thơ non dại. Khi thấy cái bóng của Trương Sinh in trên vách, bé Đản liền nói: “Cha Đản lại tới kia kìa!” thì bao nhiêu oan khúc lại được lật nhào sáng tỏ. Vũ Nương vô tội!
không những thế, truyện còn thành công trong việc sử dụng nghệ thuật hội thoại, lời tự bạch của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc họa diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật: lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân tình, dịu dàng, mềm mỏng, có lý, có tình – lời của người phụ nữ hiền thục, đoan trinh; lời của Bé Đản hồn nhiên, thơ ngây, thiệt thà.
Cuối truyện, Vũ Nương hiện về thấp thoáng trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, võng lọng, cờ kiệu rực rỡ đầy sông, nàng nói lời đa tạ Linh Phi và tạ từ Trương Sinh rồi biến mất. Đây là những chi tiết, hình ảnh thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Dữ về mặt kết cấu truyện bằng việc sử dụng yếu tố kì ảo, hoang đường, góp phần tăng thêm trị giá hiện thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, làm nên đặc trưng của thể loại truyền kì. nếu như như trong truyện kể dân gian, sau khi Vũ Nương chết, Trương Sinh tỉnh ngộ, trông thấy sai phép của mình thì cũng là lúc truyện cổ tích khép lại, điều đó đã để lại niềm xót xa đớn đau cho người đọc về thân phận xấu số oan khiên của người phụ nữ tiết hạnh, thì trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, ông đã sáng tạo thêm phần đuôi của truyện, góp phần làm lên những trị giá thẩm mĩ và tư tưởng mới của truyện. Đó là làm hoàn thiện thêm nét đẹp tính cách, phẩm chất của nhân vật và chứng tỏ được Vũ Nương trong sạch. Ở toàn cầu bên kia, nàng được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. vì vậy, Nguyễn Dữ đã khắc phục được ước mơ của con người về sự bất tử, sự thắng lợi của cái thiện, cái đẹp, thể hiện nỗi khát khao hạnh phúc trong một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ đương thời.
Tóm lại, “Truyền kì mạn lục” nói chung và “Chuyện người con gái Nam Xương” nói riêng của Nguyễn Dữ là một tác phẩm độc đáo, đánh dấu một bước phát triển đột khởi của nền văn xuôi tự sự chữ Hán trong nền văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm đã đạt được thành tựu nghệ thuật vượt trội trên ba phương diện: xây dựng tình tiết, kết cấu; xây dựng nhân vật; sự phối hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo. Thông qua thế cuộc và số phận xấu số của Vũ Nương, tác giả đã phản ánh số phận bi thương của người phụ nữ phong kiến, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ. Đồng thời, thể hiện thái độ phê phán đối với một xã hội phi nhân đã gây ra biết bao khổ đau cho con người. Mặc dù truyện cũng cách xa chúng ta vào thế kỉ rồi nhưng tính thời sự của truyện vẫn còn vang vọng tới ngày ngày hôm nay.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 15
“Truyền kỳ mạn lục” là một tác phẩm có trị giá của văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán trước hết ở Việt Nam. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan trinh, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, phục dịch mẹ chồng, săn sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa. Khi trở về vì nghe lời thơ ngây của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi. Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang. Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn tẩy oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong giây khắc rồi trở lại Long Cung.
Chuyện ca tụng một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong sáng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện ghen tuông vớ vẩn của người chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm tới cái chết để giải nỗi oan tình.
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, từ đó bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có tư dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn mực thước, không để vợ chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi thổ lộ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được sum họp … làm mọi người trong tiệc đều ra hai hàng lệ.
Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung, “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong đơn chiếc mòn mỏi “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tụy săn sóc khi mẹ chồng còn sống, chôn đựng mẹ chồng khi mẹ qua đời (tính liệu như đối với mẹ đẻ mình).
Rồi đằng đẵng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó … mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói tới thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, tận tình tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, thôn xóm có bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. cùng bất đắc dĩ Vũ Nương thống thiết: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng … đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm thèm khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi khổ cực chờ chồng giờ đây hóa đá….
vô vọng vì phải gánh chịu nỗi oan khúc tày trời không phương giãi bày, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu như đoan trang giữ tiết, trinh trắng gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ. Nhược hài lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa – con người rơi tình cảnh bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự tẩy oan tình mà phải tìm tới cái chết để thần linh chứng giám.
Sau một năm ở thuỷ phủ, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ tới câu “ngựa Hồ gầm gió Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng nước cho thỏa lòng nhớ chồng, con.
Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam – một người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, tận tình vun đắp hạnh phúc gia đình… lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn vậy mà phải chết một cách oan uổng, đớn đau.
Cái chết của Vũ Nương có rất nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm khổ đau bao thế cuộc những người phụ nữ.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không đồng đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Sinh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “Trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng tới…”
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy. Không đủ tĩnh tâm để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, thôn xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại nhiếc mắng nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương Sinh vô hình dung dẫn tới cái chết oan trái của Vũ Nương.
Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt trong phạm vi khó tính của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau, xấu số. Đó cũng chính là trị giá tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam Xương, còn bao nhiêu oan tình xấu số mà người phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, người cung nữ trong “cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương…
Phải nhận thấy rõ ràng với truyện ngắn trước hết viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những đoạn hội thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất thần, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm khốc.
“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất thần. Một câu nói thơ ngây nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong thế cuộc. Bão tố nghi kỵ trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiến phá nát thế cuộc của một người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trên một dòng sông.
“Gỡ nút” cũng bất thần bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của chàng Trương trên vách: “cha Đản lại tới kia kìa”) thì bao nhiêu oan gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn hội thoại và những lời tâm tình của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc họa diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân tình, dịu dàng, mềm mỏng, có lý, có tình – lời của người phụ nữ hiền thục, đoan trinh; lời của Bé Đản hồn nhiên, thơ ngây, thiệt thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những trị giá tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hút của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, người tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại thuỷ phủ, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên sông… đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một toàn cầu nghệ thuật lung linh huyền ảo.
Số phận và thế cuộc thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì không thể cứu được thế cuộc Vũ Nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà không thể trở về được.
Truyện “Người con gái Nam Xương” có trị giá hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh trong những tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ trị giá cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp ngày hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ thế cuộc, sống đồng đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao phẩm giá trong xã hội của thời đại mới.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 16
Nguyễn Dữ là người học rộng tài cao, ông sống trong thời gian nhà Lê khởi đầu khủng hoảng, những tập đoàn phong kiến tranh quyền, đoạt vị với nhau. Bởi vậy ông ra làm quan không lâu sau đó lui về ở ẩn. Thời gian lui về ở ẩn, ông sưu tầm những truyện dân gian để sáng tác lại thành tập “Truyền kì mạn lục”. Trong số hai mươi truyện của truyền kì mạn lục, vượt trội nhất là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Tác phẩm vừa giàu trị giá hiện thực vừa thể hiện trị giá nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Tác phẩm xoay quanh số phận và thế cuộc nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương là người con gái xinh đẹp: “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, nàng mang vẻ đẹp toàn diện cả về phương thức và tâm hồn. Nàng là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Chi tiết Trương Sinh “mến về dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về” càng nhấn mạnh, tô đậm hơn nữa vẻ đẹp nhan sắc và phẩm hạnh của nàng.
Vũ Nương là người mang trong mình nhiều phẩm chất cao quý. Trước hết, nàng là một người vợ, người mẹ đảm đang, người con dâu hiếu thảo, tận tụy với mẹ chồng. Khi chồng đi lính, thân là phụ nữ nhưng nàng đã một mình đứng ra gánh vác công việc gia đình. Mẹ chồng già yếu, nhớ con mà đổ bệnh nàng hết sức săn sóc, “thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên nhủ” mong cho mẹ mau mau khỏi bệnh.
Trong xã hội phong kiến xưa, mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu thường chỉ mang tính chất ràng buộc, ông cha ta vẫn thường có câu: “Trời mưa ướt lá đài bi/ Con mẹ, mẹ xót, xót gì con đâu” hay “thiệt thà cũng thể lái trâu/ Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng”,…
Nhưng những lời bà mẹ trăng trối cuối cùng trước khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân tình, sâu nặng của Vũ Nương với mẹ chồng. Những lời cảm tạ của bà mẹ đã cho thấy tấm lòng yêu thương rất mực của nàng với bà bởi vậy bà cũng coi Vũ Nương như con gái của mình vậy. Mấy người nào trong xã hội đó lại được lòng mẹ chồng yêu mến tới tương tự. Khi bà mất, nàng lo tang ma chu đáo như cho cha mẹ đẻ của mình.
Qua những hành động đó ta thấy Vũ Nương là nàng dâu hết sức nết na, hiếu thảo, tiếng thơm của nàng còn để lại mãi muôn thuở.Không chỉ vậy nàng còn là người vợ nết na, thủy chung, giàu lòng vị tha. Khi mới cưới, Vũ Nương hiểu rõ chồng mình có tinh đa nghi, hay ghen và hay phòng ngừa quá mức, bởi vậy nàng luôn giữ gìn mực thước, để hai vợ chồng không phải chịu cảnh bất hòa. Chính vậy, trong suốt những năm tháng chung sống bên nhau, trước khi Trương Sinh ra trận gia đình nàng luôn được sống trong cảnh đầm ấm, hạnh phúc.
Ngày Trương Sinh ra trận, tiễn chồng những lời dặn dò không phải công danh phú quý mà là “chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ba năm xa chồng, một mình sinh con, nàng nhớ chồng khôn nguôi, nàng bỏ cả trang điểm, dành tất cả thời gian săn sóc gia đình, làm tròn trách nhiệm của người vợ, người mẹ. Ngay cả khi Trương Sinh trở về nghi ngờ nàng thất tiết nàng cũng chỉ biết khóc và thanh minh bằng những lời lẽ tha thiết, dịu dàng mong chồng hiểu cho tấm lòng của mình.
Khi bị chồng nghi oan, nhiếc mắng, đánh đuổi đi, không cho thời cơ giãi bày, giảng giải nàng chỉ khổ cực, quyết tâm thanh minh mà không hề oán hận với người chồng hẹp hòi, ích kỉ. Được Linh Phi cứu, sống thế cuộc nhàn nhã, bất tử nhưng lòng nàng lúc nào cũng hướng về quê hương, về gia đình bé nhỏ của mình. Việc nàng gặp lại Phan Lang dưới thủy cung và gửi chiếc xoa về cho chồng cho thấy nàng đầy vị tha, sẵn sàng tha thứ cho chồng.
Khoảnh khắc ẩn hiện, mờ ảo trên bến sông Hoàng Giang, Vũ Nương không một lời oán hận, trách móc: “Đa tạ tình chàng. Thiếp không thể trở về nhân gian được nữa”. Qua đây ta có thể thấy, Vũ Nương không chỉ là người phụ nữ tiết hạnh, người con dâu tốt nết mà còn là một người phụ nữ bao dung, giàu lòng vị tha với người chồng đã đẩy tới bước đường cùng. Vũ Nương là hiện thân cho vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam thảo hiền, tiết hạnh.
Mặc dù mang trong mình đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp để thừa hưởng cuộc sống êm đềm, hạnh phúc nhưng thế cuộc Vũ Nương lại đầy oan trái, trái ngang. khởi đầu ngay từ cuộc hôn nhân của nàng, không có sự đăng đối giữa hai gia đình, về phẩm chất giữa hai con người: nàng tụ họp đầy đủ vẻ đẹp phẩm chất: công-dung-ngôn-hạnh, nhưng Trương Sinh lại là kẻ ít học, đa nghi, hay ghen.
Lấy chồng không bao lâu, Trương Sinh phải đi lính, nàng sống trong nỗi đơn chiếc, vất vả: gánh vác việc gia đình, nuôi dạy con thơ và săn sóc mẹ già; nỗi nhớ chồng, lo lắng cho chồng nơi biên ải tha thiết sớm hôm. tới khi chồng về lại phải gánh nỗi oan lạ, oan thất tiết mà không có thời cơ tìm hiểu nguyên do. Cuối cùng nàng đã phải lấy cái chết để chứng minh tấm lòng thủy chung, trong sạch của mình. Đây là phản ứng dữ dội và quyết liệt của Vũ Nương để bảo vệ phẩm giá cũng như cho thấy nỗi xấu số tột cùng của nàng.
Dù sống bất tử dưới thủy cung nhưng nàng không hề hạnh phúc, bởi hạnh phúc thực sự của con người là ở trần thế, được chung sống, thừa hưởng không khí đầm ấm của gia đình. Nhưng điều ấy đối với nàng mãi mãi không thể làm được nữa. Thân ở thủy cung, lòng lại một mực hướng về dương gian, nơi có chồng, có con khiến cho nỗi xấu số của nàng càng được đậm tô hơn nữa. Vũ Nương là tiêu biểu cho phận bạc của biết bao phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, nặng nề lễ giáo phong kiến.
Ngoài nhân vật Vũ Nương, ta cũng không thể quên một Trương Sinh hồ đồ đã đẩy người đầu gối tay ấp với mình tới chỗ chết. Trương Sinh là con nhà trọc phú, ít học, tính tình cục cằn, hay ghen. Cũng bởi do ít học nên khi chiến tranh xảy ra anh ta là người trước hết trong danh sách đi lính. Cũng bởi tính đa nghi, hay ghen đã làm cho Trương Sinh mờ mắt, chỉ nghe lời từ đứa con thơ ngây không chịu nghe lời phân trần của vợ.
Chính Trương Sinh là người đã trực tiếp đẩy Vũ Nương phải tìm tới cái chết. Khi hiểu ra mọi chuyện thì đã quá muộn màng. Trương Sinh phải ôm nỗi ăn năn, nỗi đau trong suốt phần đời còn lại. Trương Sinh chính là đại diện tiêu biểu cho những người đàn ông vũ phu, những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt đã đẩy người phụ nữ rơi vào thảm kịch.
Tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, chi tiết mang tính thắt nút, đẩy câu chuyện lên cao trào, đỉnh điểm: cái bóng là mấu chốt của câu chuyện, là chi tiết thắt nút cũng như cởi nút cho diễn biến tác phẩm. Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: dẫn dắt tình huống hợp lí. phối hợp hài hòa giữa hiện thực và kì ảo. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn, nhân vật được trình bày nội tâm khá phong phú. Những yếu tố đó góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Chuyện người con gái Nam Xương thấm đẫm trị giá hiện thực và nhân đạo. Tác phẩm là tiếng nói cảm thương cho số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời cũng lên án tố cáo xã hội nam quyền và chiến tranh phi nghĩa đã tước đoạt hạnh phúc và đẩy con người tới bước đường cùng.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 17
đớn đau thay phận phụ nữ,
Lời rằng bạc phận cũng là lời chung.
Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia đúng như nhận định của Nguyễn Du. Người phụ nữ dù được sinh ra trong gia đình thuộc thành phần giai cấp nào, dù tốt đẹp nết na cũng đều cùng chung số phận “bạc phận” như nhau. Số phận hẩm hiu đáng thương ấy đã được những nhà văn phản ánh lại trong tác phẩm của mình.
có nhẽ tiêu biểu nhất là Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, một tác phẩm nổi tiếng của thế kỉ XVI (Trong tập Truyền kì mạn lục). Đây là một tác phẩm có trị giá sâu sắc về nhiều mặt và đã gây được xúc cảm trong lòng người đọc ở mọi thế hệ.
Chuyện người con gái Nam Xương là một tác phẩm có trị giá hiện thực sâu sắc. Xã hội thời ấy là một xã hội tao loạn, chiến tranh xảy ra liên miên đã làm cho cuộc sống của người dân thật điêu linh khốn khổ. Vì vậy mà họ rất chán ghét chiến tranh. Qua buổi tiễn đưa Trương Sinh ra trận, với những lời dặn dò của bà mẹ, lời tâm sự của Vũ Nương với chồng, ta cũng thấy được thái kinh độ sợ chiến tranh của người dân lúc bấy giờ.
Chính chiến tranh đã làm cho vợ phải xa chồng, cha phải xa con… và nó còn là nguyên nhân gây ra bao nỗi xấu số cho người 1 vợ nữa. Trương Sinh đi lính, Vũ Thị Thiết ở nhà một mực thủy chung với chồng, thay chồng gánh vác hết mọi công việc gia đình: sinh con, săn sóc mẹ chồng, toan lo mọi công việc trước sau. Mẹ chồng bệnh lo thuốc thang, mẹ mất lo ma chay, cúng tế tử tế.
Vậy mà khi chồng trở về, nàng chưa được vui sum họp lại gặp tai họa bất thần. Bởi anh chồng thất học lại có tính đa nghi, ghen tuông mù quáng chỉ nghe theo lời đứa trẻ thơ ngây không biết xét suy đã vội nghi oan cho vợ. Chỉ vì “cái bóng” vô hình mà Vũ Nương bị mắc oan. Nỗi oan động đất trời lại không thể giãi bày được cùng người nào. Bởi cái lễ giáo phong kiến, cái thế lực nam quyền không cho phép người phụ nữ được lên tiếng thân oan. Họ không có một quyền hành gì cả, không được người nào bênh vực hay chở che. Cuối cùng nàng phải mang mối oan tình xuống dòng nước bạc.
Số phận của người phụ nừ trong xã hội phong kiến là như thế đó! Sợi dây lễ giáo trói buộc người phụ nữ, họ phải mang số phận “bạc phận” tới hết thế cuộc. Thậm chí khi được tẩy oan, dẫu Vũ Nương rất thương nhớ chồng con nhưng cũng không thể nào trở lại thiên hạ được vì nơi đó luôn gieo tai họa cho người phụ nữ. Đây là một chi tiết mang trị giá tố cáo cao.
Nó khẳng định được thực chất xấu xa của xã hội phong kiến, một nhà tù giam hãm thế cuộc của người phụ nữ suốt bao thế kỉ. Cả tác phẩm là một bức tranh hiện thực sinh động phản ánh được thân phận đáng thương của người phụ nữ trong xã hội xưa kia.
Đằng sau nỗi khổ của Vũ Nương, ta còn thấy tấm lòng nhân đạo đáng quý của nhà văn. Xuất phát từ tấm lòng yêu thương trân trọng người phụ nữ, Nguyễn Dữ tập trung ca tụng phẩm chất tốt đẹp của người con gái Nam Xương: đảm đang, hiếu nghĩa, thủy chung. Khi chồng đi lính, nàng một mình làm hết cả vai trò của chồng lẫn vợ không một tẹo than vãn: nuôi dạy con thơ, săn sóc mẹ già.
Nàng luôn giữ trọn đạo hiếu đối với cha mẹ, thờ cúng mẹ chồng như mẹ ruột. Đối với chồng, trước sau nàng vẫn giữ trọn tình nghĩa. Biết chồng vốn tính đa nghi, “nàng cũng giữ gìn mực thước, không từng để lúc nào vợ chồng phải tới bất hòa”. Khi bị chồng nghi oan, không thể giãi bày được, nàng đã lấy cái chết để chứng thực tình nghĩa của mình.
Lời nguyện thề của Vũ Nương trước khi chết cũng chứng tỏ được tấm lòng trong trắng, thủy chung của nàng. “Thiếp nếu như đoan trang giữ tiết, trinh trắng gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược hài lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Vũ Nương tin ở tấm lòng thủy chung trong trắng của mình nên sau khi chết đã được như lời nguyền.
Tiết nghĩa của người con gái Nam Xương như thế! Câu chuyện càng thương tâm, tấm lòng nàng lại càng sáng tỏ. Vũ Thị Thiết là hiện thân của tâm hồn cao đẹp. Trong lòng nàng như không hề gợn một mảy may vẩn đục nào ngoài lòng yêu thương chồng, thương con. ý thức nhân đạo của tác phẩm còn bộc lộ rõ rệt trong việc phản ánh nỗi oan của Vũ Nương. Trong khi chế độ phong kiến khinh thường quyền sống của người phụ nữ, không hề quan tâm tới nỗi khổ của họ, nguyện vọng của họ, thì truyện ngắn này đã đề cập tới nỗi khổ ấy, xót thương tới nỗi oan ấy.
không những thế, Nguyễn Dữ còn đề cao một khát vọng của họ: được tôn trọng. Sau khi vợ chết không chỉ chàng Trương hiểu ra nỗi oan của nàng và lập đàn tẩy oan, mà tấm lòng trong sáng thủy chung ấy, nỗi khổ ấy còn cảm động tới thần linh. Hình ảnh “Vũ Nương ngồi kiệu hoa, theo sau đó có hơn năm mươi chiếc xe, cờ tán võng lọng rực rỡ” thật là đẹp đẽ. Đó là phần thưởng, là niềm yên ủi cho nàng. Đồng thời nó cũng thể hiện được ước mơ của tác giả, của nhân dân ta ngày xưa.
không những thế, truyện còn có rất nhiều thành công về mặt nghệ thuật.
Đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện giàu kịch tính. Những chỗ thắt nút, mở nút, bất thần mà vẫn hợp lí. Người đọc bất thần vì những câu nói thơ ngây của đứa trẻ lần đầu gặp cha, sửng sốt và thương tâm trước cái chết của người vợ, càng sững sờ khi đọc tới chi tiết: đứa con chỉ bóng cha in trên vách mà nói: “Cha Đản lại tới kia kìa!”. Thì ra nguyên nhân nỗi khổ cực, nỗi oan ức của một con người, sự tan nát của một gia đình chỉ vì một “cái bóng” qua lời nói của trẻ thơ. Chính chi tiết đó làm nỗi oan nổi rõ lên với tất cả cái bi thảm của nó.
những nhân vật trong truyện tuy chưa thật sự có cá tính rõ rệt nhưng cũng biểu hiện được với một vài đặc điểm khá sắc sảo: đứa trẻ thì vô tư, người vợ thảo hiền thủy chung cam chịu, người chồng vừa nóng tính hay ghen lại vừa cả tin nhẹ dạ. Truyện lại phối hợp chất hiện thực với những yếu tố hoang đường kì diệu gây hứng thú cho người đọc.
Tuy nhiên do được viết bằng chữ Hán, với những cách diễn đạt bóng bẩy và ít nhiều công thức, tiếng nói của truyện còn gây cho ta cảm giác thiếu tự nhiên ta chưa biết được thực sự lời nói của tổ tông ta ngày ấy. Nhưng dẫu sao, đây cũng là một truyện ngắn trước hết của văn học Việt Nam có những thành công sắc sảo.
Tóm lại, Chuyện người con gái Nam Xương là một câu chuyện tình đầy oan khúc. Qua truyện, ta hiểu được sự bất công phi lí của xã hội phong kiến đã đem tới nỗi khổ cực cho người phụ nữ đẹp trong văn học Việt Nam thế kỉ XVI làm sáng ngời phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. Dẫu đã trải qua nhiều thế kỉ, nhưng thời gian vẫn không làm giảm đi trị giá của tác phẩm văn học đặc sắc này. Tác phẩm là một trong những viên đá trước hết đã góp phần xây dựng nên ngôi nhà lớn văn xuôi Việt Nam.
tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 18
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện được trích từ tập “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ do ông sưu tầm và sáng tác lại dựa trên cốt truyện “Vợ chàng Trương”. Ông vốn là người tỉnh Hải Dương, là học trò của Tuyết Giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống ở đầu thế khỉ XVI. Ông học rộng, tài cao nhưng lại xin nghỉ để về nhà để viết sách. “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng là một tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Dữ.
Qua truyện ngắn, truyện là những lời ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh nhân vật Vũ Nương. Ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Dữ đã dành hết lời ngợi ca nhân vật Vũ Nương – là một cô gái tài đức vẹn toàn, công dung ngôn hạnh đầy đủ, đã thế “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chỉ với vài từ ngắn gọn thế nhưng hình ảnh Vũ Nương đã hiện lên là một cô gái có nhan sắc xinh đẹp, lại còn có phẩm chất tốt đẹp cao quý, đó là vẻ đẹp vẹn toàn. Chính vì vậy nên dẫu nghèo túng nhưng Vũ Nương vẫn được Trương Sinh con trai một nhà hào phú trong làng “xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”, điều này thể hiện Vũ Nương là người con gái xinh đẹp, để cho Trương Sinh phải trân trọng. Không chỉ đẹp người, nàng còn đẹp nết, là người vợ chung thuỷ, rất mực thương yêu chồng. Lúc mới kết duyên với Trương Sinh, Vũ Nương rất mực thương yêu và lo nghĩ cho chồng, biết chồng có tính hay ghen lại nghi kỵ thế nên trong cuộc sống vợ chồng nàng hết sức “giữ gìn mực thước, không lúc nào để vợ chồng phải thất hòa”. Rõ ràng phải là người vợ khéo léo, rất mực thương yêu, săn sóc gia đình thì Vũ Nương mới có thể làm tương tự. Rồi khi Trương Sinh đi lính, hạnh phúc chồng vợ sum vầy chưa được bao lâu, chiến tranh xảy ra, chồng phải ra trận, nàng tiễn chồng lên đường với tâm trạng khổ cực. Lời nói với chồng trong giờ phút chia tay thật chân tình, cảm động làm cho “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. Như những phu nhân khác chỉ mong chồng có công danh còn nàng chẳng cầu mong chồng đeo ấn phong hầu mà chỉ cầu chồng được hai chữ bình an, cũng thổ lộ nỗi mong nhớ, lo lắng, sự đồng cảm, chia sẻ của mình khi chồng đi vào nơi hiểm trở chẳng may có cớ sự. Lời nàng thiết tha, sâu sắc bộc lộ rõ tình cảm vợ dành cho người chồng đi chinh chiến xa xôi, khiến người nào nấy đều cảm động khôn nguôi. Trương Sinh đi lính chưa đầy mười ngày thì Vũ Nương lại sinh con thế nhưng nàng vẫn một dạ một lòng chăm con lớn khôn, đợi cho tới ngày giặc tan. Rồi đằng đẵng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó … mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”.Nàng nhẹ nhõm, khuyên nhủ, hết sức van lơn, phân trần cùng mọi lí lẽ để thuyết phục chồng. Dù họ hàng, thôn xóm đều bênh vực nhưng bản tính Trương Sinh vẫn không tin. cùng bất đắc dĩ Vũ Nương đành thống thiết, đành sử dụng cái chết để thân oan. Số phận oan trái, đắng cay của nàng còn được thể hiện trong chi tiết mang vẻ đẹp lung linh, kì ảo nơi khói sóng Trường Giang. Cái vẻ đẹp lung linh, lộng lẫy tới đâu cũng không thể khỏa lấp được sự thực là nàng ẩn mình ở chốn không có thực, rồi khói hương của đàn tràng tẩy oan dẫu có ngùn ngụt khói sương cũng không xoá nhoà được khoảng cách âm dương đôi ngả, vợ chồng chia lìa, mẹ con xa vắng.
Truyện có sự đan xen của những yếu tố hoang đường kì ảo và những chi tiết có thật làm câu chuyện thêm hấp dẫn. Cách xây dựng truyện với tình tiết độc đáo, đẩy tranh chấp lên cao trào, rồi lại khắc phục cách hợp lí, những yếu tố tự sự, trình bày biểu cảm phối hợp hài hoà.
Trên đây là những bài văn mẫu tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. những em học sinh có thể tham khảo những bài văn mẫu hay trong quá trình học tập.
Bản quyền bài viết thuộc Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://cmm.edu.vn
https://cmm.edu.vn/phan-tich-chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong-lop-9/
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục