tìm hiểu Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ngắn gọn, hay nhất (30 Mẫu)

tìm hiểu Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân lớp 12 bao gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy cùng 20 bài văn mẫu hay nhất do Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung chọn lựa lọc từ những bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc sẽ giúp những em trau dồi vốn văn học của mình, hoàn thiện bài văn khi ôn tập, rèn luyện và làm những bài rà soát sắp tới đạt kết quả tốt.

Đề bài: tìm hiểu tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Bạn đang xem bài: tìm hiểu Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ngắn gọn, hay nhất (30 Mẫu)

phan tich tac pham nguoi lai do song da 1 1
tìm hiểu tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

3 Dàn ý tìm hiểu tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Dàn ý tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 1

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả: Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.

– Giới thiệu tác phẩm: “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tuỳ bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mệnh tháng Tám.

2. Thân bài

* Khái quát chung

– Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để tìm kiếm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây.

a.  Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông

+ Bờ sông

– “dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng.

– Quãng sông thì hẹp tới nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”.

– “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”.

– Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn khí”.

→ hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ người nào tới đây cũng phải rùng mình sợ hãi.

+ Ghềnh

– Ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”.

– những từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh kinh rợn vừa gợi những hình ảnh kinh khủng của nơi đây.

– Được mô tả như những kẻ sẵn sàng đòi nợ

→ Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.

+ Hút nước

– Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái, có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác.

– Những cái hút nước như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.

– “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.

→ Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.

+ Thác nước

– Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”.

– “Thế rồi nó rống lên”,so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.

→ sự giữ dội của nước sông.

+ Đá

– “cả một chân trời đá” → đá sông Đà nhiều vô số.

– từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”.

– Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.

→ sông Đà giống như quân thù số một của con người

b. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

– Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.

– Không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở thuốc nước: mùa xuân dòng xanh ngọc bích, thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.

– Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”.

– So sánh vô cùng gợi cảm khi mô tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

→ Những câu văn mô tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một đoạn văn giàu chất thơ.

* Đánh giá

Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng mô tả sắc sảo → đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này tới bất thần khác khi mô tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.

3. Kết bài

Khẳng định lại trị giá của tác phẩm

Dàn ý tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 2

I. Mở bài

– Tác giả Nguyễn Tuân: có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tôi đầy cá tính, một nhà văn tài hoa uyên chưng, luôn khám phá toàn cầu ở phương diện văn hóa thẩm mĩ.

– Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, với nội dung ngợi ca vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Tây Bắc.

II. Thân bài

1. Lời đề từ

– Lời đề từ “Đẹp vậy thay …”: thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, thấy được cảm hứng chủ đạo là ngợi ca.

– Lời đề từ tiếp: “Chúng thủy …”: thể hiện cá tính độc đáo của của con sông Đà.

2. Hình tượng dòng sông Đà

a. Dòng sông “hung bạo”

– “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá … như một cái yết hầu”.

– Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.

– Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”.

– Trận địa thác đá được mô tả từ xa tới sắp:

+ Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái: “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một nghìn con trâu … cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).

+ sắp: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “”hất hàm”, “uy phong”, có những hành động như “phục kích”, “chặn ngang”, “xoá sổ”; sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”.

+ Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:

– Nhận xét: sông Đà mang dung mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ quân thù số một của con người.

b. Sông Đà trữ tình

– Từ trên cao nhìn xuống như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”, mùa xuân có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ.

– Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sông Đà như một “cố tri”, có ánh sáng “nhoang nhoáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”, …

– Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngô non, “con hươu thơ ngộ”, …

3. Hình tượng người lái đò sông Đà

– Có thể liên hệ tới hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mệnh để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.

– Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung mô tả ngoại hình: “tay lêu nghêu … chất mun” để ngợi ca những con người vô danh thầm lặng cống hiến.

– Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo..

– Tài năng và tâm hồn:

+ Là người từng trải, hiểu biết và thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ … những luồng nước”, …

+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài tình: ung dung đụng độ với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo …”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác …”

+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc thắng lợi “con thủy quái” là chuyện thường.

– Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.

III. Kết bài

– Tổng kết nghệ thuật đặc sắc: tiếng nói điêu luyện, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức nhiều ngành nghệ thuật, xây dựng thành công hình tượng sông Đà và ông lái đò.

– Khái quát nội dung: tác phẩm ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động, vẻ đẹp thiên nhiên quốc gia.

Dàn ý tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 3

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà.

II. Thân bài

1. Hình tượng con sông Đà

a. Con sông Đà hung bạo

  • Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở quãng sông hẹp:

Có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu.

Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.

Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.

→ Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận.

  • Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng:

Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà…

Quãng này mà khinh suất vô lăng thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

→ Sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp đi lại gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.

  • Cảnh ở quãng Tà Mường Vát:

Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu.

Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc… những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.

Nhiều thuyền bè gỗ đi ngông nghênh vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống.

→ Sử dụng những giải pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.

  • Cuộc thủy chiến giữa con sông Đà và người lái đò:

Một thứ thiên nhiên Tây Bắc có rất nhiều lúc trông nó thành ra dung mạo và tâm địa một thứ quân thù số một.

Tiếng nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…rống lên như tiếng của một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.

Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, nó bày thạch trận trên sông: Đám tảng đám hòn, chia làm ba hàng chặng ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa,….

Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá oai vệ uy phong, lẫm liệt, thách thức chiếc thuyền.

Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt.

Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá…

→ Sử dụng những giải pháp so sánh, nhân hóa, đầy sáng tạo để khắc họa sự hung bạo, dữ dằn trong trận thủy chiến gay go, quyết liệt.

Sông Đà hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân không phải là con sông vô tri, vô giác mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng, không chỉ hung hãn mà nó còn rất xảo huyệt, mưu ma để lừa người lá đò vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử.

Hình tượng con sông Đà hiện lên thật kì vĩ, hiểm trở, dữ dội và rất hung bạo… Sông Đà biểu tượng cho sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.

b. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình

Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”

“Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”. Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”

→ Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố tri với những cảnh quan hai bên bờ vô cùng gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa.

→ Nguyễn Tuân say mê mô tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của xúc cảm, và bằng một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.

2. Hình ảnh người lái đò

– Về lai lịch: một ông lão sắp 70 tuổi, làm nghề lái đò nhiều năm.

– Ngoại hình: “tay lêu nghêu … chất mun” để ngợi ca những con người vô danh thầm lặng cống hiến.

– Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo..

– Tài năng và tâm hồn:

Là người từng trải, hiểu biết và thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ… những luồng nước”…

Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài tình: ung dung đụng độ với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo…”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác…”

Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc thắng lợi “con thủy quái” là chuyện thường.

III. Kết bài

Khẳng định lại trị giá của tác phẩm.

Sơ đồ tư duy tìm hiểu Người lái đò sông Đà

So do tu duy nldsd 1 1
Sơ đồ tư duy tìm hiểu Người lái đò sông Đà

30 Bài tìm hiểu tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân hay nhất

Với 30 bài tìm hiểu Người lái đò sông Đà ngắn gọn, hay nhất dưới đây những em sẽ biết cách làm văn thế nào cho mượt, hay có thể lấy thêm ý văn hay rồi từ đó diễn đạt lại theo lối hành văn của chính mình.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà ngắn gọn

Người lái đò Sông Đà là kết quả của nhiều dịp tới với Tây Bắc của nhà văn, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong số 15 bài tùy bút của Nguyễn Tuân in trong tập Sông Đà xuất bản năm 1960. Lần xuất bản trước hết, bài này có tên là Sông Đà, năm 1982 khi cho in lại trong tập 2 bộ Tuyển tập Nguyễn Tuân, tác giả có sửa đổi tên bài thành Người lái đò Sông Đà.

Viết về sông Đà, Nguyễn Tuân có rất nhiều phát hiện. Hai nét tiêu biểu nhất của sông Đà là hung bạo và trữ tình. Để làm nổi trội tính chất hung bạo và trữ tình của con sông, tác giả đã vận dụng phối hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật.

Trước hết phải kể tới giải pháp nghệ thuật nhân hóa. Đá trên thác sông Đà phục kích, hung hãn bày thạch trận để xoá sổ bất cứ con thuyền nào dám vượt thác. Nước cũng vậy, chúng thở, kêu rống lên. Nước cũng vào hùa với đá để đánh những miếng đòn “hiểm duy nhất”. Nguyễn Tuân còn sử dụng thủ pháp so sánh, tưởng tượng, huy động vốn hiểu biết phong phú về lịch sử, địa lí, quân sự, điện ảnh,… để mô tả sông Đà.

Hình tượng người lái đò sông Đà là một người lao động, nhưng là nghệ sĩ trong lao động, hơn nữa là một dũng tướng trong cuộc thủy chiến thường xuyên với thác nước sông Đà. Đó là một con người thông thường, hiền lành với những nét phác họa: “cái đầu bạc… cái đầu quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun”, “tay ông lêu nghêu như một cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại…”. Đó là một con người dũng cảm, say mê sông nước, say mê những cảm giác mạnh. Ông luôn tĩnh tâm, ung dung đụng độ với những trở ngại nguy hiểm. Ông khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh và đưa con thuyền về đích an toàn. Khi chở đò, ông là nghệ sĩ, là dũng tướng tài tình. Kết thúc công việc, ông lại là một người thông thường, làm thuê việc thông thường là chở đò trên sông.

Đặc điểm nổi trội của tùy bút Nguyễn Tuân là uyên chưng và tài hoa. Để nói về con sông Đà, Nguyễn Tuân dẫn thơ cổ, dẫn thơ Lý Bạch, thơ B-rô-ni-ép-xki (Ba Lan). Ông vận dụng tri thức lịch sử, địa lý, hội họa, điện ảnh, quân sự, thể thao để viết về con sông hung hãn và thơ mộng. Ông luôn có cảm hứng đặc biệt trước những hiện tượng phi thường, gây cảm giác mạnh. Bao giờ ông cũng say mê khám phá và thưởng thức cái đẹp. Vẻ đẹp hung hãn và thơ mộng của sông Đà, vẻ đẹp của ông lái đò bình dị nhưng khi vượt thác thì như một viên tướng tài tình, điêu luyện đã đem cảm hứng sáng tạo cho Nguyễn Tuân. Đúng là nhà văn nhìn cảnh vật và con người thiên về phương diện mĩ thuật và tài hoa.

Song da 3 1 1
tìm hiểu Người lái đò sông Đà ngắn gọn hay nhất

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 1

Nói tới Nguyễn Tuân là người ta nghĩ ngay tới một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Cái đẹp trong những tác phẩm của ông phải là cái đẹp đạt tới độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Tuân đạt được rất nhiều thành tựu kể cả trước và sau cách mệnh. “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tuỳ bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mệnh tháng Tám.

Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để tìm kiếm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây.

Ngay ở những câu văn trước hết, Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ sự hung bạo của sông Đà. Dòng sông không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” thơ mộng mà bờ sông “dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng. Quãng sông thì hẹp tới nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”. “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”, cái lạnh của từng lớp da thịt, của sự sợ hãi trước thiên nhiên nơi đây. Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn khí”. Bằng một loạt hình ảnh mô tả, Nguyễn Tuân đã đẩy người đọc từ phố xá đô thị về quang cảnh hoang vu tới đáng sợ của thiên nhiên sông nước. Người ta thấy hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ người nào tới đây cũng phải rùng mình sợ hãi.

Đi qua bảy mươi ba cái ghềnh, có thể kể tên tới năm mươi cái ghềnh nhưng sợ hãi nhất là ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu trùng điệp, nhịp văn nhanh mạnh khiến người đọc không khỏi hãi hùng trước những âm thanh của sóng, gió, nước, đá. những từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh kinh rợn vừa gợi những hình ảnh kinh khủng của nơi đây. Sông Đà được mô tả như những kẻ sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những người trên sông. Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.

Nhiêu đó vẫn chưa kể hết những sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt thủ pháp nghệ thuật khác nhau để lột tả hết cái vẻ hung bạo của hút nước sông Đà. Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái nhưng nó lại không hề duyên dáng, dễ thương, thay vào đó nó có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn so sánh những cái hút nước với những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Hình ảnh so sánh này vừa gợi độ sâu tun hút của những cái xoáy nước vừa khiến người đọc khiếp sợ khi hình dung ra nó. Càng sợ hãi hơn khi đọc những câu văn mô tả âm thanh của những cái hút nước. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Nước không chỉ dồn về nhiều và nhanh mà còn ặc ặc lên như mới rót dầu sôi vào. Từ láy “ặc ặc” gợi cảm giác sông Đà giống như một loài thuỷ quái bị bóp chặt yết hầu đang quằn quại giãy giụa. Sự hung bạo này khiến nhà văn liên tưởng tới hình ảnh một anh quay phim táo tợn nào đó mang máy quay ngồi trên thuyền thúng xuống tận cái hút sông Đà rồi từ đó lia ngược ống kính để ghi lại cảnh tượng ghê sợ: một cái giếng như xanh toàn bằng thuỷ tinh như sắp vỡ tan đổ ụp xuống cả người, cả máy quay phim. Con thuyền xoáy tít, những thước phim màu cũng quay tít. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.

Sự hung bạo của sông Đà còn được mô tả qua những cái thác nước. Nhà văn hướng người đọc chú ý vào âm thanh của chúng và mô tả tuần tự theo trình tự từ xa tới sắp. “Còn xa lắm mới tới cái thác” nhưng tâm địa và dung mạo thứ “quân thù số một của con người” đã dần hiện ra. Chúng vẳng tới bằng âm thanh “réo sắp mãi lại réo to mãi lên”. Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”. Cách phối hợp khéo léo giữa so sánh và nhân hoá này đã khiến sông Đà hiện lên với một tâm địa phức tạp. “Thế rồi nó rống lên”, âm thanh được phóng to hết cỡ giống như đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích man dại. Nguyễn Tuân còn so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.

Và để tăng thêm sự hung hãn của sông Đà, Nguyễn Tuân còn hướng ngòi bút của mình vào mô tả đá sông. Hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đá” gợi cảm giác đá sông Đà nhiều vô số. Những tảng Đá sông Đà đã được Nguyễn Tuân thổi hồn vào đó với từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.

Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông hung bạo này chẳng khác gì quân thù số một của con người. Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung bạo trôi qua, nó lại hiện lên với cả vẽ trữ tình, thơ mộng tới khó tin.

Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. Với việc so sánh sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, nhà văn đã khiến dòng sông hiện lên với cái vẻ kiều diễm của một người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ thấy chữ “áng” hay được sử dụng để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn Tuân đã sử dụng để chỉ sông Đà. Có thể thấy trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra.

Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở thuốc nước. Tác giả đã quan sát dòng sông ở những không gian và thời gian khác nhau. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Bằng việc mô tả chi tiết, cụ thể cùng những so sánh độc đáo sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng và qua đây ta cũng thấy được sự hiểu biết sâu rộng cũng như khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.

Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Câu văn ngắt thành nhiều đoạn đã tạo nên nhịp văn ton tả, mau lẹ. Rồi khi nhìn từ trên thuyền xuống, sông Đà mang dáng vẻ “lặng tờ”, tĩnh lặng tuyệt đối. Sự tĩnh lặng của dòng sông ẩn chứa trong đó là một sức sống dạt dào. Nhà văn còn sử dụng những so sánh vô cùng gợi cảm khi mô tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn đã sử dụng những khái niệm trừu tượng để mô tả vẻ đẹp cụ thể của sông Đà khiến sông Đà hiện ra không chỉ là dòng không của không gian mà còn là dòng sông của thời gian. Câu văn “thuyền tôi trôi trên sông Đà” đã gợi ra cái vẻ tĩnh lặng của sông Đà và sự thanh thoả trong tâm hồn con người. Giữa cái quang cảnh thơ mộng ấy nhà văn nghe thấy một tiếng còi sương – tiếng còi xúp lê của một chuyến tàu đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu, đó là âm thanh của một cuộc sống hiện đại, đủ đầy.

Có thể thấy những câu văn mô tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một đoạn văn giàu chất thơ. Chất thơ ở cảnh sắc sông Đà, chất thơ của tâm hồn con người.

Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng mô tả sắc sảo của mình, Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này tới bất thần khác khi mô tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.

Đọc “Người lái đò sông Đà” người ta càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong văn của Nguyễn Tuân được gọi là cái đẹp đạt tới độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Tác phẩm một lần nữa khẳng định tài năng bậc thầy của Nguyễn Tuân trong việc sử dụng ngôn từ vừa giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, quốc gia mà ông gửi gắm trong những tác phẩm của mình.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 2

Tác phẩm Người lái đò sông Đà là bút ký đầy sáng tạo, tiêu biểu cho phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân sau cách mệnh tháng tám: Uyên chưng, tài hoa, không quản gian lao vất vả để có được những dòng bút ký, đậm cảm giác trung thực, sức liên tưởng phong phú đem tới cho người đọc người nghe cảm nhận về một tâm hồn thèm khát hòa nhập với nhịp động phát triển của quốc gia của thế cuộc.

Tác phẩm là kết quả của cuộc hành trình ngược miền Tây Bắc giai đoạn năm 1958-1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả, được in lần đầu trong tập Sông Đà (1960). Sông Đà quanh co, uốn lượn dọc qua những triền núi, dòng nước chảy xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm đó đã tạo cho Đà giang một vẻ đẹp kỳ thú, rất hoang vu và kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bạo mà trữ tình đã làm nổi trội lên vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của ông lái đò ông lái đò trên dòng Đà giang.

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có những thành tựu to lớn trong cả hai thời kỳ trước và sau năm 1945. Trước 1945, ông có tập “Vang bóng một thời” gồm mười một truyện rất đặc sắc, có trị giá vô cùng to lớn. Hoà chung với không khí thời đại trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của dân tộc, phong cách Nguyễn Tuân vẫn luôn giữ được nét sáng tạo, riêng biệt. Ông là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá toàn cầu ở phương diện văn hoá và thẩm mỹ. Nguyễn Tuân mô tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Thiên nhiên hiện lên trong văn học của ông cũng trở thành những dự án nghệ thuật kỳ vĩ, độc đáo. Người lái đò sông Đà là đoạn trích được rút ra từ tập tuỳ bút Sông Đà được ông viết năm 1960, trong một chuyến đi gian truân nhưng đầy hứng khởi về miền Tây Bắc hiểm trở. Chuyến đi thoả mãn cái khát khao “xê dịch” của nhà văn, trong chuyến đi ấy ông đã không quên tìm kiếm “chất vàng” của cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, rất hiểm trở nguy hiểm nhưng cũng mang vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng say đắm lòng người. Vẻ đẹp của con người nơi đây được ông ví như “chất vàng mười đã qua thử lửa” họ là người dân lao động có trí tuệ, có lòng dũng cảm và sức mạnh chế ngự thiên nhiên.

Hai hình tượng bao trùm, xuyên suốt tác phẩm là hình tượng con sông Đà và hình tượng người lái đò trên dòng sông quanh năm dữ tợn thách thức với con người. Với ngòi bút tài hoa của mình ông đã tạo nên hình tượng Đà giang mang hai sắc thái, hai phương diện tương phản vừa hùng vĩ, hung bạo những cũng cũng không kém phần trữ tình, thơ mộng.

Nguyễn Tuân dẫn dụ người đọc cuốn theo cảm giác vừa sợ hãi tột cùng vừa như mê say, thích thú. Bằng sức tưởng tưởng phong phú của mình, lối hành văn nhạy bén độc đáo của mình con sông Đà hung bạo hiện lên trong lòng người đọc với niềm mê say hãi hùng và thích thú vô cùng. Cái hung bạo được nhà văn mô tả mở đầu bằng cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông được Nguyễn Tuân ví như những thành trì kiên cố, vũng chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí hiểm, đe doạ trực chờ. Nhà văn mô tả, mặt sông lúc ấy “đúng ngọ” mới có mặt trời, có vách đá “chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, có quãng tưởng như con hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ kia. những liên tưởng tưởng nghe đâu bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại chứa đựng đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Chỗ sông phải tới tận giữa trưa, khi mặt trời lên cao nhất mới có ánh nắng chiếu vào, động từ mạnh “chẹt” rất biểu cảm xen lẫn với nghệ thuật so sánh “như một cái yết hầu”, hai bên bờ con hươu con nai có thể nhảy qua được. Những hình ảnh độc đáo được tác giả khéo léo lồng vào, đã tạo cho người đọc được độ cao của vách đá, độ hẹp của lòng sông. Ngồi trong khoang thuyền đi qua khúc sông ấy “mùa hè cũng thấy lạnh”, tác giả mô tả thông qua cảm giác, mùa hè nóng nực oi bức nhưng khi qua đây, chính cái quang cảnh choáng ngợp, kỳ vĩ, chật hẹp đã làm cho ta cảm thấy sợ hãi và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên.

Cảnh hung bạo của sông Đà còn được thể hiện ở mặt ghềnh Hát Loóng. Hàng nghìn cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Một loạt thanh sắc xuất hiện tạo cho ta cảm giác sóng gió ngày càng mạnh mẽ và cao dần. Nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc tiếp nối nhau, động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần. Sức mạnh của thiên nhiên rất kinh khủng, rất lạnh lùng, nó “gùn ghè”, hầm hè như một con thú hoang hung hãn, lì lợm, sẵn sàng thách thức với con người nơi đây.

Những cái “hút nước” khủng lồ trên quãng sông Tà Mường Vát. Xoáy nước “như những cái giếng bê-tông” được thả xuống làm móng cầu, nước ở đây “thở và kêu như một cái cống bị sặc”. Nghệ thuật nhân hoá phối hợp so sánh của Nguyễn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này nguy hiểm tới mức không một con thuyền nào dám tiến lại sắp, nếu như không sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.

Hình tượng hung bạo, dữ dội của con sông được tác giả khắc hoạ rõ nét nhất chính là ở khúc thác sông Đà. Tác giả mô tả con sông bằng những hình ảnh hết sức biểu cảm, bằng những âm thanh dữ dội nhiều sắc thái, còn xa lắm mới tới thác mà đã nghe thấy tiếng “réo sắp mãi lên, réo to mãi lên”, tiếng nước nghe như “oán trách”, như “van xin”, như là “khiêu khích”, nó rống lên từng hồi kinh rợn như tiếng của “một nghìn con trâu mộng” gầm thét, vật lộn trong lúc rừng cháy, ngọn lửa đỏ rực bốc lên ngùn ngụt.

Những hòn đá sông Đà nhiều vô số, tất cả chúng hợp lại thành cả một “chân trời đá” rộng lớn. Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ khác nhau, nhưng hòn hòn nấy mặt trông cũng rất “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, ở đây tác giả sử dụng nhiều tính từ chỉ con người để mô tả từ đó người đọc cảm nhận được sự dữ tợn, sự bất cần, ngang bướng của hòn đá, chúng như những vật thể sống và là đứa con của mẹ thiên nhiên tạo ra. Sông Đà nhịn nhường như đã giao nhiệm vụ cho từng hòn đá để bày ra “thạch trận” tuyên chiến, thách thức với con người. Vòng thứ nhất “thạch trận” có năm cửa trận, có “bốn cửa tử”, “một cửa sinh” nằm lập lờ nơi tả ngạn con sông. Vòng thứ hai, thác sông Đà đã bộc lộ vẻ gian manh cái sự háo thắng của nó, lần này có bày ra nhiều cửa tử hơn để đánh lạc hướng con thuyền đi vào chỗ chết, một cửa sinh được sắp đặt lệch về phía hữa ngạn. Vòng thứ ba, vòng quyết định thắng thua cuối cùng, thác sông Đà bày ít cửa hơn nhưng trái phải đều là “luồng chết”, cửa sống duy nhất lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ đang canh gác. Qua phong cách mô tả độc đáo, sinh động, giàu tưởng tượng của Nguyễn Tuân con sông Đà hiện lên thật hung bão, dữ tợn, nó như một “loài thuỷ quái khổng lồ” tâm địa vừa độc ác, vừa nguy hiểm, là quân thù số một của con người trong cuộc chiến không cân sức.

Tuy nhiên cũng có lúc con sông Đà trở về với vẻ dịu dàng, trữ tình thơ mộng của nó. Vẻ đẹp Đà giang được mô tả qua nhiều điểm nhìn, nhiều khía cạnh, không gian và thời gian khác nhau. Từ trên cao nhìn xuống, con sông Đà uốn lượn, mềm mại như áng tóc của người con gái Tây Bắc kiều diễm, xinh đẹp. Dòng sông Đà được nhà văn bằng những hình ảnh rất biểu cảm, gây ấn tượng sâu sắc, “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. thuốc nước sông Đà biến đổi theo từng mùa khác nhau, mỗi mùa mang một vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt: Mùa xuân dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Con sông như người thiếu nữ xinh đẹp, mộng mơ đang tuổi xuân thì tràn đầy niềm tự hào nên tính cách đôi phần khó hiểu, thay đổi thất thường.

Sông Đà dịu dàng “như một cố tri”, cảnh sắc bên bờ thật êm đềm tươi đẹp. Sau chuyến đi dài ngày, ông nhìn ngắm sông Đà thật gợi cảm, thơ mộng như “màu nắng tháng ba Đường thi”, bờ sông đầy những chuồn chuồn bươm bướm. Người cố tri ấy giờ đây yên ả lạ thường như đang lặng nghe âm thanh của thời gian, thưởng thức cảnh sắc hai bên bờ sông. Bờ sông Đà hoang vu như nhuộm màu cổ tích vừa trù phú tràn trề sinh khí của phù sa bồi đắp. Những nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, ngọn cỏ “đang ra những nõn búp”, xa xa là vài con hươu nhai cỏ. Sông Đà lúc này như bờ tiền sử mang bên mình những nỗi niềm cổ tích xa xưa, hoài niệm.

Dòng sông Đà được tác giả khắc hoạ rất rõ nét bằng nhiều vận dụng nghệ thuật độc đáo: So sánh, ẩn dụ, nhân hoá, động từ mạnh…, cùng khả năng liên tưởng, sáng tạo mới mẻ, ông đã viết lên những câu văn thật giàu nhịp độ, sống động. Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, Đà giang không còn là một con sông vô tri mà nó là một sinh thể có suy nghĩ, có tâm hồn.

Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân làm sao có thể thiếu đi bóng vía con người. Thiên nhiên càng rộng lớn, hùng vĩ, dữ dội bao nhiêu thì càng làm nổi trội lên vẻ đẹp trí tuệ tài hoa của con người lao động. Trong bài văn, tác giả đã sáng tạo ra hình tượng “ông lái đò” đây là hình ảnh tượng trưng cho người lao động chuyên cần siêng năng nhưng cũng không kém phần  mạnh mẽ, cam đảm khi sẵn sàng đụng độ với thiên nhiên hũng tợn trong một cuộc chiến không cân sức. Con sông Đà bỗng chốc trở thành quân thù số một, người lái đò thật nhỏ bé giữa thiên nhiên. Tuy nhiên họ vẫn bộc lộ được sự mưu trí,tài hoa nghệ sĩ của mình.

Phẩm chất dũng cảm, tài hoa, trí tuệ của người lái đò được thể hiện qua cảnh vượt thác sông đà. Tại đây, con sông mưu mô, xảo quyệt bày ra một “thạch trận” với ba vòng thách đấu như muốn xoá sổ những con thuyền đi qua. những người anh hùng vẫn không chút sợ hãi, vẫn rất trầm tĩnh bằng trí tuệ của mình ông lái đò đã tuần tự chinh phục từng cửa ải. Vòng thứ nhất, với năm cửa trận, bốn cửa từ, chỉ có một cửa sinh duy nhất nằm lập lờ bên bờ tả ngạn. Thuyền vừa tới, “phối hợp với đá, nước reo hò làm thanh viện cho đá” những hòn đá ngỗ ngược, oai vệ. Có hòn đá nhìn nghiêng thì như “hất hàm” đòi cái thuyền phải “xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, có hòn thì như thách thức ông đò “có giỏi thì tiến vào đây”. Ông đò không chút nao núng tay vẫn “giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên”. Mặt nước reo hò vang lừng, ùa vào như bẻ gãy cán thuyền, sóng nước như “quân quyên sinh” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa người lái đò ra. Sóng nước đánh tới món đòn “hiểm duy nhất”, luồng nước ấy bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. Ông đò đã bị thương “mặt méo bệch đi” nhưng không hề đầu hàng trước quân thù, ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái”, tiếng chỉ huy của ông vẫn vang lên ngắn gọn, tỉnh táo. Vậy là phá xong cái “trùng vi thạch trận thứ nhất”.

Không cần nghỉ tay, nghỉ mắt một phút giây nào phải phá luôn vòng vây thứ hai, lần này ông đò đã đổi chiến thuật. Ông đò đã nắm chắc “binh phát của thần sông Đà”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Con sông Đà đã lộc rõ sự gian trá, độc ác của mình khi lần này nó bày ra nhiều cửa tử hơn, cửa sinh nằm lệch sang một phía hữu ngạn con sông. Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh cưỡi lên con sông Đà phải “cưỡi tới cùng như là cưỡi hổ”. Nắm được cái bờm sóng đúng luồn rồi, không phút nao núng, ông đò “ghì cặt cương lái”, bám chặt lấy luồng nước cố sức phóng nhanh vào phía cửa sinh, “lái miết một đường chéo về phía cửa ấy”, bỏ lại sau lưng những cửa tử và những hòn đá vẫn “không ngừng khiêu khích”.

Trùng vây thạch trận cuối rồi, lần này ít cửa ải hơn, “bên phải bên trái đều là luồng chết”, luồng sinh nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Con sông Đà nhịn nhường như chưa từ bỏ tham vọng của nó, sự hiếu thắng, nó muốn nuốt trọn con thuyền trong lần giao chiến quyết định cuối cùng này. Nhưng người lái đò bao lần vượt thác ghềnh, ông đã tích luỹ biết bao kinh nghiệm, ông cho thuyền phóng thẳng “cứ thế chọc thủng cửa giữa đó”, thuyền như một mũi tên tre nhọn hoắt, cứ thế lao nhanh “vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”. Cuối cùng bằng sự gan góc, tài trí, kinh nghiệm của mình ông đò đã vượt hết dòng thác một cách an toàn, giành thắng lợi trong cuộc chiến không nhân nhượng với quân thù hung bạo.

Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng nhân vật người lái đò sông Đà bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc. Tác giả sử dụng từ ngữ của nhiều ngành nghề: Binh pháp, võ thuật, thể thao, âm nhạc…, những giải pháp tu từ so sánh, nhân hoá cùng với nhịp độ câu văn hài hoà sinh động. Ông đã khắc hoạ thành công hình ảnh người lái đò sông Đà trí tuệ, tài hoa và bản lĩnh, từ đó ngợi ca con người lao động Tây Bắc mang vẻ đẹp và những phẩm chất cao quý.

Đoạn trích người lái đò Sông Đà của Nguyên Tuân là một bài tuỳ bút có trị giá vô cùng to lớn, tác giả đã thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng, khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên cùng với con người miền Tây bắc xa xôi. Đồng thời thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng, sự gắn bó tha thiết, sâu nặng của Nguyễn Tuân đối với quê hương, quốc gia, con người Việt Nam.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 3

Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987 là một nhà nghệ sĩ lớn của dân tộc Việt Nam. Vốn là một người tri thức giàu lòng yêu nước lại tinh thông sâu rộng nền văn hoá dân tộc, ông viết nên những tác phẩm rất mực uyên chưng và giàu trị giá. nếu như như trước cách mệnh, văn học của Nguyễn Tuân chạm tới lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của những con người “một thời vang bóng” như Huấn Cao thì sau cách mệnh, Nguyễn Tuân khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gân guốc nhưng sắp gũi, bình dị với thiên nhiên và đời sống con người. Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một thành công tiêu biểu cho phong cách văn học ấy.

Trong tuỳ bút, Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội lại vừa xinh đẹp, dịu dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân đã mô tả dòng sông trên nhiều góc độ, nhiều phương diện mà nhìn trên phương diện nào cũng thấy thấy đẹp, thấy yêu. Không tĩnh lặng soi bóng hàng tre mỗi trưa hè, cũng không mang nét ưu tư trong từng khá thể khi màn đêm buông xuống mà sông Đà hiện lên vô cùng sống động, dữ dội và mãnh liệt. Nó như được xem là “quân thù số một của con người”. Những con thác lớn dữ dội, những gạn nước từ Vạn Yên về xuôi thật mênh mang. Hai bờ sông dựng đá thành những vách hiểm trở khôn xiết. Nước và sóng xô chồng lên nhau như đang thi nhau phô bày tất cả vẻ dữ tợn, oai hùng của mình: “Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Mặt sông khi nhìn từ trên cao xuống là vô vàn những hút nước như những trụ bê tông. Dòng nước kêu lên thành những tiếng kinh rợn, khi thì kêu lên như những cái giếng đang bị sặc nước, khi lại ằng ặc như tiếng dầu sôi”. Tất cả dựng lên trước mắt ta thế hiểm trở và đầy rẫy những thách thức, nguy hiểm mà người nào đi qua cũng phải đối mặt. Sông với tư thế kiêu hùng và có phần bạo ngược của mình sẵn sàng nhấn chìm bất kể người nào không vững vàng vô lăng trước từng con con sông, không làm chủ trên chiến trường chinh phục dòng sông. Bởi vậy mà nó khiến bao con thuyền đi qua phải dè chừng, hoảng sợ, cố tránh né những cạm bẫy mà sông Đà sắp đặt sẵn: “Không thuyền nào dám men sắp những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để lướt quãng sông”, biết bao nhiêu bè gỗ đã phải chịu trận trước những hút sâu khổng lồ, biết bao nhiêu con thuyền nghênh ngác phải tan xác dưới lòng sông.

Vốn tinh thông sâu sắc cùng sự trải nghiệm của mình Nguyễn Tuân sử dụng những ngôn từ mới lạ, lĩnh hoạt, độc đáo để mô tả một dòng sông Đà. Sông Đà cũng mang dáng dấp đẹp đẽ, dịu dàng và thơ mộng, uyển chuyển như vẻ đẹp của người thiếu nữ chốn núi rừng Tây Bắc vậy. Sông Đà lúc này thật thơ và mộng mơ, tình yêu như đang tràn với bao xúc cảm nồng nàn khó tả: “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình…cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Vẻ đẹp của dòng sông thật yên bình, khơi gợi sự yêu thương, đưa lòng người tới với những rung cảm trong tâm hồn mình, một sức hút tuyệt vời quá đỗi. Đôi lúc, sông Đà cũng có những xúc cảm, cũng nhớ, cũng thương như bao người vậy. Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông còn được thể hiện giữa thiên nhiên, mây trời tạo nên nét riêng biệt không trộn lẫn, bởi vậy dù bất cứ lúc nào nó cũng khiến người thưởng thức bị thu hút: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Không chỉ vậy, sông Đà còn khiến người ta thích thú bởi sắc nước thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.

Bờ sông Đà cũng thật đẹp, thật ngọt ngào bởi hương vị của hoa, của bướm, của chuồn chuồn, của những bãi ngô non đầu mùa hay những cô giành vàng nõn búp. Đó đây những đàn hươu đang thong thả gặm những bãi cỏ non tơ ướt đẫm sương đêm, mọi vật như đang hoà mình trong nét tuyệt diệu của dòng sông, tô điểm nên một vẻ đẹp gọi mời khiến lòng người thổn thức: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Sông Đà như một ” người cố tri” lại như một” người nghệ sĩ tài hoa”. Qua cách mô tả thật độc đáo với những xúc cảm thực tình, sự trân trọng, nâng niu từ những điều bình dị, nhỏ nhặt, Nguyễn Tuân như khắc hoạ nên một bức tranh thủy mặc của sông Đà say đắm lòng người với vẻ tuyệt vời, thân yêu.

Cùng với hình tượng sông Đà cá tính, tới với tác phẩm ta còn cảm nhận được hình ảnh người lái đò tài hoa, nghệ sĩ, điêu luyện trên dòng sông. Người lái đò ấy không phải là một chàng thanh niên trai tráng với thân hình vạm vỡ mà là một ông già đã sắp bảy mươi tuổi: “Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sáu chục lần”. Phải chăng những kinh nghiệm qua bao cuộc hành trình suốt mười năm làm việc đã giúp ông trở nên thuần thục, bản lĩnh và kiên trường tới tương tự: “Ông nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Người lái đò như một thứ “vàng mười” đã qua thử lửa: Cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mùn”, con người ông là con người của chốn sông nước hùng vĩ, trên ngực ông là những “củ khoai nâu” in dấu những trận đụng độ vật vã với con sông Đà dữ dội, với tác giả nhịn nhường như đó là những tấm huy chương cao quý mình chứng cho sức lao động của con người trong công việc của mình. Đứng trước những đợt sóng kinh hoàng, những thạch trận nghiêm trọng, ông không hề sợ sệt mà trái lại càng bản lĩnh thích thú hơn: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá…Và một mình một thuyền ông đã giao chiến như một vị dũng sĩ đầy tài tình. Trải qua ba thạch trận bằng dũng cảm, mưu trí cả mình, người lái đò đã thắng lợi , trở về với cảnh lao động và cuộc sống bình yên: “Thế là hết thác…Sông nước lại thành bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hàng đá, nướng ống cơm lam…” .

Nguyễn Tuân đã mang tới cho nền văn học nước nhà một tuyệt tác vô cùng độc đáo, một phong cách nghệ thuật riêng biệt, uyên chưng, tài hoa. Khép lại những trang văn của tùy bút “Người lái đò sông Đà”, em vẫn không nguôi xúc cảm lâng lâng trong tâm hồn mình, có chăng, đó là những điều đẹp đẽ nhất mà văn học đã mang lại, khơi gợi trong lòng mình những xúc cảm thẩm mỹ vô cùng lớn. Thật cảm ơn Nguyễn Tuân, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp để nâng niu những trị giá vững bền của đời sống lao động và của dân tộc.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 4

Tây Bắc là một mảnh đất có rất nhiều duyên nợ với nhiều nhà văn, thi sĩ. Mỗi nhà văn, thi sĩ lại tái tạo và khắc họa hình ảnh Tây Bắc ở những góc độ khác nhau. Trong đó, Nguyễn Tuân đã khám phá được vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây, nhận thấy được “chất vàng 10” trong tâm hồn con người nơi đây. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” chính là món quà đầy ý nghĩa mà ông dành cho mảnh đất Tây Bắc.

Qua tài năng của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên không còn là một con sông vô tri vô giác nữa mà trở thành một sinh thể có hồn, một nhân vật có tính cách, tâm trạng và là tuyệt mĩ của tạo hóa.

Trước hết, con sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo đáng sợ. Đá bờ sông “dựng vách thành”, “có chỗ vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”, “ngồi trong khoang đò quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Bờ sông Đà thật hùng vĩ, hiểm trở, lòng sông hẹp kéo theo dòng nước chảy xiết. Những ghềnh sóng hiện lên với sự dữ dội, hung hãn “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Tác giả sử dụng câu văn có sự trùng điệp nhịp văn ngắn để diễn tả sự hung hãn của ghềnh sông. Nó giống như một mụ phù thủy quái ác “gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào qua quãng ấy”. Đáng sợ hơn là những cái hút nước của sông Đà. Những hút nước này có độ xoáy rất sâu và lớn như cái giếng bê tông thả xuống sông để làm móng cầu “xoáy tít đáy”. Nơi đây tiềm tàng sự nguy hiểm và là nơi trú ngụ của tử thần. Có những chiếc thuyền bị lôi xuống, “thuyền đi ngâm dưới lòng sông tới mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”. Tác giả đã sử dụng những tri thức điện ảnh để đem tới cho người đọc sự hình dung rõ hơn về những cái hút nước.

Sự hung bạo của sông Đà còn được thể hiện ở thác nước và trận địa danh của Đà giang. Thác nước ở đây nó thật kinh khủng “nó rống lên như tiếng một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa…. da cháy bùng bùng”. Câu vă của Nguyễn Tuân đã tác động mạnh mẽ vào thị giác và thính giác của người đọc, lột tả sự giận dữ, gớm ghê của những con thác ở sông Đà. Tác giả tiếp tục chi tiết của những trận địa con sông Đà. Đặc biệt là cuộc chiến với ông lái đò. Đà giang hiện lên không khác gì một con thủy quái dữ tợn và khát máu. Nó đưa ra mọi thủ đoạn sử dụng mọi chiêu thức sử dụng mọi đòn đánh để hạ gục ông lái đò. Thông qua sự khắc họa của Nguyễn Tuân, người đọc có dịp chứng kiến được sự hung bạo, nghỗ nghịch bất trị của bà mẹ thiên nhiên.

Trái với vẻ hung bạo và dữ tợn thì cũng có lúc con sông sông Đà hiện lên thật trữ tình. Con thủy quái ấy đã rũ mình và vứt bỏ sự gớm guốc để trở thành một thiếu nữ kiều diễm. Nét trữ tình của con sông Đà được thể hiện ở hình dáng con sông. Dòng sông Đà mềm mại “từng nét trải ra trên đại dương đá lờ ngờ bóng mây”. Dòng sông Đà được Nguyễn Tuân ví với mái tóc thướt tha của người con gái đang độ thanh xuân. “Con sông Đa tuôn dài, tuôn dài…đốt nương xuân”. Đó là một vẻ đẹp đầy sức sống và mang nét nên thơ, mờ ảo giữ mây trời khói núi. Màu sắc sông Đà thay đổi theo mùa và mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng.

Vẻ đẹp con sông Đà còn được tô điểm bởi cảnh ven sông và cảnh trên sông. quang cảnh thiên nhiên ven sông Đà thật giàu chất thơ. “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ”, “một lương ngô…”, Thật là một bức tranh dạt dào nguồn sinh khí, lam mê đắm hồn người.” Bờ sông hoang dại…cỏ tích tuổi xưa”. Với hình ảnh so sánh tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân đã kéo người đọc trở về thuở bình yên của sông Đà từ nghìn năm trước.

Nói tóm lại, Nguyễn Tuân đã khắc họa rất thành công hình tượng con sông Đà với hai tính cách: hung bạo tới đáng sợ và trữ tình tới tuyệt mĩ. Nhà văn đã cho chúng ta thấy được sự tài hoa trong trí tưởng tượng phong phú, trong những liên tưởng táo tợn, bất thần, những so sánh mang dấu ấn tư nhân của Nguyễn Tuân trên những trang văn.

song da 4 1 1 1 1
tìm hiểu tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 5

“Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. Đây là thành tựu nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tế tới Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả đã có thời cơ sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào hứng nhất của người nghệ sỹ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. Thật đúng khi nghĩ rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mà tiêu biểu, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, là hình tượng người lái đó vừa là người anh hùng, vừa là người nghệ sỹ tài tình trong nghề của mình.

Trong những tác phẩm của mình dù viết trước hay sau cách mệnh tháng Tám thì những nhân vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt, tài hoa nghệ sỹ. Hình ảnh ông lái đò cũng không phải là một ngoại lệ. Khi đọc tác phẩm, ta sẽ ấn tượng ngay trước hết với ngoại hình của ông: “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù…”. Sức vóc ông khỏe mạnh chẳng khác gì thanh niên trai tráng mười tám đôi mươi: “sắp bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của ông đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun… ông giơ tay lên, đôi cánh tay trẻ tráng quá bịt cái đầu bạc hói đi. Không người nào không lầm tưởng mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông” Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình của một con người mà còn để ngợi ca sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó. Chỉ có yêu quý nghề, gắn bó sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai sương dong duổi chở khách trên con sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang đậm dấu ấn nghề nghiệp tương tự. Đây chính là phong cách viết độc đáo của Nguyễn Tuân, ông luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “Hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên chú đọc ta mới khám phá ra được rất nhiều tầng ẩn ngôn hàm chứa trong từng câu văn của tác giả.

Nhưng chỉ những nét mô tả ngoại hình thôi thì chưa đủ. Trong ông lái đò còn ẩn chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo nghề. Ông là một vong hồn muôn thuở của sông nước này. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sau chèo”. Sự từng trải ấy còn được thể hiện qua trí tưởng siêu phàm của ông. trí tưởng ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỷ mỉ 73 con thác, như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng tới cả những cái dấu chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên cường nhịn nhường như không hề suy chuyển. Ông vẫn rất tự tin mà rằng: “Tôi bỏ nghề đã lâu rồi nhưng nay cho lên thác xuống ghềnh tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp mấy châu có địa giới loang ra bờ sông Đà, cũng còn cái linh lợi để trở mừng một phái đoàn trung ương vừa lên vừa xuống thăm dò khảo sát toàn bộ sông Đà cho tới biên giới Trung Quốc”.

Nhưng trên hết tất cả, hình tượng ông lão lái đò được khắc họa rõ nét nhất qua trận thủy chiến với sông Đà. Vẻ đẹp sức mạnh của ông lái đò được khắc họa trong tương quan với vẻ đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ từng trải thôi thì chưa đủ, đối với con sông Đà, người nào chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan góc, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu như không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Đây chính là dụng ý của tác giả khi viết về hình tượng ông lái đò, phẩm chất dũng cảm, gan góc, kiên cường chỉ được bộc lộ rõ nhất khi nhận vật đối mặt với khó khăn, nguy hiểm. Giả sử đặt ông lái đò trong quang cảnh thi vị, trữ tình của sông Đà thì hình tượng lại phát triển theo một hướng khác, trở thành một nghệ sỹ đa tình lẫn vào toàn cầu nhân vật của Nguyễn Tuân trước cách mệnh. Còn ở đây, ông lái đò trở thành người anh hùng nghệ sỹ trong thiên sử thi leo ghềnh vượt thác. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra ngay dung mạo và tâm địa độc ác của quân thù số một, lực lượng đá hậu, đá tương, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm tạo thành một lực lượng hùng hậu, đông đảo, dữ dằn và nham hiểm.

Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi. Trùng vi một có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng, mặt nước hò la vang dậy mà vào bẻ gãy cán chèo vũ khí của ông lái đò nhưng ông vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất lên. vì vậy sóng nước lại càng dọa dẫm, sấn sổ, máu chiến như thể quân quyên sinh. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình giữa trận nước. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm duy nhất nốc ao đối phương, ông lái đò cũng chẳng run tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt móc bệch. Ông chỉ huy hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất ông lái đò phá luôn vòng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều cửa tử để xí gạt con thuyền vào, cửa sinh lại được sắp đặt lệch qua bờ hữu ngạn thật nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ.

Bốn, năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định nhử thuyền vào tập đoàn cửa tử. Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, không một tí nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh lái miết một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu luyện. tới vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sông nằm ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một ông lái đò và sáu tay trèo, tưởng nghe đâu con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt sức lực giữa một thiên nhiên hung hãn. Nhưng không, như một vị tướng lão luyện dày dặn kinh nghiệm, trận mạc, ông lão phóng thẳng thuyền trọc thủng cửa giữa. Thuyền vụt qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua khá nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được. Thế là kết thúc.

Tác giả đã rất dày công khi mô tả trận thủy chiến với con sông Đà của ông lão lái đò. Một loại những hành động nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng thẳng, lái miết một đường, chọc thủng, xuyên nhanh,… phối hợp với nhịp văn gấp gáp, khá văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp lá cà một sống, một chết. Hơn nữa thư pháp nghệ thuật tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập: một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con người nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên kỳ diệu. Ông lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa ngút nghìn sóng thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.

Với ngòi bút tài hoa và sự uyên chưng, tinh thông về mọi ngành nghề như thể thao, võ thuật, quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện thông thường thành bản trường ca hào hùng, biến ông lái đò thông thường thành một anh hùng, một nghệ sỹ lái đò trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Ông vừa là dũng sĩ, vừa là nghệ sỹ – vô lăng ra hoa, ông tiêu biểu cho hình ảnh con người lao động trong công cuộc xây dựng xã hôi chủ nghĩa. Không chỉ là cô Đào trong truyện ngắn “Mùa lạc” của Nguyễn Khải, tự nguyện lên Điện Biên xây dựng nông thôn mới, không chỉ là tầng lớp thanh niên “Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ Là xa xôi biết mấy cũng lên đường”, mà cùng với họ, ông lái đò sông Đà đã góp phần làm nổi trội, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của người lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55 – 60.

quả tình, vẻ đẹp “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn của con người Tây Bắc đã được Nguyễn Tuân dày công khám phá trên dòng Đà giang khuất nẻo. nếu như như thiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “quân thù số một của con người”, thì cũng chính thiên nhiên qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh trị giá con người lao động. quả tình sâu sắc khi nói “Thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Tác phẩm sẽ mãi là bản trường ca hào hùng đồng hành năm tháng.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 6

Tùy bút Sông Đà là tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Tuân sau 1945. Sau những cuộc chuyển mình dữ dội, Nguyễn tuân vẫn trung thành với thể loại tùy bút và liên tục gặt hái những thành tựu rực rỡ.

Với những chi tiết hình ảnh trong sáng, gợi cảm đầy chất thơ, Nguyễn Tuân không chỉ đưa lại cho người đọc những hiểu biết phong phú, nhiều mặt về sông Đà, về thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc mà còn gợi lên trong chúng ta một niềm xúc cảm và tin yêu. Chính trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ vừa hung bạo, vừa trữ tình ấy, Nguyễn Tuân đã khắc họa rõ nét chân dung con người Tây Bắc, mà cụ thể ở đây là hình tượng ông lái đò sông Đà qua cái nhìn và mô tả của Nguyễn Tuân. Ông lái đò không chỉ là một người lao động trí dũng tuyệt vời mà còn là một nghệ sĩ thực thụ trong công việc lao động sông nước của mình.

* Trước hết, nhân vật ông lái đò được tô đậm qua hình dáng và nghề nghiệp đặc thù cùng với độ tinh thông vô cùng sâu sắc dòng sông.

Về hình dáng kiểu dáng ông lái đò: Mọi chi tiết mô tả của Nguyễn Tuân đều gắn liền với nghề nghiệp và công việc sông nước của ông (tay ông lêu ngêu như cái sào, chân thì lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh,…). Ông lái đò là một người tài trí, hiểu rõ con sông Đà như là một bàn tay của mình vậy. Ông thuộc lòng từng con thác, từng hút nước, xoáy nước. Thậm chí là từng tảng đá trên sông. Nói như Nguyễn Tuân là ông lái đò hiểu rõ: “binh pháp của thần sông, thần đá,…” Ông lái đò là một con người dũng cảm, hàng ngày xuôi ngược trên sông Đà, phải đối mặt với nghiêm trọng, đối mặt với cái chết nhưng phong thái của ông vẫn hết sức tĩnh tâm, chủ động, tự tin, không mảy may lo sợ. Một phẩm chất của ông lái đò là sự tài hoa nghệ sĩ: ông tỏ ra khéo léo, điêu luyện, điều khiển con thuyền vượt qua những ghềnh thác, với vô lăng “ra hoa, mà chỉ một phát sơ ý, lóa mắt hay trở tay đều phải trả giá bằng tính mệnh của mình”.

Những phẩm chất của ông lái đò được thể hiện tập trung và đầy đủ nhất qua cuộc quyết đấu tử sinh giữa ông lái đò và con sông Đà. Con sông càng dữ dằn, nham hiểm, độc địa bao nhiêu thì chân dung của ông lại càng cao lớn hùng vĩ bấy nhiêu. Ông lái đò là một người khiêm tốn, bình dị. Sau khi đưa con thuyền vượt qua những ghềnh thác cập bến bình an, đêm hôm đó, ông lái đò và những bạn chèo của mình ngồi trông đã nồi lửa nướng cá ở trong hang. Họ bàn tán sôi nổi về cá dầm xanh, cá anh vũ, nhưng tuyệt nhiên không nói gì tới những nghiêm trọng vừa trải qua. Đối với ông lái đò, đó chỉ là những công việc thông thường hàng ngày, chẳng có gì phải bận tâm.

có nhẽ người lái đò sông Đà đã gắn bó với dòng nước dữ dội này  từ thuở nhỏ, thế cuộc ông được tính bằng sóng gió, bằng những mùa nước trên sông. Nhìn dáng vẻ kiểu dáng của ông lái đò, thực sự là con người được sinh ra vì nghề nghiệp của mình. Mọi chi tiết mô tả của nhà văn Nguyễn Tuân đều gợi tới dòng sông và nghề nghiệp “Tay ông lêu ngêu như cái sào, chân ông nào cũng khuỳnh khuỳnh” gò lại như kẹp lái một cuốn lái. Tưởng tượng giọng ông lúc nào cung ào ào như nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giời với ông vời vợi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”.

Hầu hết những nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Tuân đều là những con người tài hoa, nghệ sĩ ( khái niệm nghệ sĩ ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng; không phải chỉ nói về những con người làm về nghệ thuật mà là tất cả những người nào tỏ ra thạo, điêu luyện trong công việc, nghề nghiệp của mình). Ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” là con người tương tự. Để làm nổi trội sự tài trí, dũng cảm tuyệt vời và nghệ thuật can cường của người lái đò, Nguyễn Tuân đã tái tạo lại một cuộc vượt thác leo ghềnh của ông ở một đoạn sông dữ dội, hiểm trở nhất. Hai đối thủ truyền kiếp: con sông Đà và người lái đò bộc lộ đầy đủ tính cách của mình khi được đặt vào một cuộc giao tranh dữ dội. Đây cũng là thời cơ tốt để Nguyễn Tuân thể hiện hết sự tài hoa uyên chưng cũng như cái vốn chữ nghĩa phong phú của ông.

* Ông lái đò là một người tài chí dũng cảm, làm sao đếm xuể bao lần ông vượt thác.

Từ lần trước hết cầm lái trên con thuyền độc mộc rồi trở thành người chỉ huy trên con thuyền nhỏ bé này. Nhũng luồng nước, những hút nút xoáy, những tảng đá trên sông qua những năm tháng đã in vào óc ông thân thuộc như lòng bàn tay. Nhưng cái dữ dội, mạnh mẽ của nghề nghiệp mà ông lái đò gắn bó khác hẳn đời thường càng biết rõ con sông Đà, người vượt thác càng phải thận trọng bởi sự lơi lỏng trong tấc gang đều phải trả giá bằng tính mệnh. quân thù sắp gũi ấy, người bạn trái nết ấy không chấp nhận một lỗi lầm nào hết, từng phút từng giây còn cảm thấy bọt sóng tung dưới chân mình. Người lái đò còn phải căng mình như một sợi dây đàn để đón nhận tất cả những biến chuyển dù là nhỏ nhất của dòng sông. Hình ảnh người lái đò sông Đà được tạo nên trong tùy bút của Nguyễn Tuân như được nhào nặng từ nhiều chất liệu. Trong hình ảnh ấy, có vẻ hoang vu dữ dội của một thời đội đá vá trời, có vẻ của tài hoa thoát tục của một vị ổn định gia đình trên sông nước mênh mông, có chất trí tuệ nhạy bén sắc sảo của một vị tướng đã quen vượt trùng mây quân thù, cả sự ung dung pha chất lãng tử của những anh hùng thủy chiến đất Lương Sơn Bạc.

Những khía cạnh, tính cách mạnh mẽ ấy được Nguyễn Tuân dồn nén vào hình ảnh người lái đò và để cho người này tự khẳng định con người mình một lần nữa trong thạch trận của sông Đà. Sông Đà – dòng sông nước ngược với bao ngạo nghễ đã đe dọa con người bằng tất cả vẻ tinh quái của mình. Dữ dội và xảo quyệt, con sông trở thành quân thù bao đời nay của người Tây Bắc và đặc biệt những con người sống trên sóng nước sông Đà. Chỉ vừa cảm nhận mái chèo chạm vào nước, dòng sông ấy thoắt rùng mình, ào ào bày trận để chuẩn bị trận đánh đè nát chiếc thuyền. Sông Đà ngạo nghễ với bốn cửa trùng vây. Mỗi một quãng sông qua con mắt nhìn nhận và mô tả của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên giống như con ngựa bắt kham, lúc hiện ra như một loài thủy quái khổng lồ, hung ác, nham hiểm, độc địa: con sông bày ra đủ những kiểu thạch trận hiểm hóc khác nhau để thử thách con người, còn người lái đò thì hiện ra như một chỉ huy dày dặn, tài giỏi điều khiển con thuyền vượt qua những ghềnh thác hiểm trở, phá tan cái trận đồ bát quát của dòng sông hung bạo. Không những thế, ông lái đò còn  được nhà văn Nguyễn Tuân mô tả như một người nghệ sĩ, tài hoa, chủ động đưa con thuyền vượt qua những ghềnh thác, nắm chắc những binh pháp của thần sông thần đá, thuộc lòng những luồng “cửa sinh cửa tử”. Đây thực sự là cuộc chống chọi một mất một còn, đòi hỏi người lái đò phải dũng cảm khôn khóe, thông minh bởi chỉ cần một giây phút sơ ý, lóa mắt hay lỡ tay đều phải trả giá bằng tính mệnh của mình.

* Hình tượng ông lái đò trên dòng sông Đà được nhìn nhận như một con người tài tử, dũng cảm không sợ nghiêm trọng, một con người tài hoa nhưng rất bình dị, thể hiện sâu sắc ngòi bút tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân đã một đời say sưa đi tìm chất tài hoa nghệ sĩ trong con người. Nhưng trước đây, nhà văn chỉ tìm được những mãnh vụn rời rạc, trật của một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Nhưng giờ đây, cuộc hành trình đi tìm cái đẹp của Nguyễn Tuân đã tìm thấy “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của cách mệnh và kháng chiến – họ bao người như người lái đò trên sông Đà ngày hôm nay những con người ấy sông trong niềm vui và hạnh phúc bỏi họ luôn tìm thấy ý nghĩa của thế cuộc, họ sống vượt qua khó khăn và nguy hiểm như một phần thế tất của cuộc sống để thấm thía hơn bao giờ hết niềm mong mỏi “một cái bến xa nào đó trong sương mù. Người lái đò sông Đà có lúc lúc là một vị tướng soái chinh phục con nước dữ nhưng cũng có lúc sống thật yên ả, bình dị: “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và còn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh và thỉnh thoảng “nhỡn giới vòi vọi” bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm ngày xưa. Người lái đò sông Đà có một cuộc sống lãng mạn của người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình, lúc dữ dội, căng thẳng, khi yên ả bình lặng, lúc mơ mòng thoát tục, họ hài lòng với cuộc sống của mình: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chống chọi với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng dành lấy sự sống từ tay những cái thác nên nó cũng không có gì hồi hộp đáng nhớ, họ nghĩ thế lúc ngừng chèo”.

* Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm

Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên chưng, tài hoa, ông đọc nhiều, đi nhiều, biết rộng, tinh thông nhiều ngành nghề khác nhau. Chính vì vậy, tác phẩm “Người lái đò sông Đà” người đọc đã thu nhận một khối tri thức hết sức phong phú, đa dạng về cả lịch sử, địa lý, địa chất, thậm chí cả quân sự, võ thuật.

Trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” người đọc cũng hết sức ấn tượng vói hình ảnh con sông Đà – một dòng sông dữ dằn nhưng cũng hết sức thơ mộng, trữ tình.

Nguyễn Tuân có ý thức sử dụng mặt mạnh của ngành nghệ thuật khác để tăng thêm vẻ đẹp của văn học. Ông sử dụng nhiêu tri thức về âm nhạc, sân khấu,… đưa lại cho người đọc những trang viết hấp dẫn và thú vị

văn pháp mô tả của Nguyễn Tuân hết sức phong phú, đa dạng. Ông không chỉ mô tả bằng thị giác mà cả bằng xúc giác,… Đặc biệt ông sử dụng nhiều hình ảnh so sánh độc đáo bất thần, đưa lại cho người đọc xúc cảm, …. Câu văn của ông biến đổi rất linh hoạt, có những câu văn ngắn nhịp độ tiết tấu nhanh, mô tả cuộc quyết đấu giữa ông lái đò và sông Đà tạo nên kịch tính hấp dẫn. thỉnh thoảng tác giả sử dụng những câu văn dài như tải ra mang đậm chất tâm tư, mộng mơ.

tiếng nói của Nguyễn Tuân hết sức giàu có, ông sử dụng những từ ngữ rất chuẩn xác. Ông thực sự là một phù thủy ngôn từ, có sức mạnh điều binh khiển tướng đoàn quân tiếng nói thực hiện những trận công phá vào tườn thành tri thức, tạo ra những thành tựu lớn lao, có sức mạnh đưa con người vào những vuộc phiêu lưu kì thú.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 7

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.

ko phải tình cờ khi, để nói về màu sắc của núi sông, Nguyễn Tuân chỉ sử dụng một chữ vàng. Để rồi sau đó, ông sẽ sử dụng chữ vàng mười để gọi tên vẻ đẹp và trị giá quý báu của con người lao động. Điều đó chứng tỏ, trong xúc cảm thẩm mĩ của tác giả “Người lái đò sông Đà”, con người đẹp hơn tất cả và quý giá hơn tất cả. Với ” Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân đã dựng hình ảnh một sông Đà mà ông đã từng muốn” trông nó thành ra dung mạo và tâm địa một thứ quân thù số một” nhưng cũng rất đúng nếu như nói rằng thiên nhiên ấy cũng chính là kẻ tôn vinh số một trị giá của con người. Người lái đò sông Đà kia sẽ là người nào nếu như con thuyền của ông không phải vật lộn với “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”? Có thể người ấy sẽ mang một vẻ đẹp nào đó của một ông ngư, ông chài, ông lái đò nhưng sẽ không trở thành đối tượng của một khúc hùng ca. Trái lại cái hùng vĩ của sóng, của thác, của sông nước Đà Giang đã làm sáng chói lên hình ảnh con người đẹp nhất, kiêu hùng nhất, người lái đò trên sông Đà người anh hùng người nghệ sĩ chế ngự thiên nhiên hùng mạnh.

Người lái đò Sông Đà trước hết là một ông già bảy mươi tuổi đã giành một phần lớn thế cuộc mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: ” Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn 100 lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu chục lần” trong thời gian hơn chục năm làm nghề lái đò cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này. Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thạo trong nghề lái đò và đã đạt tới trình độ ” Bằng cách lấy mắt và nhớ tỷ mỉ như đóng đinh vào tất cả những luông nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân đã phân bua sự khâm phục của mình đối với con người này ” sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc cả tới dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”.

Thoạt nhìn, đó là một cuộc đấu không cân sức. Bởi đó là trận đấu mà ở bên này là một thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc, với sức mạnh được nâng lên hàng thần thánh, có sông nước hò réo quyết vật ngửa mình thuyền, có thạch trận vời đủ ba lớp trùng vi vây bủa, được trấn thủ bởi những hòn đá ngỗ ngược, láo xược và nham hiểm; còn bên kia là con người bé nhỏ, không hề có phép màu, vũ khí trên tay chỉ là chiếc cán chèo – những chiếc que thật mỏng manh trước nguy nga sóng thác – trên một con đò đơn độc hết chỗ lùi. Người xưa vẫn coi ” Cưỡi con gió mạnh, đạp đầu sóng dữ” là tượng trưng cho một lý tưởng sống anh hùng. Ông lái đò này dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng chính là con người cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu, ông đâu có đôi cánh tay Hec Quyn để sánh được với sức lực của Thuỷ Tinh. Nhưng ông đã ” Nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, cái kinh nghiệm đò giang sông nước lên thác xuống ghềnh và cái trí tuệ ấy đã khiến cho ông lái dù trong tay chỉ có cây chèo (cái que nhỏ giữa nguy nga sóng thác) vẫn có thể phá thành vượt ải như một chiến tướng bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống thiên nhiên. Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác Sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo hấp dẫn, một khúc hát ngợi ca chiến công của một bậc anh hùng. Cuộc chống chọi của người lái đò có thể chia thành 3 chặng vượt vòng vây của thác nước, đá sông.

Ở trùng vi thứ nhất: Vừa vào trận, sóng nước, đá sông hò la vang dậy, ùa vào bẻ gãy cán chèo vô khí, đá trái thúc vào bụng, vào hông thuyền. Nước như đô vật túm thắt lưng ông đò rồi đánh miếng đòn độc, đánh vào chỗ hiểm. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo lệch đi. Con thuyền bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo của người cầm lái, ông đò thực là một chiễn sĩ dũng cảm, rất tĩnh tâm nén mọi đớn đau để thắng lợi quân thù.

Ở trùng vi thứ hai: Kẻ địch thay chiến thuật, chúng tăng thêm nhiều cửa tử.Cửa sinh sắp đặt lệch sang phía tả ngạn, lập lờ, bí hiểm hơn ở trùng vi trước, hòng xí gạt con thuyền. Nhưng ông đò đã nắm chắc binh pháp của thân sông, thần đá thuộc quy luật phục kích của lũ đá. Ông”Cưỡi lên thác Sông Đà phải cưỡi tới cùng như là cưỡi hổ”. Nắm chặt được cái bờm của sóng đúng luồng rồi ông đò ghì cương lái phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo con thuyền lướt nhanh, bất thần khiến cả bọn đá thủy quân không kịp trở tay, khiến ” Cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đá tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Ông đò người chỉ huy ấy thật thông minh tài giỏi xiết bao.

Ở trùng vi thứ ba, ít cửa hơn, bên phải, bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở ngay giữa con thác. Ông đò như một người chỉ huy dày dạn cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa, giữa đó ” Vút vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua khá nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Bản hùng ca vượt thác lên tới cao trào. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng, sóng nước của Sông Đà. Trên con thuyền vun vút đó chúng ta nhìn rõ hình ảnh người lái đò anh hùng vừa dũng thông cảm minh vừa thật là tài hoa. Vậy là thác dữ đã không chặn bắt được con thuyền. Cuối cùng, vẫn là con người thắng lợi sức mạnh thần thánh của tự nhiên, vẫn là con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này tới lớp kia của trùng vi thạch trận, để những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉu, thất vọng, qua khuân mặt xanh lè. Người lái đò đã đè sấn được sóng gió, nắm chặt cái bờm sóng mà thuần phục sự hung hãn của dòng sông.

Cần nói thêm, trong cuộc chiến này nguyên nhân làm nên thắng lợi của con người không hề bí hiểm. Đó không phải là gì khác hơn sự ngoan cường, chí quyết tâm, và nhất là kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh đã tạo điều kiện cho con người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, và từ đó, khuất phục dòng thác hồng hộc khá thở của hùm beo. Người lái đò Sông Đà chính là khúc hùng ca ngợi ca con người, ngợi ca chí của con người, ngợi ca lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông hung hãn. đó chính là những yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung.

Ở phần vĩ thanh của khúc ca vượt thác, nhà văn chuyển gam với mấy câu tả êm nhẹ câu kể thủ thỉ, tâm tình ” Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác, xèo xèo tan trong trí tưởng. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng  ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh. Chả thấy người nào bàn thêm một lời nào về cuộc thắng lợi vừa qua”. Ở đây ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp nữa của những người lái đò, chèo đò. Họ anh hùng xiết bao, cuộc sống của họ là ngày nào cũng chống chọi với Sông Đà dữ dội để giành lấy sự sống từ tay những con thác nên cũng “Không có gì là hồi hộp đáng nhớ”. Cái phi thường đã trở thành thông thường. Phẩm chất đội viên đã hoà quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ. nhịn nhường như cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp mang”Chất vàng mười” của những người lao động bình dị ở Tây Bắc trên một chặng vượt thác Sông Đà Nguyễn Tuân đã không cầm lòng được. Trước khi chia tay họ để gặp lại dòng sông, ông giữ lại một ước nguyện thật đẹp đẽ chân tình ” Tôi nghĩ nếu như sau này làm phim màu về Sông Đà, cũng phải đưa ống quay phim lên tàu bay, cho bay tà tà trên thác mà gí máy xuống mà lượn ống máy theo những luồng sinh của thác trên thác hiên ngang một người lái đò Sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật thế tất của dòng nước Sông Đà.

Trong Người lái đò sông Đà, con người được ví với khối vàng mười quý báu lại chỉ là những ông lái, nhà đò nghèo khổ, những người trên hình hài còn in hằn những dấu vết khắc nghiệt của công việc chở thuyền quá đỗi gian truân, cực nhọc, nghiêm trọng. Và còn điều nữa: Tất cả những người lái đò trong thiên tuỳ bút, không trừ một người nào, đều làm lụng thầm lặng, giản dị, tuyệt đối vô danh, vì tác giả nhất định không chịu nêu tên tuổi của người nào trong họ. Song cũng lại Nguyễn Tuân cho thấy, những con người vô danh đó đã nhờ lao động, nhờ cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên mà trở nên lớn lao, kì vĩ. những người lái đò rất thông thường ấy không mang tên họ của tư nhân. Nhưng vì vậy mà trong sự đối mặt với thiên nhiên nghiệt ngã, họ lại hiện lên như đại diện của con người. có nhẽ đó chính là nguồn cảm hứng đã thôi thúc Nguyễn Tuân quyết tung ra đạo binh hùng hậu của ngôn từ để mô tả cho thật hùng tráng và hấp dẫn cuộc thuỷ chiến của ông lái đò với dòng sông để đưa thuyền vượt thác. Sử dụng nghệ thuật của ngôn từ rồi nghệ thuật của hội hoạ, âm nhạc với những tri thức trong chống chọi, trong võ thuật với bao nhiêu hiểu biết rộng và sâu khác nữa để khắc hoạ, ngợi ca nhân vật mà vẫn cảm thấy chưa đủ tới đây nhà văn sử dụng thêm phương pháp của điện ảnh. Hình tượng người lái đò hiên ngang, sừng sững hiện lên trong ống quay phim của nhà nghệ sĩ, cao lớn, lung linh như một thiên thần. Cùng với vẻ đẹp của người anh hùng trí dũng tài hoa từng thắng lợi ghềnh thác, người lái đò thêm một “Chất vàng” nữa người lao động có tự do đạt tới độ thành thục, điêu luyện vì làm chủ được thiên nhiên, chế ngự thiên nhiên, đem lại cuộc sống no ấm cho đời mình, sự giàu đẹp cho Tổ quốc. ngợi ca người lao động phải chăng Nguyễn Tuân muốn ngợi ca lao động ngợi ca con người? Con người dưới con mắt nghệ sĩ tài hoa, uyên chưng Nguyễn Tuân luôn luôn là hiện thân của cái đẹp của nghệ thuật của sự bất tử. Chính điều này người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân đã có điểm gặp gỡ với người nghệ sĩ Nga M.Gorki ” Con người! Tiếng ấy thật tuyệt diệu! Tiếng ấy vang lên tự hào và hùng tráng xiết bao”.

Đọc ” Người lái đò Sông Đà” suy ngẫm về nhân vật ông đò chúng ta nhớ tới Huấn Cao, hình tượng đặc sắc trong tác phẩm ” Chữ người tử tù” một sáng tác của Nguyễn Tuân trước cách mệnh tháng Tám. Tất nhiên nhân vật ông đò trong tuỳ bút không hiện lên với đầy đủ phẩm chất, tính cách như nhân vật ông Huấn Cao trong truyện ngắn. Họ có rất nhiều nét khác nhau vì họ xuất hiện trong hai thời kỳ khác nhau của lịch sử quốc gia, cũng vì những chuyển biến trong phong cách nghệ thuật và cảm hứng thẩm mĩ của nhà văn. Song cả hai đều giống nhau ở chất nghệ sĩ, chất đội viên vẻ đẹp thăng hoa của con người trong vị trí xã hội, trong công việc cụ thể khi làm người và một nét chung nữa, ông đò cũng như ông Huấn đều rạng ngời phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: Tài hoa, uyên chưng đầy sáng tạo bất thần trong sử dụng từ, viết câu và nồng ấm một tình yêu con người. Cảm ơn Nguyễn Tuân người nghệ sĩ tài hoa đã bằng cảm hứng lãng mạn và phép thuật ngôn từ đem lại cho ta chất vàng một quý giá của đời, làm sang giàu cho tâm và cho trí của ta dạy ta biết yêu hơn Tổ quốc, nhân dân, cuộc sống.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 8

Nguyền Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đau Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người với tư tưởng, tình cảm gắn bó với quốc gia quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông Người lái đò Sông Đà, đó là một bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi đã thể hiện được những nét tiêu biểu về phong cách đó.

Người lái đò Sông Đà ưước hết là một tác phẩm viết về một con người một con sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở thành những dự án mĩ thuật, con người đều thành những nghệ sĩ điêu luyện. Bằng sự tiếp cận quan sát và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng giàu có, chuẩn xác, Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp trong thiên tùy bút độc đáo này.

Người lái đò trên sông Đà trong tác phẩm, trước hết là một ông già bảy mươi tuổi, đã giành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sáu chục lần…” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này. Đây là một con người từng trải hiểu biết, rất thạo trong nghề lái đò, và đã đạt tới trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước tất cả những con thác hiểm trở” Nguyễn Tuân tiếp tục phân bua sự khâm phục với con người này. “Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc tới cà những dấu chám than, châm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Thật là một cách so sánh “rất văn học” đầy thú vị và cũng “rất Nguyễn Tuân”.

Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hinh cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Ông đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với những thế lực của những bãi đá gớm ghê, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: “Ngoặt khúc sông lượn, thây sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá. Đá ở đây từ nghìn năm vẫn phục kích hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Và một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gẫy cán chèo, vũ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông đò, đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông… Cách mô tả thực thực và táo tợn này cho thấy sức mạnh gớm ghê của dòng thác hung hãn, con người chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một tí là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.

Nhưng dũng cảm và gan góc chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm lái để lái con đò tới mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả so sánh người lái đò sông Đà với người tài xế lao xuống dốc đèo; tuy rất nguy hiểm nhưng người tài xế còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại. “còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có lùi gì cả…”, vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh táo tợn, khơi gợi lạ thường, tác giả đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một bầy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm một ấm nước sôi khổng lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại có những “hút nước” xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”…

Thật là mộl dòng sông Đà đầy hiểm trở, đầy nguy nan cho con người. Thế nhưng, “ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái…” Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh láo của người cầm lái. Rõ ràng qua cách mô tả tới tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhằm tới một mục đích lớn: ngợi ca sự dũng câm, tài trí của con người, ngợi ca sự thắng lợi vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về tới bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt mười lăm năm làm người lái thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người và thiên nhiên thật gớm ghê, căng thẳng, đầy sáng tạo và con người đã thắng lợi, trở về cuộc sống yên bình: “Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh (…). Sông nước lại yên bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…”.

Cảm hứng lãng mạn đặm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con người lao động. Sau mười năm làm nghề lái đò, cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực người lái đò vẫn còn “bầm tụ” mộl “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tuân, “đó cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huy chương lao động siêu hạng”.

Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một dự án nghệ thuật đầy sáng tạp. Ngoài việc cung ứng cho chúng ta những tri thức và tri thức về cuộc sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về tiếng nói…, tác phẩm còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp mộl cách sâu sắc, cái đẹp của con người cụ thể, con người lao động. Người lái đò Sông Đà. Nguyễn Tuân thực thụ là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi những con người lao động gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 9

tới với tác phẩm của Nguyễn Tuân mỗi người sẽ tìm cho bản thân mình những xúc cảm riêng, là sự ngưỡng mộ, khám phá trông mong. nhịn nhường như dưới đôi bàn tay tài hoa nghệ sĩ, ông đã khiến người đọc như chìm đắm, như được sống những phút giây thực sự với thiên nhiên quang cảnh nơi đó. Đây chính là cái tài sử dụng tiếng nói của ông. Đặc biệt qua đoạn trích “Người lái đò sông Đà” tài năng đó càng được bộc lộ rõ nét hơn.

Cả thế cuộc của Nguyễn Tuân có chăng được gói gọn trong chữ “độc đáo”. Bản thân là người độc đáo, khác thường nên đối tượng nghệ thuật của ông cũng phải là vô tiền khoáng hậu. Dưới bút lực dồi dào của mình Nguyễn Tuân đã phô diễn cho độc giả thấy hình ảnh của một dòng sông Đà vừa hung bạo, nhưng cũng rất đỗi trữ tình. không những thế là vẻ đẹp nổi trội của người lao động, chinh phục và làm chủ thiên nhiên.

Trước hết cái độc đáo của sông Đà được Nguyễn Tuân khai thác trên hai phương diện: hung bạo và trữ tình. Chất hung bạo chính là điểm nổi trội trước hết của Nguyễn Tuân đề cập tới. Vẻ đẹp hung hãn, bạo tàn của con sông ở những đoạn thác dốc như một sức mạnh vô hình thu hút ông. Đây cũng là lãnh địa tạo cho ông thời cơ thỏa sức vẫy vùng trí tưởng tượng của bản thân. Ông vô cùng phấn khích khi chuẩn bị tới thác cuối, khi chuẩn bị được tận mắt chứng kiến sự hung bạo của sông Đà: “… Còn xa lắm mới tới cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo sắp mãi lại ró to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thể rồi nó giống lên như tiếng một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đáng phá tuông rừng mửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da đen cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi”. Có thể thấy trong đoạn văn giọng điệu hào hứng, hồ hởi cũng như giác quan vô cùng thính nhạy của Nguyễn Tuân. Ông nắm bắt từng đi lại của thiên nhiên để có thể cảm nhận được vẻ đẹp hung bạo của nó từ phía xa. Đặc biệt hình ảnh so sánh thác nước như những con trâu lồng lộn, rống lên cũng vô cùng đặc sắc, diễn tả tiếng thác nước ầm ào chảy, vừa hứng thú, kích thích nhưng cũng đầy lo lắng, sợ hãi.

Và tới đoạn thác nước, bút lực của ông mới thực sự được phát lộ hết. Bao nhiêu hào hứng ông dồn cả vào đoạn văn mô tả sự hung bạo của sông Đà. Những thạch trận liên tục được bày ra, dụ con thuyền tới để nuốt gọn vào lòng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá oai vệ, uy phong lẫm liệt. Mỗi hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một tí và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gán vào”. Với thủ pháp nhân hóa, cùng trí tưởng tượng phong phú Nguyễn Tuân đã khiến cho những hòn đá vô tri có gương mặt, tâm trạng và thân phận riêng. Nhưng tựu chung lại có thể thấy ở chúng sự ngông ngạo, tự phụ, ỷ vậy mà chèn lấn người khác, đặc biệt là ỷ vào thế hiểm của thằng đá tướng.

Nhưng sự tự phụ của chúng chẳng được bao lâu, bới dưới sự uy dũng, kinh nghiệm của người lái đò ông đã nhanh chóng vượt qua chúng. Đoạn này ngòi bút lãng mạn của ông càng được phát huy cao độ hơn nữa. Con sông ương bướng, bày ra thạch trận ba vòng, với những oằn èo khác nhau cũng không thể cản bước ông lão đò. Ông cưỡi lên từng con sóng, từng đọt nước mà vượt qua: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đà. Nắm chặt lấy được cái bườm song đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, là lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bởi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sâu thuyền”. Những câu văn kia mô tả ông lái đò mới sảng khoái và sung sướng biết bao khi con người đã vươn lên làm chủ thiên nhiên. Đồng thời những lời mô tả thực thực, sinh động đó cũng cho thấy tài nghệ lái thuyền tài tình, sự dày dặn kinh nghiệm, và dũng cảm là những yếu tố giúp ông lái đò của thể vượt qua mọi cửa tử để đi tới được một cửa sinh duy nhất.

Không chỉ có niềm say mê, hứng thú đặc biệt với những nơi đầy nguy hiểm mà đôi mắt tinh tế của Nguyễn Tuần còn đầy tình tứ, phát hiện vẻ đẹp mộng mơ, trữ tình của con sông Đà. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà quả như là đối cực với sự hung bạo của chúng. nếu như như bên trên con sông Đà bạo liệt, hung hãn bao nhiêu, thì tới đây lại mộng mơ, hiền hòa bấy nhiều. Đoạn văn thấm đẫm màu sắc văn học và hội họa.

Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hay qua thực cảnh sắc sông Đà, chẳng người nào có thể biết được, nhưng nó toát lên vẻ đẹp của sự trữ tình, mộng mơ quá đỗi. Sông Đà giờ đây không còn hoang dại, mà tựa như một cô gái sơn cước miền Tây Bắc vô cùng yểu điệu, thục nữ, lại có đôi nét mờ màng: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đất nương xuân”. Đọc câu văn mà ngỡ như ta đang đọc một câu thơ của Nguyễn Tuân vậy. Chất trữ tình thẫm trong cảnh vật, ngập đầy trong từng câu chữ. Chỉ trong một đoạn văn không quá dài, nhưng trước vẻ đẹp trữ tình của con sông mà Nguyễn Tuân đã hai lần phải thốt lên “chao ôi”. Vì được chiêm ngưỡng cảnh đẹp, vì được gặp lại sức bạn có nhân bao ngày xa rời. Đó là sự vui mừng, cuống quýt thấp thỏm, đầy hạnh phúc. Sông Đà chính là cố tri của Nguyễn Tuần. Chính tâm trạng vui sướng đó đã khiến công có một đoạn văn đầy xúc cảm: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao ngắt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố tri”. Không chỉ cảm nhận sông Đà là người bạn, người cố nhận gặp lại sau nhiều ngày xa rời mà ông còn cảm nhận được cái không khí thượng cổ, như bờ tiền sử hoang dại ở sông Đà. Quả thực, có nhẽ chỉ có Nguyễn Tuân với những xúc cảm tinh tế của mình mới có thể cảm nhận trọn vẹn được vẻ đẹp của sông Đà ở mọi chiều kích không gian và thời gian tương tự.

Với bài bút kí Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng ta không chỉ thấy được vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài năng, với bút lực dồi dào. Mà không những thế còn thấy được tấm long của một con người yêu nước, dành trọn thế cuộc mình khám phá, tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp của con người lao động trong cuộc sống mới.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 10

Nguyễn Tuân – người được mệnh danh là “Người đi tìm cái đẹp, cái thật trong đời” không chỉ là một trí thức yêu nước mà ông còn là một nhà văn tài hoa, uyên chưng. Ông đã để lại nhiều tác phẩm lớn, nổi trội hơn cả là tùy bút ” Người lái đò sông Đà” (1960). Tác phẩm là thành tựu của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mệnh tháng 8.

Tùy bút “Người lái đò sông Đà” lấy ông lái đò làm nhân vật trung tâm nhưng thực chất là mượn hình ảnh ông lái đò để mô tả vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ, dữ dội và thơ mộng của con sông Đà. Tất cả hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa trung thực, vừa sống động.

Trước hết, Nguyễn Tuân khắc họa vẻ đẹp của con sông Đà được nhân hóa như con người, nó mang vong hồn độc đáo vừa có nguồn gốc, lai lịch rõ ràng, lại vừa mang tính cách hung bạo, trữ tình. Con sông được giới thiệu:

“Chúng thủy giai đông tẩu

Đà giang độc Bắc lưu”

Ý nói mọi con sông đều chảy theo hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Đây là một cách giới thiệu ấn tượng, đập thẳng vào nhãn quan người đọc sông Đà hiện lên như một cá thể rất có hồn. Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam. Nó mang hai tính cách. trước hết là tính cách hung bạo và trữ tình, được thể hiện ở khía cạnh: Nguyễn Tuân mô tả cảnh đá ở bờ sông “đá dựng vách thành lòng sông hẹp, có quãng con hươu con nai còn nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ dưới lên như nhìn lên cái tòa nhà cao vừa tắt phụt đèn khí”. Đặc biệt ở đoạn mặt ghềnh dài hàng nghìn cây số thì “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt bất cứ người nào đi qua quãng ấy”. Thật nguy hiểm, rung rợn. Đâu chỉ có vậy, Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cái cống cái bị sặc, tưởng tượng một anh quay phim táo tợn ngồi thuyền thúng mà cầm máy quay cùng chìm xuống cái xoáy ấy”. Hay tới thác nước với những âm thanh dữ dội như càng xoáy vào lòng người nhiều hiểm ngay đang rình rập chỉ chờ chực sẵn con mồi “tiếng nước ” réo”, “tiếng nước thác nghe như là oán trách… van xin … khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… nó rống lên như tiếng một nghìn con trâu mộng…”. Nước như một đội quân hùng mạnh, dữ tợn. Đáng sợ hơn tất cả hình ảnh đá ở lòng như như đang bày binh bố trận địa thác đá với 3 trùng vi. Trùng vi thạch trận thứ 1: “mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn”. Sang tới trùng vi thách trân thứ hai đã tăng thêm nhiều cửa tử để xí gạt con thuyền vào, và cửa sinh lại sắp đặt qua phía bờ hữu ngạn. Và trùng vi trạch trận thứ ba cả bên trái lẫn bên phải đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ngay giữa bọn đá hậu vệ.. Việc bày binh bố trận vừa theo một quy luật trật tự nhất định để ngăn cản những ứng viên rắn chắc chống chèo về phía đích. Họ như những tuyển thủ nhiều năm kinh nghiệm trên sân cỏ đang lao mình ra để bảo vệ khung thành, không cho quân địch hay kẻ ngoài này le lói sắp khung thành. Bằng lối viết tài hoa, một tri thức sâu rộng uyên chưng, Nguyễn Tuân đã viết nên những câu văn theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, sử dụng xen kẽ giải pháp tư từ nhân hóa, so sánh rõ rệt để làm nổi trội hình ảnh con sông Đà thịnh nộ, như muốn mình là vua của cả toàn cầu. Con sông ấy hung bạo, hiểm trở, là quân thù số 1 của con người.

Trái với vẻ ngoài dữ tợn ấy, sông Đà còn hiện lên một vẻ trữ tình đằm thắm dưới ngòi bút bậc thầy lão luyện của Nguyễn Tuân. Đi từ thượng nguồn tới hạ nguồn, ta đều bắt gặp hình dáng con sông rất thơ mộng như một cô thiếu nữ đôi mươi kiều diễm, trẻ trung, duyên dáng: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình”, “Sông Đà như một áng tóc mun, dài nghìn nghìn vạn vạn sải”. thuốc nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa rất đẹp và quyến rũ, mùa xuân, dòng xanh ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Sự thay đổi sắc màu tạo cho sông Đà mang một vẻ đẹp kì bí, quý phái. Nhà văn còn mô tả hai bên bờ sông Đà cũng tươi mới không kém. “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”. Sông Đà, con sông chứng kiến biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, nó là chứng nhân lịch sử vĩ đại cũng là một con sông đẹp kiều diễm mà nên thơ. Con sông ấy gợi trong lòng nhà văn nhiều xúc cảm, như một “cố tri”.

Bằng tài năng của mình, Nguyễn Tuân đưa người đọc khám phá một con sông Đà mang nhiều trạng thái cung bậc, khi thì dữ dội, khi lại nên thơ trữ tình. Con sông ấy dưới ngòi bút điêu luyện của ông được coi như là một khám phá lớn, một dự án nghệ thuật vĩ đại mà tạo hóa tặng thưởng cho Tây Bắc.

Song song với hình tượng con sông Đà là hình ảnh người lái đò sông Đà – một vô lăng ra hoa với trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân đã mô tả ngoại hình của ông rất độc đáo: “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh”. Ông quê ở ngã tư sông, là người từng trải, ông làm nghề lái đò đã được mười năm liền. Ông với con sông Đà gắn bó mật thiết với nhau, như người bạn tri kỉ của mình. Với kinh nghiệm chinh chiến trên con sông ấy đã nhiều năm, ông nắm chắc từng luông lạch, từng ngọn thác và đặc biệt, ông nắm rất vững quy luật của “thần sông thần đá” trên con sông Đà. Vì ông tinh thông con sông ấy một cách tường tận, thấu đáo nên ông rất thích vượt thác, đối mặt với con sông ấy. Chỉ với vài nét khắc họa đơn thuần, Nguyễn Tuân đã phác họa được một người lái đò yêu nghề, yêu thiên nhiên, thích hòa mình rượt đuổi cùng thiên nhiên.

Vẻ đẹp của ông lái đò được nhà văn mô tả rất chi tiết qua những lần ông vượt thác. vô lăng ra hoa ấy càng khiến người Tìm hiểu thêm khâm phục phần nào về tài năng, bản lĩnh dám đương đầu với thử thách. Trên con sông hùng vĩ nguy hiểm ấy, ông lái đò hiện lên với tư thế hiên ngang của một dũng tướng chỉ huy chiến trường. Ông chỉ huy con thuyền mình luồn lách tới đích vượt qua những trở ngại vật với phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Ở vòng vây thứ nhất, ông hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Hai chân ông vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. tới vòng vây thứ hai, không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông cưỡi lên thác sông Đà, nắm bờm sóng, ghì cương lái, bám lấy luồng nước đúng mà phòng nhanh vào cửa sinh. Và ở vòng cuối, ông phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua khá nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Cuộc vượt thác thành công. Mặc dù có lúc ông gặp vấn đề bị thương nhưng ông vẫn bình tình, dũng cảm đối mặt sau hết nếm vị ngọt thành tựu: “đốt lửa trong hang đá, bàn tán về cá anh vũ”. Cuộc chiến khốc liệt kết thúc thắng lợi vẻ vang.

Qua đây, ta mới thấy được ông lái đò là người rất tinh thông binh pháp của thần sông, thần đá, là một hình tượng nhân vật mới mà Nguyễn Tuân đang hướng tới – một bức chân dung người lao động vừa hiên ngang, khí phách, ngang tàng lại rất giản dị.

Tóm lại, “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Bằng tài năng, ngòi bút uyên thâm cùng tri thức tổng hợp phong phú, ông đã rất thành công khi xây dựng được nhân vật người lái đò kiêu hùng, hiên ngang và hình ảnh con sông Đà với hai tính cách trái ngược nhưng rất đỗi đẹp đẽ. Tùy bút” Người lái đò sông Đà” luôn sống mãi trong lòng người đọc và trường tồn theo thời gian.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 11

Nguyễn Tuân là bậc thầy về tiếng nói trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Những tác phẩm của ông viết bằng cái “ngông” và bằng tình yêu tha thiết. “Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế. Hình ảnh con sông Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sĩ với nhiều vẻ đẹp khác nhau mang lại ấn tượng độc đáo đối với người đọc. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng hình tượng sông Đà bằng chất liệu tiếng nói và tình cảm phong phú.

Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đó, rồi chốc lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đó”. Có thể nói phải thật tinh tế và khéo léo mới có thể trông thấy sự chuyển đổi của sông đà tương tự.

Sông đà hiện lên là dòng sông hung bạo, lắm thác ghềnh, ngỗ ngược, không chảy theo phạm vi. Vẻ đẹp hiểm trở, nguy hiểm của sông đà được tác giả viết “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng giờ ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Chỉ với vài chi tiết phác họa con sông đà hiện lên với nhiều phức tạp, khó khăn, nguy hiểm khôn lường. Tác giả đã diễn tả xúc cảm khi đi qua đoạn sông này “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mất vừa vụt tắt điện”. Một lối so sánh độc đáo, đầy táo tợn và cũng không kém phần tinh tế. Sông Đà đẹp, nhưng đẹp vẻ đẹp hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm.

Chưa ngừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn khiến người đọc bất thần hơn nữa khi mô tả sự hùng vĩ, hung hãn đó “quãng mặt ghềnh hát loong, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”. Sông Đà hiện lên như một kẻ bất chấp hết, có thể lấy đi tính mệnh của những người nào vô tình đi qua đây. Thật táo tợn, mãnh liệt và mạnh mẽ.

Khi Nguyễn Tuân mô tả tiếng thác réo, người đọc có cảm tưởng như đang đứng trước sông đà hùng vĩ chiêm ngưỡng vẻ đẹp khó cưỡng đó “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. tiếng thác rống như tiếng một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Những câu văn với giọng điệu dồn dập, gay cấn, đầy xúc cảm. Một cảnh tượng hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Một cách so sánh, tuyệt vời, hiếm thấy trong văn học. Nguyễn Tuân thực sự là bậc thầy của tiếng nói, ông thổi hồn vào những con chữ, khiến con chữ như biết nói, biết rung động.

Đặc biệt hơn nữa, sông Đà hình thành ba trận đụng độ, người lái đò muốn vượt qua dòng chảy này thì phải vượt qua ba trận đụng độ hiểm trở, táo tợn này. Với giọng văn dồn dập, tác giả kéo người đọc vào cùng vượt thác với người lái đò. Trận thứ nhất “mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo. Sóng nước như thể quân quyên sinh vào sát nách…” Sang tới trận thứ hai “tăng thêm nhiều của tử để xí gạt con thuyền vào, và cửa sinh lại sắp đặt lệch qua bên phía bờ hữu ngạn”. Sang tới trận thứ ba nhịn nhường như ít cửa hơn nhưng lại quyết liệt và mãnh liệt hơn. Sông Đà hiện lên không khác nào một con thủy quái đang đòi nuốt trộng người lái đò và chiếc thuyền bất cứ lúc nào có thể. Con sống chính là “quân thù số một” của người lái đò, với tất cả đặc tính nham hiểm, thâm duy nhất.

Tuy nhiên kế bên vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, nguy hiểm, sông Đà còn hiện lên thật nên thơ và trữ tình biết bao nhiêu. Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân “sông đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đốt nương xuân”. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh, một hình ảnh tuyệt đẹp hiện lên giữa rừng núi hiểm trở Tây bắc. Đặc biệt khi tác giả mô tả nước của dòng sông mới thật tuyệt vời và thi vị biết bao “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông đà không xanh màu canh hến của sông Gâm sông lô. Mùa thu nước sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Những từ ngữ mượt mà, tươi đẹp đã làm nên vẻ đẹp hiếm có của một dòng sông tưởng chừng chỉ có hờn giận và hung hãn.

Sông Đà có những lúc buồn mênh mang và hoang vu tới lạ kỳ “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn như như một nỗi niềm cổ tích xưa”. Thật là một vẻ đẹp nhẹ nhõm, chất phác và tươi mới biết bao nhiêu.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 12

Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, là kết quả của chuyến xâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 – 1960 của nhà văn, in trong tập bút ký Sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.

“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Trong những tháng ngày cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn, thi sĩ đã thực hiện quá trình lột xác để tới với cách mệnh. Một trong những nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân – cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mang lại những tờ mây thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân tới với Tây Bắc qua tùy bút Người lái đò sông Đà – một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.

tới với nghệ thuật, đối với Nguyễn Tuân là tới với sự tìm tòi và sáng tạo, bởi vì “nhà văn là người sáng tạo lại toàn cầu”. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày ngày hôm nay giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính vì vậy, ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích cho thế cuộc mình. Sống là để đi, để tìm hiểu những điều mới lạ.

Trước cách mệnh, một mình với chiếc vali, Nguyễn Tuân đã bôn ba trên nhiều miền quê quốc gia nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với thế cuộc. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mệnh, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi nhưng với ý thức của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói tới Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc sông núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và vững bền”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn tiếng nói phong phú của mình để viết nên những tờ mây thơm thảo về con người và thiên nhiên của miền sông núi này…

Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho những giác quan. Vì vậy, những trang văn của ông thường mang theo âm điệu của những trận cuồng phong, bão tố. Nhưng không vì vậy mà chúng mất đi nét dịu hiền, thơ mộng. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình. Nó mang tâm địa xảo quyệt của thứ quân thù số một, có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…”Nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ nghìn năm vẫn phục kích hết trong lòng sông” và khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhỏm cả dậy để vồ lấy”… Nhưng cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. mô tả con sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, uyển chuyển, mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…

Trên con sông ấy, ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trong cuộc chống chọi “một mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí dũng tuyệt vời của ông lái. Người lái đò sông Đà là hiện thân của tác giả, chỉ thích lao vào những cuộc chống chọi nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không ưa xuôi thuyền trên dòng sông yên ả…

Giọng văn Nguyễn Tuân thật tự nhiên và phóng túng khi mô tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “quân thù, vừa là “cố tri”. Dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh vào giác quan người đọc. Ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo… Đối với Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Con người và sự vật, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ.

Nét đẹp sông Đà là một dự án dày công sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp tới màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy là nguồn cảm hứng cho biết bao thi sĩ, nhà văn. Nước sông Đà cũng thế. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượi bữa”. Con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi nhớ da diết cho những người nào đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Gặp lại sông Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố tri. “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao ngắt quãng”.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 13

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một cây bút có vai trò to lớn trong nền văn học Việt Nam hiện đại, một nghệ sĩ có khái niệm thẩm mỹ khác biệt và suốt đời đi tìm cái đẹp. Một trong những tác phẩm tùy bút xuất sắc của ông chính là Người lái đò sông Đà được in trong tập Sông Đà (1960) trong chuyến đi thực tế tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Tác phẩm cho ta thấy một Nguyễn Tuân với dung mạo mới mẻ, khát khao hòa nhập vào đất trời thiên nhiên, thể hiện tình yêu quốc gia và thế cuộc. Nguyễn Tuân muốn qua hình ảnh con sông Đà dữ dằn, hung bạo mà trữ tình, thơ mộng, người lái đò bình dị, giản đơn mà trí dũng tài hoa để ngợi ca vẻ đẹp của thiên và con người Tây Bắc của Tổ quốc. Bài thơ cũng chất chứa trọn vẹn phong cách thơ tài hoa, uyên chưng rất độc đáo của Nguyễn Tuân.

Hai hình tượng chính đi xuyên suốt tác phẩm là hình tượng sông Đà và hình tượng người lái đò. Một là thiên nhiên và một là con người tưởng nghe đâu chẳng hợp ấy vậy mà là tạo nên vẻ đẹp tới bất thần. Trước nhất là hình tượng sông Đà, không phải là vật vô tri vô giác mà là rất có hồn, rất có cá tính, dòng sông này được Nguyễn Tuân mô tả như một nhân vật có hai tính cách trái ngược vừa hung bạo dữ dằn vừa trữ tình thơ mộng

Mà biểu tượng về sức mạnh và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc lại là cái sự hung bạo, dữ dằn kia. Đá vô cùng hiểm trở, đá dựng vách thành, chẹt lòng sông như cái yết hầu làm cho mặt sông chỗ ấy vừa hẹp, vừa tối lại vừa rất lạnh chỉ vì đúng ngọ mới có mặt trời. Cả một trời đá, mặt hòn nào trông cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó đá phục kích dưới lòng sông hàng nghìn năm được nhân hóa, nổi hình nổi tướng oai vệ, uy phong lẫm liệt, nhổm dậy, vồ lấy thuyền,… quang cảnh choáng ngợp, kỳ vĩ, chật hẹp đã làm cho ta cảm thấy sợ hãi, lạnh lẽo và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên dù là mùa hè oi bức, nóng tính.

Sóng, nước thịnh nộ. Quãng mặt ghềnh Hát Loóng, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió… kéo dài hàng cây số cuồn cuộn… như thể đòi nợ xuýt người lái đò nào đi qua quãng ấy. Điệp cấu trúc tiếp nối nhau phối hợp động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần như nhấn mạnh sức mạnh của thiên nhiên rất kinh khủng và đầy lạnh lẽo. Những hút nước kinh rợn giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu… Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào. Nghệ thuật nhân hóa và so sánh khiến hình ảnh trở nên sinh động và tính hấp dẫn hơn diễn tả những chiếc thuyền bị hút xuống, hút thành trồng ngược cây chuối, bị dày vò hành xác mà vụt biến đi, tới mươi phút sau mới thấy cái xác tan tành ở khuỷnh sông dưới.

Thác như đang giận dữ mà gầm rống dữ tợn. Tác giả mô tả con sông với từ ngữ có tính gợi cảm, âm thanh tiếng thác từ xa nghe như van xin, oán trách, rồi như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Âm thanh tới sắp được ví như những con trâu rống lên lồng lộn… kinh rợn và kinh khủng. Sông Đà đặc biệt hung bạo khi những yếu tố trên phối hợp với nhau tạo ra những thạch trận, phòng tuyến với nhiều cửa tử, nhiều chiến thuật đánh khác nhau, nhiều đón đánh thâm hiểm, Nó như một loài thủy quái khổng lồ, nham hiểm mang dung mạo và tâm địa như một thứ quân thù số một của con người.

Sông Đà chỉ thực sự trữ tình thơ mộng khi chảy qua chợ Bờ và để lại những hòn thác xa xôi trên thượng nguồn. Tuôn dài như một áng tóc … ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc…, tưởng chừng dòng chảy của sông Đà như mái tóc của người thiếu nữ, là thiếu nữ Tây Bắc dưới bầu trời Tây Bắc. thuốc nước sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa lại có một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân thì nước có màu xanh ngọc bích, mỗi độ thu về nó lại chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa… Sông Đà có vẻ đẹp rất gợi cảm, thân thiết như người tình, khi gặp lại dòng sông như gặp lại cố tri mà cảm thấy mừng vui, xa thì lại nhớ nhung và dòng sông gợi vẻ đẹp của một ánh thơ Đường bởi màu nắng tháng ba… yên hoa tam quyệt. Cảnh vật hai bờ sông vừa hoang vu nhuốm màu cổ tích trong những câu chuyện hoàng tử công chúa của những đứa trẻ thư lại vừa trù phú, tràn trề sinh khí, tự do, tự tại của một chế độ mới. Qua hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên quốc gia. Với ông thiên nhiên cũng là tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và mô tả sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ cách nhìn khác biệt của bản thân: hài hoa, uyên chưng và lịch lãm. Sông Đà là một phông nền nổi trội đầy, đẹp đẽ nhưng không hề làm lu mờ đi mà còn làm bật lên vẻ đẹp người lao động trong chế độ mới.

Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra đoạn văn tràn đầy không khí trận mạc, tưởng tượng ra cuộc chống chọi khốc liệt của ông lái đò với bầy thủy quái sông Đà, để từ đó làm nổi trội hình ảnh người lái đò, một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Ông như một vị tướng chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí: biết bọn đá phục kích và bày thạch trận… Ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, thuộc quy luật phục kích của chúng nên linh hoạt thay đổi chiến thuật để tuần tự vượt qua từng phòng tuyến quân thù. Người lái đò là người từng trải, giàu kinh nghiệm hiểu biết sâu sắc về luồn lách sông Đà và cũng dũng cảm đụng độ trong cuộc chiến không cân sức với sông Đà. Sông Đà là thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc với sức mạnh được nâng lên hàng thần thánh có sóng nước reo hò quyết vật ngửa mình thuyền, có đá nghìn năm phục kích, bày thạch trận trên sông, thác gầm rống, reo hò làm thanh viện cho đó, sóng nước như thể quân quyên sinh đánh những đòn hiểm độc… Ông đò chỉ là một con người bé nhỏ, không có phép màu, vũ khí chỉ là chiếc cán chèo thô sơ trên một cái thuyền đơn độc hết chỗ lùi, nhưng vẫn sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục mọi cửa tử, cửa sinh, vượt qua trận thủy chiến đầy khốc liệt với đá nổi đá chìm với những trùng vi thạch trận và những phòng tuyến đầy nguy hiểm để thắng lợi thiên nhiên. Hình tượng người lái đò lúc này là một người lao động trí dũng.

Người nghệ sĩ tài hoa là hình tượng của người lái đò được hiện lên tiếp theo. Để vượt thác, tâm tình phải thực sự tĩnh tâm, chỉ một tí thiếu chính hay lơ là thì phải trả giá bằng chính tính mệnh của mình. Ấy vậy mà, ông lái đò đã đụng độ với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung của người nghệ sĩ; đã tĩnh tâm vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan. Với “vô lăng hoa” ông đã điều khiển con thuyền vượt qua ba trùng vi thạch trận sông Đà. Sông Đà ở trùng vi thạch trận thứ nhất có năm cửa trận, trong đó có tận bốn cửa tử và nhưng chỉ có một cửa sinh nằm lập lờ chẳng rõ phía tả ngạn. Bọn đá đứa thì hất hàm, đứa thì thách thức, khiêu chiến, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chè, sóng nước đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền, đánh những đòn hiểm độc vào ông lái đò. Ông lái đò đã bị thương những vẫn cố nén chịu nỗi đau thể xác, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch nhưng tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn, tỉnh táo đưa thuyền vượt qua khỏi nguy hiểm. Ở trùng vi thạch trận thứ hai, cửa tử lại tăng thêm nhưng cửa sinh vẫn chỉ có một mà nằm ở phía hữu ngạn. Dòng thác thì hồng hộc tế lên như hùm beo hòng nuốt xuống con thuyền. Ông lão chủ động đổi chiến thuật: nắm lấy bờm sóng… cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ. Bọn đá xô ra, định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử, nhưng ông nhớ mặt bọn này, chỗ thì ông bơi, chỗ đè rồi sấn tới, chỗ chặt đôi ra để mở đường tiến. Bọn đá chỉ còn biết thất vọng, tiu nghiu cái mặt xanh lè nhìn ông lão đưa con thuyền lọt vào cửa sinh an toàn. Ở trùng vi thạch trận thứ ba, sông Đà bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống duy nhất nằm giữa lòng sông do bọn đá hậu vệ trấn thủ. Ông lái kiên cường không mảy may lơ là, quyết đoán giữ vững ý thức, như hòa với con thuyền làm một, phóng thẳng tới cửa sinh an toàn, vượt qua mọi vòng vây . Thế là hết. Thánh thần thiên nhiên cuối cùng cũng không ngăn được sự tiến lên của con người, sự hung bạo của dòng sông cũng không ngăn được chiếc thuyền độc mộc và ông lão. Sự ngoan cường, sự quyết tâm cùng sự dũng cảm chính là yếu tố quyết định cho sự thắng lợi và đặc biệt là kinh nghiệm vùng sông nước của ông lái đò.

Sau khi đọ trí, thi tài với con sông, vượt qua ba trùng vi thạch trận đầy trắc trở, nguy hiểm, ông lại ung dung đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và say sưa nói về những loài cá mà không hề bàn thêm một lời nào về chuyện vượt thác. nhịn nhường như chuyện vượt qua thác nước chẳng động lại trong ông một cái gì gọi là sợ hãi hay lo lắng, ổng vẫn cứ mặc đời kệ người mà lạc quan, thư thái thật giản dị, lãng mạn. Nguyễn Tuân tìm thấy một hình ảnh của một con người mới, con người đáng được ngợi ca, trân trọng mà không phải là anh hùng đánh giặc trận mà chỉ là một con người lao động thông thường – con người Tây Bắc.

Chỉ là một người lái đò và một thác nước, Nguyễn Tuân lại viết nên như thể là một thước phim hành động điện ảnh cận cảnh. Hồi hộp có, kịch tính có, kích thích có, vỡ oà có, âm thanh đặc sắc, hành động đẹp mắt. Để viết được tương tự phải có trí tưởng tượng thật phong phú, một cách nhìn khác biệt, có cảm nhận đa chiều… cũng đủ thấy Nguyễn Tuân có vốn tri thức rộng lớn thế nào, suy nghĩ độc đáo thế nào và một nghệ sĩ tài hoa thế nào. Qua đây, nhà văn còn muốn phát biểu quan niệm, người anh hùng không chỉ có trong chống chọi mà con có trong cuộc sống lao động thường nhật, ví dụ như người lái đò kia.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 14

Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất trong tập tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân, tập tùy bút cũng đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Tuân so với giai đoạn trước cách mệnh. Trong Người lái đò sông Đà không chỉ nổi trội hình ảnh của người lao động kiên cường dũng cảm mà còn nổi trội một thiên nhiên đẹp đẽ, mang trong mình hai vẻ đẹp đối lập là vẻ đẹp hung bạo và vẻ đẹp trữ tình. Hai vẻ đẹp này hòa quyện, tạo nên bức tranh hoàn chỉnh cho dòng sông.

Trước hết về lai lịch của dòng sông, theo như Nguyễn Tuân, dòng sông khai sinh ở huyện Cảnh Đông – Vân Nam – Trung Quốc, sau đó ra nhập quốc tịch Việt Nam và cứ thể trưởng thành mãi lên. Những chữ như khai sinh, quốc tịch, … đã biến dòng chảy của con sông trở nên dòng đời, số phận và sinh thể sống.

Trước hết dòng sông mang vẻ đẹp hung bạo, dữ dội, bởi trước khi nhập quốc tịch Việt Nam nó đã chảy qua một vùng núi khác của Trung Quốc. dung mạo của dòng sông hết sức dữ dằn: đá bờ sông dựng đứng “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”. Hình ảnh so sánh lạ đã tái tạo được sự thu hẹp đột ngột bất thần của dòng sông, phối hợp với kĩ thuật mô tả tỉ mỉ: “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”cho thấy quang cảnh vừa hùng vĩ, vừa âm u, rợn ngợp. Cùng với đó là trường liên tưởng độc đáo và lạ, Nguyễn Tuân đã gợi ra cái lạnh lẽo từ quang cảnh. Thông thường để tạo ra cái lạnh người ta thường liên tưởng tới mùa đông, còn Nguyễn Tuân lại liên tưởng: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn khí”. Cái này này thấm sâu vào trong da thịt, khiến người ta phải run rẩy vì sợ hãi.

Cái dữ dội, nguy hiểm của dòng sông còn được nhà văn tạo hình ở đoạn mặt ghềnh Hát Loóng. Bằng tri thức địa lí sâu rộng, với vốn ngôn từ phong phú, Nguyễn Tuân đã tái tạo thành công vẻ đẹp hung bạo của dòng sông: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đó. Quãng này mà khinh suất vô lăng thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Câu văn trải dài, chia làm nhiều vế ngắn, có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên nhịp nhanh, mạnh, gấp gáp để diễn tả phản ứng dây chuyền giữa sóng, gió, nước và đá, chứa đựng đầy sự nghiêm trọng.

Sự nguy hiểm còn thể hiện qua những cái hút nước trên sông. Âm thanh kinh rợn, “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, âm thanh vừa dữ dội, vừa kì quái, nó nhịn nhường như được phát ra từ cổ họng một con quái vật. Về hình ảnh tác giả đặc tả những “đàn quạ bay lừ lừ trên những cái hút nước”gợi ra điềm gở, sự chết chóc. Tài hoa nhất là khi Nguyễn Tuân đẩy trường liên tưởng tới giới hạn xa nhất, khi tác giả vẽ ra cảnh một anh bạn quay phim táo tợn ngồi vào thuyền thúng để thả mình vào những cái hút nước ấy: “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…”.

Sau khi mô tả dung mạo hiểm ác, Nguyễn Tuân tiếp tục đi sâu vào trong tâm địa của con sông. Dòng sông Đà mang tâm địa thâm độc, hiểm ác, và nó được Nguyễn Tuân tái tạo rõ nhất trong cách chúng bày những trùng vi thạch trận. Ở đây Nguyễn Tuân đã khai thác tối đa hiệu quả của giải pháp nhân hóa, để trông thấy những hòn đá kia mang tính cách, sắc diện của con người. Theo như lời mô tả của Nguyễn Tuân, hòn đá nào cũng nhăn nhúm, méo mó và dữ dằn, chúng phối hợp với nhau tạo thành thiên la, địa võng trên sông. Trước khi vào trận đụng độ đã tổ chức sắp đặt trận địa, chúng chia thành ba trùng vi thạch trận liên tục nhau chứa vô vàn những cửa tử, mà mỗi trùng vi thạch trận chỉ có một cửa sinh duy nhất, cửa sinh này biến hóa khôn lường. từ đó thể hiện sự mưu mô, xảo quyệt của con sông với người lái đò. Bằng tri thức phong phú, uyên chưng trên nhiều ngành nghề cùng với vốn tiếng nói giàu chất tạo hình, Nguyễn Tuân đã mô tả trọn vẹn sự nguy hiểm, hung bạo của dòng sông, không chỉ ở dung mạo mà còn ở cả tâm địa, tính cách.

Ở thượng nguồn sông Đà mang trong mình vẻ đẹp kì vĩ, hung bạo, còn về tới hạ nguồn sông Đà lại mang một vẻ đẹp khác, nhịn nhường như đối lập hoàn toàn đó là vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn. Và ở trên phương diện này Nguyễn Tuân nhìn nhận sông Đà như một món quà vô giá mà thiên nhiên tặng thưởng cho đất trời Tây Bắc.

Để cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp sông Đà tác giả đã soi ngắm nó ở nhiều góc độ, thời gian khác nhau. Nhìn từ trên cao, sông Đà như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo, hết sức mềm mại, uyển chuyển. Sông đà được ví “tuôn dài như một áng tóc trữ tình” dòng sông hiện lên vô cùng mĩ lệ, tựa như một người thiếu nữ kiều diễm. Đặc biệt vẻ đẹp của dòng sông lại càng nổi trội hơn khi xuất hiện sắc trắng tinh khiết của hoa ban, sắc đỏ tới nao lòng của hoa gạo cùng với làn khói mờ ảo, khiến cho dòng sông nhịn nhường như chảy ra từ miền cổ tích. Màu sắc của dòng sông cũng thay đổi theo mùa, mùa xuân nước xanh ngọc bích, nước chảy êm đềm. Mùa thu lại lừ lừ chín đỏ như người say vì rượu bữa, hình ảnh so sánh thật đặc sắc cho thấy dòng chảy chậm chạp trở nặng phù sa của dòng sông.

Đặc biệt vẻ đẹp trữ tình của dòng sông được thể hiện rõ nét qua cảnh ven sông. Tác giả cố tình đẩy dòng sông vào miền cổ tích, để có cảm giác “từ thời Lí, Trần, Lê cũng tĩnh lặng tới vậy mà thôi”. Để mô tả cái tĩnh lặng của dòng sông tác giả đã sử dụng văn pháp lấy động tả tĩnh, chỉ nổi tiếng động của con cá dầm xanh song cũng đủ làm cho đàn hươu thơ ngộ giật thột ngờ ngạc.

Về tới hạ lưu dòng chảy của sông Đà trở nên hiền hòa hơn, điều đó đã được Nguyễn Tuân diễn tả bằng một câu văn vô cùng tinh tế: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Dù không mô tả trực tiếp song âm điệu của câu văn đã toát lên sự nhẹ nhõm, yên ả, đầy duyên dáng của dòng sông.

Tác giả đi sâu vào trong mô tả cảnh vật ven sông để làm nổi trội cái thơ mộng, lãng mạn của cảnh vật. Ông không tham lam những chi tiết mà chỉ một vài chi tiết rất đẹp, rất đặc sắc đã làm toát lên tất cả cái thần thái của bức tranh, đó là những nương ngô mới nhú, đồi cỏ ranh đang độ nõn búp,… Tất cả những chi tiết đều nhẹ nhõm, thanh thoát, nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.

Bằng ngòi bút tài hoa, vốn sống phong phú Nguyễn Tuân đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên sông nước của sông Đà hết sức đẹp đẽ. Sông Đà hiện lên qua những trang văn của Nguyễn Tuân không chỉ thuần túy là thiên nhiên, mà còn là một sản phẩm nghệ thuật vô giá. Qua đây tác giả cũng kín đáo thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết và niềm say mê, tự hào với thiên nhiên của quê hương xứ sở mình.

bai van phan tich cai toi cua nguyen tuan trong doan trich nguoi lai do song da ngu van 12 hay nhat 796803 2 1 1
tìm hiểu Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân lớp 12 hay nhất

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 15

Nguyễn Tuân người nghệ sĩ suốt một đời đi tìm cái đẹp và trằn trọc về cái đẹp. nếu như như trước cách mệnh ông thoát li thực tiễn, tìm cái đẹp ở thời còn vang bóng, thì sau cách mệnh cốt cách ấy vẫn duy trì nhưng ông tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống này, ở những con người lao động hết sức bình dị. Người lái đò sông Đà được trích từ tập bút kí Sông Đà là những nét vẽ trung thực về vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, và vẻ đẹp hào hùng của con người trong lao động.

Tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày phóng thích đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang đó lên phong trào tự nguyện tới những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.

Như chúng ta biết rằng, mỗi lời đề từ xuất hiện, thường sẽ tập trung tư tưởng của tác phẩm, là chìa khóa mở cánh cửa vào tác phẩm, hé lộ tư tưởng, chủ đề, cảm hứng chủ đạo. Người lái đò sông Đà sử dụng hai lời đề từ: Lời đề từ thứ nhất: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”, đây là câu thơ nổi tiếng của thi sĩ cách mệnh Ba Lan mang cấu trúc cảm thán. Câu thơ có thể là câu hát của những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác với tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu lao động, cũng có thể là sự ngơi ca của chính nhà văn trước tư thế làm chủ thiên nhiên của con người trong cuộc sống mới. Câu thơ thứ hai, Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã hé mở cho người đọc thấy, mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, duy có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Câu thơ đã khẳng định sự độc đáo của Đà giang đồng thời hé lộ cá tính nghệ thuật của Nguyễn Tuân – nhà văn của những phong cảnh tuyệt mĩ, cảm giác mãnh liệt.

Trước hết về hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân mô tả trên nhiều phương diện, vừa mang vẻ đẹp hung bạo nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ, trữ tình. Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông được Nguyễn Tuân thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Lúc ấy “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” đã gợi ra được độ cao và diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của khúc sông. Không chỉ vậy “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” đã diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy gợi ra lưu tốc vô cùng lớn nhất là vào mùa nước lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập. Với trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn nữa về những vách đá lạnh lẽo, tăm tối, ở khúc sông nhỏ và hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn khí”.

Không chỉ vậy sự hung bạo còn thể hiện ở “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”, ở đoạn này, Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông như một sinh thể người, đó là kẻ đi đòi nợ thuê, với gương mặt dữ dằn, tàn bạo. Câu văn với nhịp độ dồn dập, điệp từ, điệp cấu trúc được vận dụng liên tục (nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió) phối hợp với những thanh trắc liên tục đã tạo nên âm hưởng dữ dội, nhịp độ khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió và đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo nên một mối đe dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào “quãng này mà khinh suất vô lăng thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.

Sự hung bạo còn được thể hiện ở những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc trên khắp khúc sông, như trực lấy mạng của con người bất cứ lúc nào. Để tái tạo sự kinh khủng của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay ở nhiều chiều kích khác nhau, cho người đọc một cái nhìn toàn diện, đầy đủ nhất. Khi nhìn từ trên xuống mặt nước sông “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”; từ dưới lòng sông nhìn ngược lên “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”. Và để giúp người đọc cảm nhận được rõ hơn, tác giả còn đưa ra những vị thế cảm nhận khác nhau, với người quay phim thì như “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…” ; với người xem phim lại thấy “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”. Với những trải nghiệm và góc nhìn phong phú Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận đầy đủ mức độ nguy hiểm tột cùng của dòng sông Đà mà ở đây là những cái hút nước.

Cuối cùng sự hung bạo của sông Đà được khắc họa ở những trùng vi thạch trận khác nhau. Với trùng vi thách trận thứ nhật là “cả một chân trời đá”, “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Đá còn bày binh bố trận, như cố tình nhấn chìm con thuyền. Trùng vi thạch trận thứ hai tiếp tục tăng thêm thử thách, cửa tử nhiều hơn để xí gạt con thuyền và chỉ có duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh ấy lại không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào”, phối hợp với đá là dòng thác như hùm beo như chực vồ và nhấn mình con thuyền xuống đáy song. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Tất cả những trùng vi, thạch trận đều vô cùng hiểm ác, với mục đích duy nhất là làm cho con thuyền mất sức, thiệt mạng.

kế bên vẻ đẹp hung bạo, sông Đà lại hiện lên một vẻ đẹp rất khác, hoàn toàn đối lập, đó chính là vẻ đẹp trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt là giống như mái tóc của người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Dòng sông như một người thiếu nữ, với mái tóc tuôn dài, tuôn dài, tha thướt, uyển chuyển không ngờ. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng tô điểm thêm cho nhan sắc mĩ miều. Không chỉ vậy ở những thời khắc khác nhau sông Đà cũng mang vẻ đẹp riêng: Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, nhấp nhánh; Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Không chỉ vậy, vẻ đẹp sông Đà con như được bước ra từ miền cổ tích xa xôi, với những bãi bờ hoang dại như thời tiền sử: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã khá lâu”.

Người lái đò sông Đà không chỉ nổi trội ở hình tượng con sông Đà, mà để tô điểm, hoàn thiện vẻ đẹp sông Đà cần có sự xuất hiện của con người, và thật đẹp đẽ, chân dung người lái đò đã được Nguyễn Tuân thể hiện tài tình, rõ nét. Người lái đò không có một tên gọi cụ thể, mà chỉ được gọi tên là người lái đò Lai Châu. Để làm bật vẻ đẹp người lái đò, chân dung ông luôn được tái tạo tương quan với dòng sông Đà. Nghệ thuật tương phản đã làm nổi trội một cuộc chiến không cân sức: một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh nham hiểm, một bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo. Nhưng dù sông Đà gian ngoan, xảo quyệt bao nhiêu thì người lái đò lại kiên cường bám trụ bấy nhiêu “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Đặc biệt trong lần vượt trùng vi thạch trận thứ ba, ông lái đò đã thể hiện rõ tài nghệ của mình. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua khá nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi thắng lợi vinh quang. Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở phía sau lưng. thắng lợi của ông trước hết xuất phát từ sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống. Đây đông thời cũng là thắng lợi của tài trí con người, của sự tinh thông tới tường tận tính nết của sông Đà.

Đặc biệt, cũng như những nhân vật khác của mình, người lái đò còn được Nguyễn Tuân khắc họa ở vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Tài hoa là khi con người đạt tới trình độ điêu luyện, thuần thục trong công việc của mình, tới độ có thể sáng tạo được, có thể vươn tới tự do. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực ngợi ca hình ảnh ông lái băng băng trên dòng thác sông Đà một cách ung dung, tĩnh tâm, tự tại trong cuộc chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào hùng. Và phong thái nghệ sĩ của ông lái đò thể hiện trong cách ông nhìn nhận về công việc của mình, điềm nhiên tới độ lạ thường. Khi dòng sông vặn mình hết thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí tưởng”. Những nhà đò ngừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, “về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng”.

Bằng ngòi bút vô cùng tài hoa, tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang văn đẹp cả về phương thức và tư tưởng. Tác phẩm được tạo nên từ tình yêu quê hương quốc gia sâu nặng, tha thiết. Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ của quê hương quốc gia mà còn khẳng định sự lớn lao, sức mạnh phi thường của những con người thông thường trong hành trình chinh phục thiên nhiên.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 16

Nguyễn Tuân là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với tư tưởng, tình cảm gắn bó quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. “Người lái đò Sông Đà”, đó là một bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi thể hiện rõ nhất những nét tiêu biểu về phong cách đó.

“Người lái đò sông Đà” trước hết là một tác phẩm viết về một con người và con sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông thì mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở thành những dự án mĩ thuật, con người đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện của mình.

Bằng sự quan sát tỉ mỉ và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng phong phú và chuẩn xác của Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình tượng kì vĩ giàu sức hút trong thiên tùy bút rất độc đáo này.

Người lái đò trên sông Đà được Nguyễn Tuân nói tới trong tác phẩm là một ông già 70 tuổi đã dành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần…” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.

Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thạo trong nghề lái đò, và đã đạt tới trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục phân bua sự khâm phục của mình đối với con người này: “Sông Đà, với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc tới cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Thật là một cách so sánh “rất văn học” đầy thú vị và cũng “rất là Nguyễn Tuân”.

Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mùn” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Ồng đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của những bãi đá gớm ghê, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ nghìn năm vẫn phục kích hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.

Một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: “… hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông… những mô tả thực thực và táo tợn này cho thấy sức mạnh gớm ghê của dòng thác hung hãn đối với con người, chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một tí là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.

Nhưng chỉ dũng cảm và gan góc chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm lái để lái con đò tới mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người tài xế lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người tài xế còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có lùi gì cả…” vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo tợn, tác giả đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại có những “hút nước” xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó lút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”…

Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trở, đầy gian truân cho con người. Thế nhưng, “ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. “. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.

Rõ ràng qua cách mô tả tới tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhắm tới một mục đích lớn: ngợi ca sự dũng cảm, tài trí của con người, ngợi ca sự thắng lợi vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về tới bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người đã thắng lợi; trở về cuộc sống yên bình: “thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh (…). Sông nước lại yên bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…”

Cảm hứng lãng mạn đặm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con người lao động.

Sau mười năm làm nghề lái đò, kể cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực người lái đò vẫn còn “bầm tụ” một “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tuân, đó cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng”.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 17

Người lái đò sông Đà là một bài trích trong tập Sông Đà. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế của tác giả ở Tây Bắc năm 1958. Ông sông với quân nhân, thanh niên xung phong, người lao động cầu đường và đồng bào những dân tộc Tây Bắc từ Lai Châu về Sơn La. Thực tiễn xây dựng lại bản làng sau 1954, phong cảnh, con người Tây Bắc đã đi vào trang sách với một nổi vui sống bao trùm lên tất cả chen lẫn những cảm tưởng kỳ vĩ về quốc gia và Con người cũng như những xúc cảm trữ tình trước cái đẹp lạ thường và hấp dẫn.

Người lái đò sông Đà là một bài tiêu biểu. Lấy người lái đò làm nhân vật chủ thể của câu chuyện về con người sông Đà, nhưng thực chất là cảm tưởng, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Thành thử mượn lời ông lái đò già nhưng chính là tác giả mô tả con sông từ nhiều góc độ khác nhau, bộc lộ tâm tư tình cảm đối với con sông đại biểu này, tức là với lối viết của Nguyễn Tuân, con sông Đà đã trở thành con sông của Nguyễn Tuân.

Sông Đà có cả địa lí và lịch sử. “Nó khai sinh ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam bên Trung Quốc lấy tên là Li Tiên, đi qua một vùng núi ác, rồi tới sắp nửa đường thì xin nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên và tới ngã ba Trung Hà thì chan hòa vào sông Hồng”.

Con sông mà nghe như con người, nào khai sinh, nào xin nhập quốc tịch, nào trưởng thành… tiếng nói học bảo đó là nhân hóa, kì thực đó là nghệ thuật hóa, con sông có đời sống, có tính chất rất vững, rất độc đáo. Thời xưa, nhà Trần lấy sông Đà đặt tên cho một trong 15 lộ của cả nước: Đà Giang lộ. Chính vì vậy mà Truyền kỳ mạn lục có truyện Đà Giang dạ ẩm thuộc bối cảnh đời Hồ cuối đời Trần.

Đà Giang lộ là vùng đất từ Hưng Hóa trở lên. Bây giờ ta gọi đó là vùng Tây Bắc, từ Lai Châu xuôi về Hòa Bình, nối nhau bằng sợi dây thừng (chữ của Nguyễn Tuân) khổng lồ là sông Đà, nhìn từ trên tàu bay xuống. Sông Đà có lịch sử và truyền thống cách mệnh. Lịch sử dù biến thiên, con sông Đà vẫn là của người dân xứ Tây Bắc nước Việt. Nó dữ, nó hiền là một chuyện, nhưng con người vẫn ăn ở đời với nó.

Không nói chuyện quá xưa, Chỉ gom lại hồi Tây mới sang cướp nước ta, con người xứ Thái này đã cùng nhà yêu nước Cần Vương Nguyễn Quang Bích, ông Hoàng giáp tuần vũ Hưng Hóa ấy chống chọi tới cùng và trong thơ nhật kí hành quân của ông đã có bao nhiêu tên quốc gia thuộc vùng sông Đà. Tiếp theo đó là thời thằng Tây thống trị với đủ bọn lang đạo, địa chủ gian tham độc ác. “Con sông bị chúa đất từng vũng đem cắt ngang ra thành khúc nhỏ làm cho con sông ác thêm! Đế quốc đóng đồn bốt ven sông, tính dữ ác con sông lại tăng thêm mấy lần.

Tuy vậy, người xứ Thái không chịu rời sông. Hơn hai mươi năm sau, dự án thủy điện Hòa Bình đã sắp xong. Con sông Đà đã được chặn lại để làm nên điện và nên hồ. Hồ dài hàng trăm kilômét là cảnh du lịch, là nơi nuôi cá, là đường giao thông thuận lợi, tàu thuyền lên xuống nhẹ nhõm, không còn cảnh lên thác xuống ghềnh nguy hiểm mặc dù rất nên thơ, hào hùng như thuở xưa.

Mặt khác, chúng ta còn thấy sông Đà dữ, sông Đà anh hùng ca. Tạo được môi trường anh hùng ca phải là cái gì dữ dội, nguy hiểm cao độ, khắc phục được phải là thiên tài, tôi thiểu là tài tình hiếm có, mà phải là kiên trì, có khi cả liều xông vào chỗ chết để giành lấy cái sống, và tất nhiên cuối cùng phải thắng lợi vẻ vang. Sông Đà quả là một môi trường như thế. bản tính nó đã vậy. Tài hoa của nhà văn càng làm cho bản tính ấy sắc nhọn thêm, dữ dội, nguy hiểm thêm bội phần.

Cây cối, cỏ hoa hai bên bờ, ánh sáng trời trăng, nhà của, làng bản ven sông là nằm trong cảnh quan của sông, nhưng những cái đó thường hiền hòa, chưa nói tươi đẹp, ấm vui, hoặc không nói hoặc để lùi ra sau. Trước hết nói cái ruột nhất của sông. Cát là vật thông thường nhất chứ gì? Cát trên sông có hại chăng là khi nó thành gò làm thuyền bị mắc cạn. Có mấy người nào nghĩ rằng thứ hạt nham nhám ấy của sông Đà làm loét cả da nếu như chỉ đóng khố chứ đừng nói bận quần, vì nó chui vào bẹn và ăn luôn cả da, còn ở truồng mà lội nước thì “nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vệt hà đục thủng đáy và mạn dưới những thuyền gỗ”.

Thế là cát dữ. Bờ cũng chẳng hiền. Có nơi “nó dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy đúng Ngọ mới có mặt trời. Có vách đá vách chẹt lòng sông như một cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn khí”. Gió cũng đáng sợ.

Ở quãng ghềnh Hát Loóng là một vương quốc của gió phối hợp với nước, với đá, với sóng thành những cơn xoáy: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn từng luồng từng luồng cứ gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt” (nợ xuýt: nợ không có cũng đòi), mà không đòi được bằng tiền thì bắt người lái đò lại và “lật ngửa bụng thuyền ra”. Cát, vách đá, gió đều đáng sợ cả, nhưng không gì đáng sợ bằng “cát hút nước”.

Chắc cái tên này không phải của tác giả đặt ra mà là của đồng bào sở tại, ít ra là từ những vị lái đò trên sông này. Nó là chỗ nước xoáy, dòng nước đương xối ổn thoả, bỗng dưng không thấy vướng một vật nào nổi trên mặt nước cả mà dòng nước tới đó cứ xoáy tròn xoay thành vòng rất đẹp để trũng xuống một cái lõm như cái lõm đồng tiền trên một đôi má xinh xinh. ngờ đâu đó là chỗ nguy hiểm nhất cho thuyền đi trên dòng nước.

Nước ở đó ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Tiếng nước ặc ặc ấy, có nhẽ sông Đà mới có. Còn “những bè gỗ rừng đi ngông nghênh vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Vừa đáng sợ vừa buồn cười là thuyền mà lạc vào đó thì thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sồng tới mười phút sau mới thấy tan xác ở dưới khuỷu sông dưới”.

Cái đáng sợ nhất của sông Đà chưa phải là những cái đó mà là đá và thác, thác và đá thành Thạch Trận, hay nói đúng hơn, Thạch Thủy Trận. Nguyễn Tuân dụng ý trình bày một thứ trận đụng độ như kiểu Bát trận đồ của Khổng Minh theo binh pháp Tôn Ngô mà Khổng Minh sáng tạo lại. tất nhiên có pha chút hiện đại. Không có Long Xà trận nhưng có Thạch Trận. Thạch Trận cũng đủ cửa tử, cửa sinh. Không đủ Bát Trận nhưng có trận trước trận sau, trận trên trận dưới, nhiều lớp nhiều tuyến, có tiên phong có dự bị… Không có tướng trấn cửa, Nhưng Nguy Diên, Mã Siêu, Quang Hưng, Trương Bào nhưng có những tướng đá và quân nước.

Đá thì “nghìn năm vẫn phục kích hết trong lòng sông, có thuyền xuất hiện là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy… Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cùng nhãn nhúm, méo mó”… Tưởng như chúng nằm ngồi tản mạn tùy tiện, nhưng không phải. “Hình như sông đã giao việc cho mỗi hòn, sông bày Thạch Trận”, Thạch Thủy Trận. Đá được phân công hẳn hoi. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông.

“Hai hòn canh một cửa đá giữ vai trò dụ cái thuyền đôi phương vào tận tuyến giữa rồi nước sông luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại”. Thuyền không chịu chìm mà cứ tiến lên thì một thế trận khác lại đã sẵn bày. Tướng tá ở đây uy phong lẫm liệt. Có vẻ như những tướng trên sân khấu tuồng. Sân khấu thì hất râu, đá giáp, múa tít cây thương hay cây xà mâu, còn đây thì một tướng đá như “đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Một tướng đá khác “lùi lại một tí và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến lại sắp nào”.

Nhưng những tuyến của Thạch Trận đều tuần tự bị chọc thủng. những cửa tử đều chẳng nhử được thuyền. Cuối cùng, “cái thằng đá tướng đứng chắn ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Tưởng đâu như sáp bị khép vào tội trong binh pháp: quân thua chém tướng. Hết đá tới nước, quân nước. Đá dưới nước thì ở đâu cũng không hiền. Nước vốn êm dịu. Nhưng kết thân với đá, với gió, nước trở nên hung hãn. Nước sông Đà vào loại đó, tính từ Chợ Bờ trở ngược. Chỉ lắng tai tiếng kêu của nước cũng đã thấy ghê ghê. “Còn xa lắm mới tới cái thác dưới.

Nhưng đã thấy tiếng nước réo, sắp lại to mãi lên”. Đâu réo có một giọng. “Lúc nghe như oán trách, rồi lại như van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gầm mà chế nhạo”. Bỗng dưng, không biết chuyện gì, “nó rống lên tiếng một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn vì da cháy giữa rừng vầu rừng tre bốc lửa. Tới giữa thác thì một đằng đá chặn, một đằng nước sóng luồng nhằm thuyền mà đánh vu hồi”, đồng thời “reo hò làm thành viện”.

Có lúc nó reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm, một ấm nước sôi khổng lồ”. Nhưng không đâu tiếng nước nghe lạ như ở những cái hút, ở đó “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Tiếng nước đã ghê, sức nước còn đáng sợ hơn. Đừng nghĩ ổ gà chỉ có trên phố bộ, đường không. Mặt sông cũng có ổ gà. “Đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống, bị dồi lên.

Nước lại theo luồn. Cho thác, sông có rất nhiều luồng. Có luồng đi lầm vào thì chết ngay, thì cũng vẫn có thể thập tử nhất sinh như thường”. Lúc khác, nó có thể “đội thuyền lên, bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng lái đò đòi lật ngửa” ông ái cho phơi bụng “giữa trận nước vang trời thanh la bão bạt”. Nước đã thành võ sĩ thực thụ. Nó “đánh tới miếng đòn hiểm duy nhất: bóp chặt hạ bộ người lái đò, hột sinh dục vụt muốn thót lên cổ.

Bây giờ thì nó là con ngựa bất kham. Nó đang tế mạnh trên sông Đà”. Thế là ông lái “nắm chặt cũ bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh vào cửa sinh”. Nó đành chịu thua. Nhưng tới chỗ cái hút, nó rình sẵn, thuyền nào tơ mơ là nó rút luôn tận đá, chết tươi. Chẳng khác gì dân gian đồn Hà Bá lên lấy gỗ. Sông Đà quả không sai với tiếng đồn. Nó rất dừ. Cát dữ, bờ dữ, gió dữ, hút nước dữ, tập trung cái dữ là những Thạch Trận, đá và nước hùa nhau bẫy người vào chỗ chết.

Tác giả đã sử dụng ngòi bút trăm màu và cặp mắt nhiều con ngươi của mình để có hàng tràng những hình ảnh khác nhau mà luôn luôn đặc sắc, vừa có tính trí tuệ vừa có chất tạo hình, vượt lên trên cả thủ pháp quen gọi là nhân hóa mà đi vào bản tính sâu xa nhất, độc đáo nhất của sự vật thành những trang viết biến hóa khôn lường kế bên cái dữ, chúng ta còn cảm nhận được sông Đà đẹp, sông Đà trữ tình. Lên thác phải chống băng sào.

Cái hút nước là cái đáng sợ vậy mà tưởng tượng cứ chui xuống đáy nước rồi lia máy quay phim ngược lên “cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tỉnh khối đúc dày…” thì cái hút gớm ghê kia lại trở thành cảnh đẹp không ngờ. Nhìn từ trên tàu bay, sông Đà trông như cái dây thừng ngoằn ngoèo chứ không người nào nghĩ rằng nó đã bao đời làm mình làm mẩy với người dân Tây Bắc.

Cũng từ trên không ấy mà nhìn thì có lúc lại thấy sông Đà như “một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nước sông Đà màu đẹp. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ không xanh màu xanh canh hến của sông Gấm, sông Lô. Mùa thì nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Màu nọ màu kia hoàn toàn chuẩn xác, điều đó không nói làm gì, nhưng cái áng tóc kia sao lại là áng tóc trữ tình?

Dĩ nhiên đó phải là cái nhìn từ trên trời nhìn xuống và nhìn khắp lượt những từ chân tóc tới đầu tóc, nó buông nó thả, nó uốn nó quanh, nó trải, nó co – thiếu một mùi thơm của nước ướp hoa bưởi và của tuổi xuân tơ – nó là con sông mà sao nó nói bao nhiêu điều cho khách nhìn? Nó lại ẩn hiện chập chờn trong khói đốt nương (điều ấy rất nguy cho núi rừng) và mây trời bung nở trắng xóa hoa ban, đỏ hồng hoa gạo. Tạm coi những điều trên đây là cái nhìn. Còn đây là cái cảm. Tác giả nói ngay: “Con sông Đà gợi cảm”. Mỗi người mỗi khác.

Với tác giả, có lần ông nhìn nó như một cố tri, một người thân, người thương cũ, lâu ngày mới gặp lại. cố tri ấy đã xuất hiện đột ngột sau một chỗ ngoặt khỏi núi thành một vết nhoang nhoáng rồi một màu nắng tháng ba Đường thi “yên ba tam nguyệt há Dương Châu” (thơ Lí Bạch trong bài Tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng). Ôi, cái nắng tháng ba trên sông vừa khói vừa nước sáng nhoáng, mùa xuân đang lại, sinh khí lên cành lên thân, lên tim, nó đẹp, nó rét mướt làm sao!

Ông bạn thơ của Lí Bạch ra đi vào cái thời tiết hoa khói ấy có thấy dồn lên trong từng thớ thịt chất men xuân không thì chưa rõ, nhưng ở tác giả đoạn văn này thì ông như trộn lẫn người mình vào đám hội xuân của chuồn chuồn, bươm bướm, của nắng giòn tan trên sông, của đá ngầm xanh vọt lên mặt nước như bạc rơi thoi, của đàn hươu cúi đầu ngôn búp cỏ tranh đảm sương đêm, của sông Đà thơ mộng theo hồn Tản Đà “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” và của cả những nương ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa…

Sông nước, bờ bến, tịnh không một bóng người. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, sắp nhất cùng thuở Lí Trần. Đẩy cảm tưởng lên ngược thời gian xưa sơ, bỗng dưng tác giả lại thèm một tiếng còi síplê của một chuyến xe lửa Yên Bái – Lai Châu để cho nổi niềm cổ tích tuổi xưa trở màu thành hiện đại cho cảm tưởng gồm đủ hai chiều kim cổ.

Cuối đoạn văn trữ tình này, lại là một khoảng không gian khoáng đạt của dòng nước êm đang nhớ những bạn đá ghềnh, của giọng người miền xuôi thoáng rộng, êm êm, của những cánh buồm mở rộng thả phanh đón gió tứ phương trên những con thuyền mình nở chứ không phải là thuyền then đuôi én, khiến cho xúc cảm tràn ra mênh mang, vô tận. Sông Đà dữ thật nhưng sông Đà cũng rất trữ tình.

Đặc biệt, sông Đà còn tạo ra những con người cho mình. Ở đó có ông lái đò sông Đà. Ông sinh bên bờ sông Đà, uống nước sông Đà từ thuở để chỏm. Chắc chắn ông cũng đã hụp lặn trong lòng sông. Bây giờ nghỉ đò đã vài chục năm sau mười năm lên ngược xuống xuôi, cầm lái sáu chục phen, trăm phen đi về từ Lai Châu tận Hà Nội, bên nào, đá nào, luồng nào mà ông không thuộc.

Từ hình dáng bên ngoài: “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lây một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”. Cuộc sống sông nước đã rèn cho ông một “thân hình cao to và gọn quách như chất sừng chất mun”. Cũng cái nghề ấy đã biến tất thảy những lái đò sông Đà chỉ khỏe có đôi tay còn chân rất yếu, chạy rất kém.

Cử chỉ của ông cũng đều theo dáng lái thuyền: ngắt lời người khác, “ông nhanh như một vô lăng rẽ ngang sông miết theo luồng thác bắt chéo”. Từ hình dáng tới hiểu biết. Lái đò, ông biết con đò. vì sao thuyền Tây Bắc chỉ mình thon chứ không nở? Không phải vì xứ này thiếu gỗ trái lại, cũng không phải vì không biết thuyền mình nở thì chở được rất nhiều hàng. Phải đóng thuyền then đuôi én thì mới qua được những cửa luồng đã ọp lại còn rất hẹp. Cả chuyện cái buồm cũng vậy. Lái đò sông Đà ở miền cao thì cần sào chống, chèo bơi, cần nữa thì dây kéo, ít khi sử dụng buồm.

Về dưới xuôi, cần buồm thì “căng hai cây sào lại thành cột buồm và căng cái mui ra làm buồm mà treo lên. Có điều chân trời Tây Bắc và sông Đà thường là vướng núi, cái buồm di động trên lườn núi, vốn không phải là hình ảnh quen mắt của người hai bờ sông Tây Bắc”. tới con sông thì coi như ông thuộc tựa lòng bàn tay. Sông Đà, đối với ông, chỉ có ý vị đặm đà từ Chợ Bờ trở ngược.

Đời người lái đò sông Đà là một đời chống chọi thực thụ. Cứ nghe thuật một chuyến xuống thác đủ biết. Lúc đó, thiên nhiên sông Đà là quân thù số một. Nhìn nó, thấy nó không “thơ đời Đường” nhàn hạ mà là một cuộc đấu tranh để giành sự sống từ tay nó về mình.Đá bày trận thế nào, nước reo, nước rống, nước ặc ào ra sao, luồng nước sinh có đá canh phòng cắn mật, luồng nước tử có đá dụ vào, lúc luồng ở tay trái, lúc luồng ở tay phải, mày mặt thằng tướng đá nào như thế, khi nào thì đè lên đầu luồng mà tiến, khi nào thì tóm lấy bờm sóng nước mà vượt, vững vô lăng ra sao khi chung quanh tiếng sóng nước reo hò vang lừng để thanh viện…

Hỗn chiến với đá với nước tới cật sức, hết khá, tưởng như rời rã vậy mà qua xong thác, khi làn “sóng thác xèo xèo tan trong trí tưởng, sóng nước lại yên bình thì chả người nào bàn thêm một lời nào về cuộc thắng lợi vừa qua nơi cửa ải đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”. Hết thác, sông lại yên bình thì lòng lái đò cũng bình yên. chống chọi gay go vô số, nhưng vẫn là chuyện thường nhật, không có gì đáng hồi hộp, đáng nhớ, Sông Đà, đối với ông lái đò, quả là “một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc tới cả những dấu chấm câu và những đoạn xuống dòng”.

Bản thân ông cũng sống một đời hào hùng, có điều sự hào hùng ấy là chuyện hằng ngày nên ông chẳng coi có gì đặc biệt. Ông đã khuôn người ông vào trong khổ của sông Đà và sông Đà đã rèn ông theo mẫu của mình. Cũng như anh hàng thịt heo; bởi vì không có cái gì thuộc về sông Đà mà ông không biết. trái lại không có cái gì ở ông mà không là hình ảnh sông Đà.

Tóm lại, đọc văn Nguyễn Tuân, nhất là tùy bút, có người đã cho như soi trong kính thiên sắc (Thiên sắc kính là đồ chơi trẻ con), chỉ mấy màu mà lắc lên bên này thì một toàn cầu màu, lắc bên kia lại một toàn cầu màu khác. Ngòi bút ông lại không chỉ bảy màu mà trăm màu. Cứ từng câu, từng chữ đã thấy thú vị, nếu như người đọc chịu chú ý tới từng câu từng chữ, và nhìn thấy trị giá và công sức đã bỏ ra thường là tới bạc tóc như người xưa nói, để có được chữ ấy, câu ấy.

Đọc Người lái đò sông Đà thấy rõ chủ trương của tác giả về viết văn. Từ ngữ phong phú, tìm tòi hẳn hoi, câu cú vặn vẹo thỉnh thoảng nhưng vẫn Việt Nam và nhân dân, hình ảnh ví von luôn bất thần, độc đáo mà chuẩn xác, cũng không tránh những hiện thực không thanh nhã, nhưng vẫn đắc địa.

Chi tiết tùy bút này đã hay, chỉnh thể của bài văn càng cho thấy sự hiểu biết khoa học tới cặn kẽ, và trội lên tất cả là một tấm lòng yêu thương con người, quốc gia, yêu cái gian khổ đã vượt qua như một bản anh hùng ca, nên càng quý cái mong ước cho tương lai tươi sáng, hạnh phúc.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 18

Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Hoàn cảnh lịch sử diễn ra đó là khi cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để có thể xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc. Lúc bấy giờ có biết bao nhà văn, thi sĩ lúc này đây nhịn nhường như cũng đã thực hiện quá trình lột xác để tới với cách mệnh. Trong đó không thể không nhắc tới người nghệ sĩ yêu nước Nguyễn Tuân được ví như một cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tác ra tác phẩm “Người lái đò sông Đà” để có thể thể hiện được rõ nét và vô cùng sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.

Có thể nói khi tới với nghệ thuật, thì chính đối với Nguyễn Tuân là tới với sự tìm tòi và sáng tạo, bởi vì chính nhà văn là người sáng tạo lại toàn cầu. Tác giả Nguyễn Tuân sợ mình của ngày ngày hôm nay nhịn nhường như cũng giống với mình của ngày hôm qua, ông như sợ sự trùng lặp tầm thường. Cho nên ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, phải đi thì mới có thể viết lên những tác phẩm có trị giá được.

Hình ảnh con sông Đà cũng được rất nhiều nhà văn, thi sĩ khắc họa, nhưng phải tới với Nguyễn Tuân thì con sông Đà mới hiện ra trung thực và vô cùng cảm động. Với ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình biết bao nhiêu. Con sông Đà như còn mang tâm địa xảo quyệt của thứ quân thù số một, tất cả như cũng có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…” không ngừng lại ở đó thì nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ nghìn năm vẫn phục kích hết trong lòng sông”. Nguyễn Tuân còn mô tả có khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhổm cả dậy để vồ lấy”… Thế nhưng chính cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Nhà văn còn mô tả nổi trội lên được hình ảnh con sông ở những đoạn xuôi dòng, không những thế thì ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, thật uyển chuyển, mang đậm chất thơ với đoạn mô tả: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…

Chính trên con sông ấy, hình ảnh ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Khi đứng trong một cuộc chống chọi “một mất, một còn” với những cái thác nước, tác giả Nguyễn Tuân lúc này cũng đã cho ta thấy được cái tài hoa, sự trí dũng tuyệt vời của ông lái đò. Hình ảnh của người lái đò sông Đà cũng chính là một hiện thân của tác giả, ông như cũng chỉ thích lao vào những cuộc chống chọi nguy hiểm với thác nước dữ dội mà nhịn nhường như cũng không ưa xuôi thuyền trên dòng sông yên ả…

Sử dụng giọng văn thật tự nhiên và phóng túng khi mô tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật là một thành công của Nguyễn Tuân. Hình ảnh con sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, đồng thời con sông Đà cũng chính là một quân thù nhưng lại là một cố tri. Chính dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, thêm với đó có một sự sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tất cả như đã tác động mạnh vào giác quan người đọc. Hình ảnh của ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách sinh động, thể hiện một sự rõ nét và sắc sảo… Đối với nhà văn Nguyễn Tuân thì “đã là văn thì trước hết phải là văn”. trước hết đã là văn phải đẹp, phải trau chuốt. Và đối với cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả Nguyễn Tuân như đứng trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh con người và sự vật lúc này đây cũng lại thông qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ biết bao nhiêu.

Qua bài tùy bút thì nét đẹp sông Đà được đánh giá chính là một dự án dày công sáng tạo của tạo hóa. Con sông Đà như cũng vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp tới màu sắc, với những câu văn mô tả dòng nước, tốc độ chảy của con sông Đà mới đẹp làm sao. Đó cũng chính là nguồn cảm hứng của bao nhiêu văn, nghệ sĩ. Nước của con sông Đà khi tới mùa xuân dòng xanh ngọc bích, còn với mùa thu thì nước sông Đà nhịn nhường như cứ lừ lừ chín đỏ giống như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Hình ảnh con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó cũng thật gợi cảm. Con sông Đà như cũng đã gây nên nỗi nhớ da diết cho những người nào đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Khi gặp lại sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân như cũng cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố tri mà phải thốt lên: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao ngắt quãng”.

Cũng chính trong cái đẹp đẽ, một cái đẹp như thật thơ mộng của đất trời thiên nhiên, hình ảnh con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái đò sông Đà điêu luyện điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục nhất giống như một người nghệ sĩ. Hình ảnh ông lái đò bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải quy hàng. Với đoạn văn mô tả cảnh ông lái đò vượt thác thật đẹp: “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Nhà văn Nguyễn Tuân mô tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon thật hay, thật nhịp nhàng không chệch một nốt.

Có thể nói tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Ở trước cách mệnh, nhà văn Nguyễn Tuân lúc đó cũng thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ. Nguyễn Tuân luôn viết, tìm hiểu với một thời vang bóng đã qua. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy được nhân vật của Nguyễn Tuân là những Huấn Cao, nhân vật quản ngục mang tâm trạng của kẻ có phí phách “nào biết trên đầu có người nào”. Tất cả những nhân vật “vang bóng một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, họ đều khinh bạc tới điều. Thế nhưng sau cách mệnh thì nhà văn Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, sắp gũi nhất ở ngay chính trong những công việc thông thường mà họ đang làm.

Với tác phẩm “Người lái đò sông Đà” thì người lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài hoa có một trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân cũng đã mô tả hình ảnh người đời thường lái đò, Thêm với đó là Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, sự cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính trong việc tái tạo lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và thêm với đó là hình ảnh của người lái đò, tác giả Nguyễn Tuân đã phối hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau trong tác phẩm của chính mình như: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Tất cả mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động biết bao nhiêu. mô tả đoạn “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Con sông Đà còn có âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền thế rồi những con sóng dậy lên thành thác núi. Đọc tác phẩm độc giả giống như đang tận mắt chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, đồng thời cũng lại chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông yên ả, trữ tình biết bao nhiêu.

ko phải ngẫu nhiên mà người ta lại coi Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên chưng. Vì vốn cũng như nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh vật học… thật lớn. Tất cả những tri thức này cũng thường được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm của ông. Thể hiện rất rõ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” thì Nguyễn Tuân cũng đã đưa ta tới với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, rồi lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính uyên chưng, tài hoa.

Nói riêng về khả năng diễn đạt và vốn tiếng nói của tác giả Nguyễn Tuân thật phong phú. Cứ mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn nhịn nhường như đã được sàng lọc, gọt giũa thận trọng. Nguyễn Tuân như cũng đã khéo sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn của Nguyễn Tuân thỉnh thoảng có vẻ thô kệch, nó nhịn nhường như cũng đã dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Tác giả không chỉ viết lên những trang văn tài hoa mà còn khiến cho người đọc cảm nhận được âm hưởng trong mỗi đoạn văn.

Tác giả đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một vùng quê hương Tổ quốc thì nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thêm với đó là tình yêu thiên nhiên quốc gia. Thực sự chính văn học của ông đã mang tới cho chúng ta một vẻ đẹp tri thức tài hoa, uyên chưng.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 19

Nguyễn Tuân là một nhà tuỳ bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đạt được sự thăng bằng giữa hai thời kì lịch sử trước và sau cách mệnh tháng Tám 1945. Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những biến đổi nhất định.

Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn trên một cơ bản thống nhất của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên chưng, thích cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp. Người lái đò Sông Đà rút trong tập tuỳ bút Sông Đà – một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau cách mệnh tháng Tám.

Sau cách mệnh tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm chất kí. tức là tư liệu rất phong phú, ngổn ngang, nhất là tư liệu về địa lí, lịch sử, dân tộc học. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình tượng sống động, thành những sinh thể, những nhân vật có vong hồn. Vì vậy bài tuỳ bút không chỉ có một nhân vật mà hai nhân vật: người lái đò và con sông Đà.

Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập với nhau – như tác giả nói – “hung bạo và trữ tình”. Lúc trở mặt hung bạo, nó cứ như là “quân thù số một” của con người. Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy chất thơ, rất đỗi dịu dàng, thân thiết, giống như một người tình, một “cố tri” gặp thì mừng vui, xa thì nhớ nhung, lưu luyến.

Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân – một cây bút vốn luôn luôn thèm khát những cảm giác, xúc cảm mới lạ, nồng nàn, say đắm. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió, về bão, về thác nước dữ dội, nếu như không phải là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của người, của viên ngọc trai đáy biển, của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ tiên nở đúng đẻm giao thừa, về sắc đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước của nàng Kiều,…

Về tính cách hung bạo của con sông Đà thì từ xa xưa ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh – Thuỷ Tinh: “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm trả thù đời đời kiếp kiếp đánh ghen”.

Nguyễn Tuân thì không thể sử dụng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những bức tranh trung thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông Đà khiến người đọc cũng phải rùng mình sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Ông đã tung ra biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để quyết một phen thi tài với Tạo hoá.

Chẳng hạn, ông sử dụng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông bị chẹt giữa hai vách đá dựng thành cao vút “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn khí”.

Và đây nữa, ông tả cái hút nước gớm ghê “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn […]. Nhiều bè gỗ rừng đi ngông nghênh vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông tới mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.

sử dụng thủ pháp văn học như thế ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn Tuân còn chuyển sang sử dụng kĩ thuật đặc tả của điện ảnh. Ông tưởng tượng ra một anh quay phim rồ dại nào đó, ngồi vào một cái thuyền thúng cho nó hút xuống đáy cái hút nước kinh khủng kia cả người lẫn máy thu hình:

“Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre – plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”.

Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân tới thế thật là đã được đẩy lên tới mức kì khu, kì quái do cái động lực ngang bướng: không chịu lùi bước trước Tạo hoá.

Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự trở thành một loài thủy quái khổng lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ: “tiếng nước réo sắp mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Khi tới sắp, tiếng nó bỗng “rống lên như tiếng một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.

Con thuỷ quái không chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,… Vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo ý thức đối phương,…

Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông nước lại trở nên rất đỗi yên ả yên bình. Nguyễn Tuân gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông Đà lúc này lại như một tiên nữ giáng trần. Nó “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”.

Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xuân bay trên sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân là dòng xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt người say rượu… Cảm hứng dạt dào, nhà tùy bút cũng muốn trở thành thi sĩ. Ông thấy “lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước”.

Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khoẻ, từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường nét thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. quả tình nhiều khi ông đã đạt tới khả năng gợi tả của tiếng nói thơ, tức là nói được những điều khó nói bằng văn xuôi: ấy là cái mà ông gọi là “màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” – thoáng hiện lên trên sóng nước sông Đà.

Ấy là cái bâng khuâng ngơ ngẩn của dòng nước lững lờ trôi xuôi như thương nhớ những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi “một người tình nhân chưa quen biết” – “Dải sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.

Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đặm đà màu sắc cổ điển: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ tới vậy mà thôi.

Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.

Chao ôi, thấy thèm được giật thột vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa trước hết đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Có thể gọi đó là những dòng thơ văn xuôi của nhà tuỳ bút.

Trên cái nền của con sông vừa “hung bạo” vừa “trữ tình” ấy hiện lên sừng sững hình tượng người lái đò sông Đà. Thực ra ông lái này chủ yếu xuất hiện trong cuộc vật lộn với một con thác dữ, tức là ở cái phía hung bạo của sông Đà.

Giả sử tác giả đặt ông ta trong quang cảnh khác – quang cảnh thơ mộng trữ tình – chắc hẳn ông sẽ trở thành một anh chàng Trương Chi si tình trong cổ tích. Nhưng ở đây, đụng độ với con sông dữ, với một loài thủy quái, ông lái đò nhất thiết phải trở thành một dũng sĩ kiên cường – một nhân vật sử thi trong thiên trường ca leo ghềnh vượt thác…

Nói tới nhân vật của Nguyễn Tuân, không thể không lưu ý tới cách tiếp cận riêng của ông đối với con người. Ấy là cách tiếp cận từ phương diện tài hoa nghệ sĩ. Ở Nguyễn Tuân khái niệm này có một nghĩa rất rộng: không chỉ thu hẹp ở những người làm nghệ thuật như thi sĩ, hoạ sĩ hay đào nương, kép hát,… mà gồm bất cứ người nào đã đẩy được cái công việc mình thường làm lên tới độ cao siêu, trác việt, dù công việc ấy chỉ là uống trà, ăn phở, giã giò, giã cốm, thậm chí công việc của tên đao phủ chém đầu người…

Ở đây, ông lái đò cũng được tiếp cận tương tự. Đúng là ông lái đò của Nguyễn Tuân. Lái đò như thế thì không còn là chuyện nghề nghiệp thông thường nữa mà đã sang hẳn phạm trù của nghệ thuật, nghệ sĩ – nói như tác giả – là “vô lăng ra hoa”.

Tất cả nghệ thuật của ông lái đò là nắm chắc “quy luật thế tất của dòng nước sông Đà”. Làm chủ được quy luật thì tức là đạt tới tự do và nghệ thuật. Có điều đây là một quy luật hết sức khắc nghiệt. Chỉ một tí thiếu chuẩn xác, một tích tắc thiếu tĩnh tâm, loá mắt lơ tay là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.

Để làm nổi trội tài nghệ của ông lái đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác của ông ta như là một viên tướng ngày xưa tiến vào một trận đồ bát quái được sắp đặt sẵn với rất nhiều cạm bẫy giăng ra hết vòng này tới vòng khác, mỗi vòng đều có những “viên tướng đá” nham hiểm, quái ác chờ sẵn và quyết xoá sổ bằng được đối phương của mình.

Ở đây Nguyễn Tuân lại phải vận dụng tới những hiểu biết về khoa học quân sự và về võ thuật để diễn tả: nào là đòn dương, đòn âm, đá trái, thúc gối, phục kích, vu hồi,… Nào là tuyến một, tuyến hai, cửa sinh, cửa tử,… Chỉ là chuyện một ông lái đò và một cái thác nước mà Nguyễn Tuân đã viết được những trang thật hấp dẫn mà người đọc cứ như được nhìn thẳng vào những thước phim quay cận cảnh, đặc tả với bao tình huống hồi hộp,…

Viết được những trang như thế, phải có một trí tưởng tượng phong phú lắm, phải có một kho chữ nghĩa giàu có lắm và phải có một vốn tri thức thuộc nhiều ngành nghề văn hoá, nghệ thuật khác nhau. Nguyễn Tuân thường đã say một cái gì thì muốn quan sát, mô tả nó từ mọi mặt, mọi phía, nói cho tới sơn cùng thuỷ tận, nhịn nhường như không muốn cho người nào nói thêm được gì nữa. Con người này chủ trương uống rượu phải uống cả cấn (dĩ tận vi độ), văn của ông cũng muốn như thế.

Và ông lái đò đã hiện lên như Nguyễn Tuân mong muốn: một con người tài hoa trí dũng tuyệt vời đã hạ gục được cái thác nước hung hãn nham hiểm, phá hết vòng vây này tới vòng vây khác “cưỡi lên con thác”, “nắm chặt lấy bờm sóng”, “phóng nhanh”, “lái xiết”, “đè sấn lên” luồng sóng này, “chặt đôi” luồng sóng khác, tránh cửa tử, lao thẳng vào cửa sinh, vượt qua trùng trùng ải đá “Vút vút cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua khá nước” để cuối cùng thoát hẳn ra ngoài con thác dữ.

Qua bài tuỳ bút, đặc biệt là qua đoạn tả cuộc vượt thác của ông lái đò, Nguyễn Tuân muốn nói với người đọc rằng: chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường. Nó ở ngay trong cuộc sống của nhân dân ta hằng ngày phải vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Và trí dũng tài tình không phải tìm ở đâu đâu, mà ở ngay những người dân lao động thông thường kia. thế cuộc của ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 20

Với bài kì nổi tiếng “người lái đò sông Đà” – rút từ tập “tùy bút sông Đà” xuất bản năm 1960, Nguyễn Tuân muốn xưng tụng ông lái đò tài hoa trì dựng trên sông thiên nhiên bạo liệt, và tiếng nói Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một ông tài bậc thầy lèo lái con thuyền chữ trên dòng sông Thi không kém thác ghềnh. Chính từ áng kỳ này, người nghệ sĩ vốn nổi tiếng tài hoa uyên chưng từ trước cách mệnh tháng 8 nay lại có dịp trổ ra một phong cách nghệ thuật đầy khía cạnh thú vị trước 1 cuộc sống đã thay đổi. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ngợi ca người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của dân tộc, một nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm, và tôn vinh cái đẹp. Ông có vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học hiện đại: xúc tiến thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú thêm tiếng nói văn học dân tộc, đem tới cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách nổi trội, tài hoa và độc đáo.

Với chất tài hoa tài tử sẵn có trong một tâm hồn nghệ sĩ yêu cái đẹp, một bộ óc uyên chưng và lối hành văn cầu kì, độc đáo, Nguyễn Tuân gây ấn tượng với người đọc bởi những tác phẩm cực đẹp. Đối với ông, đã đẹp là phải đẹp tới toàn mĩ, đã dữ dội là phải dữ dội tới khác thường, tới tột đỉnh. Và trong một chuyến đi gian khổ và đầy hào hứng tới vùng Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, ông đã tìm thấy cho mình một “nàng thơ” hoàn mĩ: sông Đà với hai “thái cực” tranh chấp tới mê hoặc: hung bạo, dữ dội mà trữ tình, đẹp đẽ.

Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong tác phẩm. Viết về Đà giang, ngòi bút của Nguyễn Tuân vô cùng phóng túng, thoải mái bởi “Người lái đò sông Đà” được viết bằng thể loại tùy bút. Ông chẳng khác nào một nhà quay phim lão luyện. Có khi ống kính của nhà văn tiếp cận con sông Đà từ phía viễn cảnh. Từ trên cao, Nguyễn Tuân nhìn thấy con sông Đà dài ngoằn ngoèo như một sợi dây thừng.

Có đôi lúc, ống kính của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông hẹp, cắt từng đoạn sông để mô tả cái sự hung bạo của những đoạn sông với hình ảnh “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” Thậm chí có những đoạn “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách.

Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Ấn tượng hơn nữa là việc “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một quang cảnh cửa sổ nhà nào ở tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn khí. Và phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân còn được thể hiện qua góc nhìn điện ảnh được sử dụng để cảm nhận, tạo cho người đọc một ấn tượng về vẻ đẹp của sự hùng vĩ mà thiên nhiên Tây Bắc đã mang lại.

Những quãng ghềnh thác hãy còn đáng sợ ở cái dữ dằn của gió – nước: quãng mặt ghềnh Hát Loong, dài hàng cây số, gió phối hợp với nước, với đá, với sóng tạo nên những cơn xoáy thật kinh hãi: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió ghùn ghè suốt năm suốt tháng như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”. Cái dữ dội, hung bạo của ghềnh thác được mô tả thành công và sinh động như đang hiện hữu trước mắt người đọc bởi nghệ thuật tài tình của Nguyễn Tuân với hàng loạt những động từ mạnh, câu văn nhiều dấu phẩy liên tục tạo nên sự liệt kê trùng điệp của hành động “sô” và phần nào dựng nên nhịp độ ton tả, dồn dập vừa như cái dữ dội, mạnh bạo của dòng nước mà còn như tiếng tim đập của người đi trên sông.

tương tự rõ ràng ở nơi ấy lòng sông rất hẹp, độ dốc của con thác rất cao, nhiều luồng chết, vực xoáy. Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn, huy động chủ yếu tri thức võ thuật và quân sự để mô tả sự vận động của dòng nước. Ông cũng cảm nhận con sông bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng tượng của độc giả độc giả. Bởi vậy, con sông Đà hiện lên là một nhân vật có tính cách và cả tiếng nói.

Ta còn thấy Nguyễn Tuân tập trung vào mô tả sự hung bạo của Đà giang ở những hút nước với cách liên tưởng vô cùng táo tợn. Ở những cái hút nước giống như những cái giếng bê tông người ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu: “trên những cái hút nước ấy cũng đang quay lư lừ những cánh quạ đàn”. Nước ở đó cứ “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, có lúc lại nghe rờn rợn như tiếng “rót dầu sôi”. Sông Đà không khác gì một loài thú dữ đầy ranh mãnh, chực chờ vồ lấy những chiếc thuyền mỏng manh. “Cho nên không một chiếc thuyền nào dám men sắp cái hút nước ấy…

Bè gỗ ngông nghênh qua đây vô ý là bị hút nước đó lôi tuột xuống, có chiếc thuyền bị nó giồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm dưới lòng sông tới mười phút sau, mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Những so sánh, ví von “như cửa cống bị sặc”, “như cái giếng bê tông”… đầy gợi hình, gợi cảm của tác giả gây cảm giác vô cùng mạnh làm cho người đọc như nghe thấy, nhìn thấy cận cảnh cái hung hãn của sông Đà mà thót tim lại. Thế nhưng, giống như đang cùng người đọc ngồi cùng một chiếc thuyền qua sông, Nguyễn tuân lại đưa người đọc tới những cái kinh rợn hơn nữa của dòng sông Đà.

Trước hết là những âm thanh của tiếng thác gào rùng rợn, hoang dại: con sông Đà đã trở thành một loại thủy quái vừa hung ác, vừa nham hiểm: “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lau, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bừng”. Ở đoạn văn này, tác giả đã huy động rất nhiều giải pháp nghệ thuật như nhân hóa, liên tưởng, so sánh, sử dụng hàng loạt động từ mạnh khiến hình ảnh sông Đà thật kinh rợn như một nhân vật mang tâm địa hiểm ác với cái kiểu khôn khéo, ranh ma.

Tiếp tới là sự hung bạo, dữ dằn của đá sông Đà, đó là những cửa tử đang phục kích ẩn núp để gieo rắc kinh hoàng cho người lái đò. Bằng tri thức sâu rộng về quân sự, võ thuật, thể dục, thể thao và điện ảnh, Nguyễn Tuân đã phác họa nên một cuộc chiến đầy gay cấn như một quyển binh pháp về đánh trận trên sông Đà. Đá ở đây được chia thành ba tuyến và năm cửa, bốn cửa tử và duy nhất chỉ một cửa sinh.

Lòng sông thì trắng xóa làm nổi trội những tảng đá đang bày thế trận, tảng nào, hòn nào “trông cũng ngỗ ngược và như những vị tướng”, “có vị trông uy phong lẫm liệt”, “có vị thì như đang hất hàm bắt cái thuyền phải xưng tên xưng tuổi trước khi giao chiến”. Có vị “lại lùi về một tí và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến sắp vào”.

Con thác khúc sông này mới độc áo, xảo quyệt làm sao! Nó như đang phục kích để rồi đột nhiên nhổm cả dậy vồ lấy con thuyền nơi khúc sông ngoặt, khi thì nó lại tỏ ra sơ hở để dụ con thuyền vào rồi bất thần quay lại đánh quật vu hồi. Khi đánh giáp lá cà tì nó đâm thẳng vào hông ông lái đò, bẻ gãy cán chèo, rồi đá trái thúc gối vào bụng, giở đủ đòn âm, đòn tỉa, rồi túm lấy thắt lưng đòi lật ngửa bụng ông lái đò trên trận nước. Nó vừa đánh vừa reo hò la hét vang động cả một vùng sông nước hoang vu.

Đồng thời, khi viết về dòng sông, Nguyễn Tuân đã bộc lộ rõ mình là một nhà văn với tình yêu quê hương quốc gia tha thiết bởi trong văn học nghệ thuật, viết về sông núi là viết về giang sơn mà viết về giang sơn là viết về Tổ quốc. Đây là tình yêu nhất quán trong thế cuộc cầm bút của nhà văn. Trước cách mệnh, tình yêu quê hương Tổ quốc của Nguyễn Tuân được bộc lộ một cách thầm kín thông qua tác phẩm “Thiếu quê hương”.

Không chỉ ngừng lại ở đó, ngòi bút của Nguyễn Tuân còn tập trung vào để mô tả cái vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng của dòng sông Đà, nhất là đoạn sông ở phần hạ lưu. Người yêu văn nhận thấy Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng mạn, trữ tình, vô cùng kiều diễm.

nếu như ở đoạn văn trên, Nguyễn Tuân mô tả con sông Đà hung bạo với những tri thức nền chủ yếu là quân sự hay võ thuật cùng những câu văn ngắn, nhiều động từ, nhiều thanh trắc thì tới đoạn văn này, Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng tri thức du lịch, tri thức lịch sử, tri thức văn học với câu văn vươn dài ra như nhịp chèo thong thả của thuyền tôi trôi trên sông Đà. nếu như để ý, người yêu văn hẳn sẽ nhận thấy có tới mười bốn câu văn Nguyễn Tuân kết thúc toàn với thanh bằng để tạo cảm giác mênh mang mềm mại.

Cái đẹp của sông Đà, mà cũng có nhẽ cũng là nét đẹp trong tâm hồn Nguyễn Tuân, hiện lên mỗi khác qua mỗi góc nhìn khác nhau. Khi nhà văn bay tạt ngang sông Đà, từ trên cao nhìn xuống con sông, điều trước hết nhìn thấy lại chính là hình dáng như “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, sau đó là “từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây” rất tinh tế và ngưng đọng lại hình ảnh “sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.

Và những lần sau nữa, khi Nguyễn Tuân “nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà” hoặc lúc xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”, ông thấy dòng sông hiện lên như một mỹ nhân hiền dịu đầy xuân sắc với bao màu sắc biến đổi diệu kì: “mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Con sông tươi đẹp, sinh động biết bao chứ không phải là con sông đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu”.

Và con sông Đà lại đẹp một kiểu khác nữa, khi Nguyễn Tuân dẫn người đọc đi xuyên rừng tới. Ông đã gọi sông Đà tới ba lần tiếng “cố tri”. Nguyễn Tuân ấn tượng với cái màu nhoang nhoáng của mặt nước như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Và ông bỗng nhiên phát hiện trong cái nhấp nhánh ấy “sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ bãi sông Đà rập rờn bay bao chuồn chuồn bươm bướm.

Nhà văn vui sướng đắm say khi hội ngộ cùng con sông. Nỗi niềm ấy được ông ví von như niềm vui khi thấy cái “nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “như nối lại chiêm bao ngắt quãng” – cái nắng sưởi ấm tình cảm thân yêu, sắp gũi của tác giả trong cảm giác “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố tri”.

Một lần nữa khi thuyền trôi ven bờ, tác giả đã phát hiện được thêm bao nhiêu vẻ đẹp gợi cảm của con sông. Gây ấn tượng trước hết với người nghệ sĩ là sự tĩnh lặng nhẹ nhõm: “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ tới vậy mà thôi”. Con sông bây giờ không hẳn chỉ là của hiện tại, nó trôi ngược về quá khứ xa xưa với sự so sánh, liên tưởng đầy bất thần của tác giả: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử.

Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Càng đọc, ta càng có cảm giác như tác giả đã nhập thân làm một với cỏ cây sông nước, như say sưa mê đắm với không gian nơi đây để cho hiện dần lên trước ống kính bao vẻ đẹp sinh động: đó là “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, là “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”, là “một đàn hươu vùi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Đằng sau những dáng vẻ, những thực thể, màu sắc ấy, người ta còn thấy một sức sống ngồn ngộn, tươi mới, trẻ trung đang ẩn núp, đang ngầm sinh sôi, đi lại.

Kì ảo hơn nữa là khi nhà văn như đã nghe được tiếng nói của chú hươu: “thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” cũng như dòng sông “đang lắng tai những giọng nói êm êm của người xuôi”. Và từ hiện tại, ông ước mơ tới tương lai nghe một “tiếng còi sương” hoặc “thèm được giật thột vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa trước hết” hòa nhập cùng dòng sông “lững lờ như thương nhớ”.

Có thể nói tâm hồn nhà văn như vỗ cánh cùng ước mơ sông Đà đẹp tươi hơn trong ngày mới dựng xây. Càng về cuối bức tranh, sông Đà càng đẹp và sống động với “áng cỏ sương”, rồi “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” và “tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Cảnh thiên nhiên cứ mở rộng dần bằng vẻ đẹp vừa hiện thực vừa biến ảo trong cái nhìn đắm mình trong thơ mộng của nhà văn.

Ta còn thấy hai nghệ thuật nhân hóa và so sánh được Nguyễn Tuân sử dụng một cách rất nhuần nhụy. Ông cảm nhận con sông Đà và so sánh nó, ví von nó như một áng tóc của người thiếu nữ vô cùng lãng mạn, trữ tình, mĩ lệ: “như một áng tóc trữ tình”… Đây được xem như đoạn thơ đẹp nhất trong tùy bút “Sông Đà”. Đọc xong “Người lái đò sông Đà”, gấp lại trang sách đã lâu nhưng những câu văn đẹp như những vần thơ ấy vẫn giăng mắc, ở trọ mãi trong tâm hồn của mỗi người yêu văn.

Nhà văn đã để cho dòng xúc cảm dào dạt thốt lên thành lời hội thoại lặng im với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, nhịn nhường như con người muốn hòa vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn tới lúc này mới thật sự vẫy vùng trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật phóng khoáng của sông Đà.

xúc cảm từ thực tiễn của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những ước mơ mang tính dự đoán về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tiễn cuộc sống mới đã tạo điều kiện cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chuẩn xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.

Với sự quan sát tinh tường, trí tưởng tượng phong phú và tư duy liên tưởng so sánh bất thần phối hợp cùng việc sử dụng tài tình tiếng nói Tiếng Việt với những cấu trúc câu trùng điệp, phối hợp linh hoạt và đầy sáng tạo những giải pháp tu từ, tác giả đã làm nổi trội lên hình tượng con sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ nhưng cũng đầy thơ mộng của thiên nhiên quốc gia. Hình tượng thiên nhiên này cũng chính là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong giai đoạn mới.

từ đó, nhà văn cũng bộc lộ được sự tài hoa của mình khi liên tục sáng tạo nên những dáng vẻ biến ảo khôn lường khiến người đọc phải ngạc nhiên, thán phục. Đó là sự tài hoa thiên bẩm cùng với nền tảng là một vốn tri thức uyên chưng về cả nghệ thuật lẫn thế cuộc, sự dày công quan sát, tìm hiểu đối tượng cần tiếp cận, khám phá cũng như tình cảm man mác sâu nặng, đằm thắm và giàu sức sống, đầy tươi trẻ dành cho Tổ quốc.

Tuỳ bút ” Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên chưng của nhà văn Nguyễn Tuân . Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ngợi ca vẻ đẹp bình dị , anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây . từ đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu quốc gia , niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt Nam.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 21

Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trường, lúc đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong những tác phẩm văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong những hình ảnh nổi trội. Nguyễn Tuân ngợi ca người lao động bình dị, vô danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây quốc gia.

Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để từ đó tô đậm, làm nổi trội hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung hãn, bạo ngược bao nhiêu thì khi vượt qua nó, thắng lợi sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.

Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về ông lái đò với những con số đầy sức ép và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là một lần đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.

Để làm nổi trội vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”. Ở dung mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, khi sử dụng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”. dung mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng manh với người đọc, bởi nó trái ngược hoàn toàn với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là dung mạo, ngoại hình của một chàng thanh niên vạm vỡ, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần phải có một thể lực phi thường để chống chọi lại với những con thác dữ.

Phẩm chất nổi trội và có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của ông lái trong nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản hồ nào nhưng lại có thể nhớ một cách chuẩn xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc tới cả dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Không chỉ dày dặn kinh nghiệm, ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – phương tiện mưa sinh thành một niềm mê say mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái chết song ông không hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ thực sự đặm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu như phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.

Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến vô tiền khoáng hậu trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh gớm ghê, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt này để có thể giành được thắng lợi, ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.

Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để dồn ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm song cái nhìn và cách mô tả của Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề nông cạn dễ dàng, ông ghi lại thời khắc mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước những đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo dai, cường tráng vẫn quyết tâm kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt khoát. Và ưng ý dũng ảm, sức khỏe phi thường, tĩnh tâm ông lái đò đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự thay đổi bất thần, biến hóa khôn lường trong việc sắp đặt những cửa sinh, cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoạn quân sóng nước, cách đánh của ông cũng biến hóa linh hoạt, để thích hợp với những trùng vi thạch trận khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả mô tả không nhiều song vẫn làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoạn, ông đã vượt qua tất cả nhưng cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song thắng lợi đã thuộc về con người.

nếu như như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà thì sau cuộc chiến cách xử sự với chiến công, thắng lợi của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, tư cách. thắng lợi được sông Đà với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều không phải người nào cũng có thể làm dược, thậm chí đây là một chiến công phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao động nơi đây tà tà một điều hết sức thông thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa thông thường hóa những điều phi thường mà tâm hồn, tư cách của những người lao động nơi đây càng trở nên trân trọng, đáng quý.

Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ được mô tả không phải là những con người phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh nững người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 22

Cái nhìn và điểm nhìn nghệ thuật trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là một trong những phương diện nổi trội. Trong bài ký sắc sảo và ấn tượng này, Nguyễn Tuân thể hiện cái nhìn về đối tượng phản ánh – người lái đò sông Đà – từ góc nhìn của cái đẹp, và con sông Đà từ những sự tham chiếu mang tính tổng hợp thẩm mỹ của địa lý – lịch sử – văn hóa.

Về con sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện hai điểm nhìn chính là hùng vĩ, hung bạo và thơ mộng, trữ tình. Hai điểm nhìn này có tác dụng bổ sung cho nhau để dựng nên hình tượng con sông Đà độc đáo và thú vị. nếu như thiếu một trong hai điểm nhìn thì hình tượng con sông không còn nguyên trị giá, mất sức hút, lôi cuốn: Thiếu điểm nhìn về đặc tính hùng vĩ, hung bạo mà chỉ còn trữ tình thì con sông thiếu tính cá biệt, cá tính và chỉ là con sông thông thường; thiếu điểm nhìn về đặc tính thơ mộng, trữ tình thì con sông chỉ còn lại đặc điểm địa lý, con người sẽ cảm thấy sợ hãi, lánh xa. Do vậy, hai điểm nhìn trên tương tác lẫn nhau để vừa tạo nên tính trung thực, vừa tạo nên sức hút riêng, độc đáo vô tiền khoáng hậu trong cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

Trong cả hai điểm nhìn, những sắc thái của đối tượng được mô tả, phẩm bình, đánh giá luôn phong phú, đa dạng, linh hoạt trong cách sử dụng từ ngữ giàu chất thơ, cách ví von so sánh mới lạ của nhà văn. Chẳng hạn, mô tả con sông ở khúc hẹp thì như chiếc yết hầu bị đá bờ sông chẹt cứng, khi ở khúc rộng thì mênh mông hàng cây số của một toàn cầu đầy gió gùn ghè; khi thì mặt thác với dòng nước như hùm beo lồng lộn, khi thì những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu…

Điểm nhìn không chỉ ngừng lại ở hình hài dòng sông hay bờ sông có đoạn hoang dại như một bờ tiền sử mà cả ở âm thanh của con sông cũng được thơ hóa đa dạng, phong phú: oán trách thủ thỉ, khiêu khích chế nhạo, đột ngột rống lên, thét gầm lên, ặc ặc lên, thở và kêu như cửa cái cống bị sặc… Điểm nhìn trữ tình trước hết thể hiện ở cách ví von có tính mô phỏng nhưng sống động về con sông như một áng tóc trữ tình và huyền diệu với đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây.

Mặt khác là khi không gian của điểm nhìn vận chuyển về khúc sông êm đềm, yên ả như đoạn chảy qua chợ Bờ thì nước dòng sông có lúc xanh như ngọc bích, có lúc lại đỏ lừ; ấn tượng về dòng sông như với cố tri, có lúc lại mang màu huyền ảo sương khói như trong một cảnh thơ Đường tuyệt bút của Lý Bạch. Thiên nhiên cây cỏ cũng gợi tình, lãng mạn: nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp, một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm…

Về người lái đò trên sông Đà, cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Tuân thể hiện ở những điểm nhìn về ngoại hình, về lòng dũng cảm, về tài năng lái đò trên con sông, về tình yêu lao động và tất cả toát lên vẻ đẹp trong cách mô tả và thể hiện của tác giả. Trong cái nhìn của thiên tùy bút giàu chất nghệ thuật và sáng tạo này, người lái đò sông Đà hiển hiện một cách tự nhiên và thuyết phục từ tính tổng hợp thẩm mỹ của mọi đặc điểm, trị giá. Tính tương tác của hình tượng người lái đò với con sông Đà trong những điểm nhìn của nhà văn tạo nên những trị giá mới mẻ cho cả hai. Cũng từ đó, tạo nên những ấn tượng độc đáo và sâu sắc về tình yêu quê hương quốc gia và con người Việt Nam qua thiên tùy bút đẹp như một bài thơ.

Giữa hai đối tượng mô tả là con sông Đà và người lái đò sông Đà luôn có mối quan hệ gắn bó khăng khít và mật thiết trong cách nhìn và thể hiện của tác giả. Vẻ đẹp và sức hút của mỗi đối tượng mô tả có được là nhờ sự tương tác giữa chúng, từ đó, tạo nên hiệu quả thẩm mỹ của bài ký tuyệt bút này. Với người lái đò, con sông Đà vừa là đối tượng của cuộc chiến cần và phải chinh phục để mưu sinh, có khi khó khăn tới mức có rất nhiều lúc trông nó thành ra dung mạo và tâm địa một thứ quân thù số một (…) thấy nó chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về minh.

Nhưng cũng chính với những đặc điểm hung bạo của con sông đà, người lái đó mới có điều kiện để thử thách, vượt lên và thể hiện những phẩm chất chiến sỹ trận mạc và nghệ sỹ của mình: Ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước, của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất…

Người lái đò dũng cảm và mưu lược trong mọi tình huống của những vòng thạch trận, vì ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Do vậy, lúc thì cưỡi lên thác sông Đà, lúc thì nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái.. và linh hoạt ứng phó một cách bản lĩnh và tài nghệ: Đối với bọn thủy quân sông Đà, ông đò nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến… Và trong cuộc chiến với người lái đò như thế, những vẻ đẹp và hấp dẫn trong nét tính cách hung bạo của con sông Đà cũng có điều kiện để hiển lộ. tức là, con sông không chỉ là một hiện tượng tự nhiên mà là một hình tượng nghệ thuật, một nhân vật thực thụ có hồn vía, thần thái, tính cách.

tương tự, thi pháp kết cấu hình tượng của Người lái đò sông Đà có sự tương tác giữa những đối tượng thẩm mỹ. Chính mối quan hệ giữa những yếu tố trong một hệ thống nghệ thuật thống nhất ấy đã tạo nên tính tư tưởng và thẩm mỹ, góp phần đáng kể làm nên sức hút độc đáo của hình tượng vừa giàu chất thơ, chất phiêu lưu, lãng mạn nhưng cũng hết sức hiện thực luôn thấm đẫm tình yêu thiên nhiên và con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 23

Nguyễn Tuân được biết tới là một cây bút tài hoa, uyên chưng, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm nhịn nhường như đã khắc họa vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ngợi ca người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” đã được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), và gồm có 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó chính là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn tới Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đã đi tới với nhiều vùng đất khác nhau, sống với quân nhân, người lao động và đồng bào những dân tộc. Thực tiễn công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem tới cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận.

Có thể nói ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vĩ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

Qua tác phẩm đặc sắc “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với một tấm lòng tự hào của mình đã khắc họa những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên quốc gia qua hình ảnh con sông Đà hung bạo nhưng có lúc lại hết sức trữ tình. Đồng thời, nhà văn nhịn nhường như cũng phát hiện và ngợi ca chất nghệ sĩ, sự tài tình trí dũng của con người lao động mới đó chính là chất vàng mười đã qua thử lửa của quốc gia trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó mà nhà văn đã ngợi ca con sông Đà vừa hung hãn nhưng cũng có lúc trữ tình, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc chuyên cần, dũng cảm, rất tài tử và cũng rất tài hoa.

Người lái đò nhịn nhường như đã hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có rất nhiều kinh nghiệm đò giang. Hơn nữa lại có lòng dũng cảm, gan góc, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân thật tài tình khi đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ. Và nếu như không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. có nhẽ nhà văn gọi đây là cuộc chống chọi gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó còn chính là một cuộc vượt thác đầy nguy hiểm tới tính mệnh, diễn ra nhiều hồi, và cũng rất nhiều đợt như một trận đánh mà ở đó nhịn nhường như đối phương đã hiện ra dung mạo và tâm địa của quân thù số một.

nhịn nhường như “Đá ở đây nghìn năm vẫn phục kích hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này” có thể thấy rằng mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là ngay tức khắc có một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Có thể nói Nguyễn Tuân như đã sử dụng rất đắt cho việc sử dụng tiếng nói của mình bằng cách tả những hòn đá. Ông tả mặt của hòn đá nào nhịn nhường như cũng trông ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…”. Con sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Và khi đi tới đây mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Và việc một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh khỏi ra được một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn phía trước.

nhịn nhường như trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi con sông Đà tung ra miếng đòn hiểm duy nhất đó chính là sử dụng nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, mà nhịn nhường như vẫn giữ được sự tĩnh tâm, đầy mưu trí. Lúc này đây người lái đò bỗng như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Và ngay cả khi người lái đò bị thương, thì ông vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, rồi cả đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm nữa. Nhưng trong khi người lái đò “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, không quản nhọc mệt thì ngay tức khắc người lái đò đã lại “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lão lái đò nhịn nhường như cũng đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Và cho tới vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng nhịn nhường như lúc này người lái đã chủ động “tiến công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền đã vun vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút cửa ngoài rồi lại cả cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua khá nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Và nhịn nhường như trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông nhịn nhường như mang sức mạnh siêu tự nhiên thật hung hãn của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, có thể nói rằng chính những cái kết cuộc cuối thì với người lái đò vẫn thắng lợi, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu khuân mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.

Người lái đò hiển hiện trong tác phẩm chính là một người lao động vô danh, làm lụng thầm lặng, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ và người lái đò trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động chân chính đã thắng lợi thiên nhiên là nhờ ý chí kiên cường, dai sức, quyết tâm mà thắng lợi sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.

Có thể nhận thấy nổi trội nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. nhịn nhường như khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu như việc làm của họ nhịn nhường như đã đạt tới trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong Người lái đò sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là vô lăng ra hoa. Nghệ thuật được sử dụng đặc sắc ở đây là phải tinh thông và nắm chắc những quy luật thế tất của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. nếu như như chỉ cần có một tí thiếu tĩnh tâm, thiếu chuẩn xác, hay lỡ tay, quá trớn đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông Đà không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ ngay. Chung quy lại, thì ở bất cứ nơi nào cũng nghiêm trọng. Ông lão lái đò nhịn nhường như vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. có nhẽ chính vì vậy, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, tĩnh tâm như vị chỉ huy cầm quân tài tình. nhịn nhường như mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chuẩn xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thoả như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí tưởng. Sông nước lại yên bình. Và trong đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng như chả thấy người nào bàn thêm một lời nào về cuộc thắng lợi vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi cả. Như những nghệ sĩ chân chính, thì sau khi đã vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm để đời thì không mấy người nào tự tán tụng về công sức của mình, và chính nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét rằng “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chống chọi với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ”. Chính vì vậy mà họ nghĩ thế lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có nhẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa thì chỉ có Nguyễn Tuân mà thôi.

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” còn chính là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên chưng của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm đặc sắc này không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà nhịn nhường như còn ngợi ca vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. từ đó, nhà văn Nguyễn Tuân đã có thể bộc lộ tình yêu quốc gia, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 24

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của văn học hiện đại Việt Nam thế kỉ XX. Trước cách mệnh tháng 8 tên tuổi của ông được biết tới thông qua tác phẩm “Vang bóng một thời”, “Một chuyến đi”,…Sau cách mệnh tháng 8, ông chuyển sang thể loại tùy bút và thành công nhất ở thể loại này chính là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ ở hình tượng con sông Đà “hung bạo, trữ tình” mà còn bởi hình tượng người lái đò hiên ngang trên thác dữ.

Người lái đò sông Đà là một thiên tùy bút xuất sắc được in trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Đó là kết quả của nhiều dịp đi và viết về Tây Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp của ông. Tác phẩm là một thiên tùy bút mang đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Người nghệ sĩ tài hoa đã sử dụng cây bút của mình để khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên, quốc gia và con người lao động Việt Nam.

Mở đầu thiên tùy bút, Nguyễn Tuân đã dẫn hai câu thơ làm đề từ: “đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” và “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”. tương tự nhà văn đã ngầm thông báo với độc giả về hai đặc điểm của con sông với nét tính cách đối nghịch: dữ dội, hiểm ác – kiều diễm, thơ mộng. Dưới con mắt của bậc du tử luôn khát tìm sự lạ hóa, thiên nhiên sông Đà như một bản thể có tính nết phức tạp. Thoạt tiên ta có thể nhận thấy tính chất hùng vĩ, dữ dội hiểm ác của con sông Đà.

Theo Nguyễn Tuân có nhẽ đây là con sông lắm thác ghềnh, vực xoáy, vô cùng nguy hiểm cho con người. Mùa lũ tới, nó “ác như người mẹ kế”, dữ dằn như con quái vật, trở thành “quân thù số một” của con người. Chất hùng vĩ của con sông Đà được hiện lên trước hết ở cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành. Những bức thành vách đá chẹt lấy lòng sông hẹp. Độ hẹp của lòng sông được nhà văn xoay ngắm đủ những góc độ: “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, “chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”,…thật thú vị. Một sức hút thông thường làm sao có nổi sự so sánh vừa chuẩn xác, vừa tinh tế vừa phong phú, vừa bất thần và lạ thường tới thế. Nguyễn Tuân luôn lục lọi tới kiệt cùng cái kho tiếng nói muôn màu sắc để đem tới cho người đọc không chỉ cảm nhận bằng thị giác, cảm giác mà cả những tưởng tượng thú vị. Cái kinh khủng, dữ dội và hiểm ác của con sông Đà tiếp tục được Nguyễn Tuân đặc tả ở những quãng mặt ghềnh Hát Loong: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn,..rồi tiếp tới là những hút xoáy nước “Hút nước xoáy nước tít đáy lừ lừ như cánh quạ đàn…sâu như tiếng bê tông thả xuống”, “Tiếng nước thở và kêu như cống cái bị sặc”. Chưa ngừng lại ở đó Nguyễn Tuân tiếp tục tìm cho ra cảnh tượng gây được ấn tượng mạnh cho đọc giả. Đó là cảnh thác nước: “Tiếng thác nước nghe sắp mãi lại réo to mãi lên,…nghe như oán trách rồi lại như van xin…Thế rồi nó bỗng rống lên như tiếng một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre, nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bùng,..”. nếu như như ở đoạn trên nhà văn sử dụng tiếng nói điện ảnh để diễn tả sựu kinh khủng mà đày lí thú của những xoáy hút nước thì ở đoạn này ta nghe như có âm thanh của bản nhạc giao hưởng, dạo đầu bằng những tiếng thủ thỉ của dòng thác, rồi nghe như oán trách, van xin, rồi lại như chế nhạo, khiêu khích. Thế rồi bỗng phóng to hết cỡ dồn dập, bừng bừng gào thét hỗn độn tất cả những loại âm thanh của núi rừng, thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của cơn phấn khích dữ dội, man dại và cuồng loạn bởi những âm thanh đập ầm ầm vào đá. Để nói cho tận cùng tính dữ dội, hiểm ác của con sông, Nguyễn Tuân tiếp tục đưa người đọc tới khúc ngoặt của sông và chân trời đá: “đá ở đây từ nghìn năm vẫn phục kích hết trong lòng sông”. Chúng ngỗ ngược, đứng, ngồi, nằm tùy thị hiếu. nhịn nhường như từ nghìn xưa, sông đã giao việc cho chúng phải bày binh bố trận, có hàng tiền vệ, tuyết giữa và hậu vệ, có cửa sinh, cửa tử, biết dụ biết lừa, biết đánh, biết đá, biết hỏi và biết cả thách thức. Phối hợp với đá là thác nước, chúng hò la vang động làm thanh viện cho đá, có khi quyên sinh sóng nước ùa vào làm “bẻ gãy cán chèo, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng lật ngửa đánh đờn hiểm…”. Nguyễn Tuân đã sử dụng tiếng nói của nhiều ngành khác nhau: võ thuật, thể thao, quân sự để làm sống dậy một con sông. Nhà văn xoay ngắm ở nhiều chiều, nhiều bề: cao – rộng, trên bề mặt – dưới lòng sâu, đào xới tới tận cùng bản tính dữ dằn, hiểm ác để chứng tỏ sông Đà – con thủy quái – quân thù số một của con người.

Sông Đà làm một bản thể chính vì vậy mà kế bên sự hùng vĩ, dữ dằn của con sông, sông Đà còn hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.

Viết về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà, Nguyễn Tuân không ưng ý với những tri thức nông cạn, quen nhàm mà luôn dồn hết tâm huyết, dựng công nặng nhọc tìm tòi mang tới cho người đọc sự hiểu biết phong phú, toàn diện về một con sông, một vùng đất giàu trị giá vàng với những trang văn dạt dào xúc cảm. Đây là đoạn văn không còn sự hiện diện của thác, ghềnh, đá, sông Đà ở đoạn này hiền hòa và thơ mộng. Lời văn của Nguyễn Tuân bỗng đổi giọng dạt dào, tha thiết, tiếng nói giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa. Người đọc có cảm giác như đang được cùng Nguyễn Tuân bồng bềnh trên tàu bay rà “từng nét sông tã ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”, thấy Tổ quốc thật bát ngát. Để từ đó bậc du tử vảy bút vẽ một bức tranh thủy mặc chỉ trong một câu văn: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Thật không còn so sánh nào đẹp hơn dòng chảy của sông Đà với áng tóc của một mĩ nữ.

Trữ tình và đáng yêu hơn nữa là màu sắc của con sông Đà. Nguyễn Tuân cũng đã trông thấy những sắc màu khác nhau của sông Đà theo từng mùa mang vẻ đẹp riêng “mùa xuân dòng xanh màu xanh ngọc bích”, qua ánh nắng mùa thu “sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bần đi vì rượu bữa”. Cách nhân hóa và so sánh này cho thấy sự tài hoa của bậc du tử khi mô tả sắc nước sông Đà.

Là cây bút suốt đời tìm kiếm và khám phá cái đẹp, Nguyễn Tuân cùng với những đồng nghiệp của mình không quản khó khăn gian khổ băng đèo, lội suối tới với miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc để tìm cho ra “cái thứ vàng mười” của núi sông Tây Bắc.

Trên sông Đà, người lái đò xuôi ngược cả trăm lần. Dòng sông đối với ông “như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc tới cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu quy luật của dòng nước, đóng đinh vào trí tưởng của mình từng con thác, xoáy nước, luồng lành, luồng dữ, luồng tử luồng sinh, thông minh gan góc, hoạt bát tự tin như một dũng tướng trong trận đồ bát quái. Vẻ đẹp ngoại hình của người lái đò được Nguyễn Tuân khắc họa đã ngoài bảy mươi, đàu tóc bạc trắng, thân hình như một pho tượng được tạc bằng đá đá hoa. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “lêu nghêu như cái sào”. Cặp mắt tinh nhanh với thị lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực nổi lên một số thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi đó là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Ông lái đò là một “vô lăng tài hoa” từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong tử sinh với “lũ đá nơi ải nước”. Ông là một nhân vật không tên bởi ông là đại diện cho bao con người trên khắp quốc gia Việt Nam ngày đêm thầm lặng cần mẫn trong lao động, không ngừng đối mặt với những thiên tai, địch họa để giành lấy sự sống và bảo vệ quê hương quốc gia. Chính bởi vậy mà hình tượng người lái đò càng trở lên lớn lao và kì vĩ.

Vẻ đẹp hình tượng người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa trong ba lần thủy chiến. Cuộc giao tranh giữa một bên là chiếc thuyền con én cùng một con người nhỏ bé, phong phanh đơn độc với một bên là sắp trăm con thác dữ lớn nhỏ được ví như con quái vật khổng lồ tâm địa hiểm ác đại diện cho sức mạnh kì vĩ, dữ dội của thiên nhiên. Cuộc chiến diễn ra không cân sức nhưng hình ảnh người lái đò tay vẫn giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt cuống lái, hiên ngang, ngoan cường, bình tâm xử lí tình huống một cách dũng cảm, mưu trí, quyết liệt, táo tợn trước con quái vật nanh nọc và giành được thắng lợi. Để mô tả cuộc giao tranh đầy cam go, quyết liệt giữa người lái đò và con sông Đà hung bạo, Nguyễn Tuân đã tung ra vốn tri thức uyên chưng về địa lí, lịch sử và vốn tiếng nói thuộc những ngành nghề thể thao, võ thuật, quân sự phối hợp với những thủ pháp nhân hóa, so sánh liên tưởng khôn lường, bất thần để cống hiến cho người đọc những trang văn, những bức tranh thủy chiến, những cảnh quay sống động bằng nghệ thuật ngôn từ đầy tài hoa, kì thú và hấp dẫn.

Cuộc giao chiến lần một sông Đà hiện lên như một quân thù nham hiểm, xảo quyệt, đó là chân trời đá. Đá ở con thác này phục kích hàng nghìn năm, chúng ngỗ ngược đứng, nằm, ngồi tùy thị hiếu, biết bày binh bố trận như binh pháp Tôn Tử. Gồm 5 cửa trận, trong đó có 4 cửa tử, một cửa sinh chia làm ba tuyến: tiến, trung, hậu vệ…đòi ăn chết con thuyền đơn độc nhưng ông lái vẫn nhớ mặt từng đứa. Khi thạch trận bày xong, có sự phối hợp của nước thác, sóng thác. Nước hò la vang dậy làm thanh viện cho đá. Đá uy phong lẫm liệt, tiến lùi thách thức. Sóng nước như quân quyên sinh đá trái, thúc gối vào bụng, vào hông thuyền, lại như đòi túm lấy thắt lưng ông lái dò mà lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt đánh đòn hiểm duy nhất. Song ông lái đò vẫn giữ chặt mái chèo để khỏi bị hất tung ra khỏi trận địa sóng. Sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vô cùng thâm hiểm nhưng ông đò cố nén những vết thương, kiên cường vượt qua cơn hỗn chiến.

Nguyễn Tuân đã sử dụng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ truyền hồn sống vào từng khối đá, biến chúng thành bày thạch tinh hung hãn trong cuộc giao chiến với con người. mô tả thiên nhiên dữ dội nguy hiểm chẳng qua là để tôn vinh sức mạnh, lòng quả cảm của con người trong cuộc chinh phục thiên nhiên. Đoạn văn thật đặc sắc, đem lại cho người đọc những xúc cảm thẩm mĩ mới mẻ, lo lắng và đầy tự hào như chính mình là người trong cuộc.

Để tô đậm hình ảnh người lái đò tài hoa, trí dũng, Nguyễn Tuân tiếp tục mô tả cuộc giao tranh lần hai. Dưới cây bút tài hoa, phóng túng, con sông Đà tiếp tục được dựng dậy như “quân thù số một” của con người với tâm địa còn độc ác và xảo quyệt hơn. Khúc sông này nhiều cửa tử chỉ có một cửa sinh. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi trên lưng hổ, ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương bám chắc vào dòng nước, phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết. Bốn năm bọn thủ quân cửa ải nước liền xô ra định níu thuyền vào cửa tử. Dòng sông như con thú hoang lồng lộn đòi ăn chết con thuyền. Nó là hiện thân của sức mạnh thiên nhiên khó chế ngự. Ông lái đò nắm chắc quy luật của thần sông thần đá, không hề nao núng, luôn tỉnh táo, sáng tạo, thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời. Mặc cho Đà giang hung hãn, hiểm ác ông vẫn bám chặt dòng nước, ghì cương lái như bám chặt vào sự sống. Nguyễn Tuân thật tài hoa trong cách sử dụng từ, ông không sử dụng “ghì vô lăng” mà “ghì cương lái” khiến dòng sông như con hổ, dòng thác là hùm beo và con thuyền là chiến mã, còn ông lái vụt lớn cao như kị sĩ anh hùng điều khiển con chiến mã vẫy vùng trên chiến trường sông Đà. Để thắng lợi, ông lái đò không chỉ dũng cảm mà còn mưu trí trong cách ứng phó. Thông qua nghệ thuật ngôn từ của Nguyễn Tuân hình ảnh con người hiện lên thật oanh liệt, hào hùng.

Cuộc giao tranh thứ ba kịch tính được đẩy lên đỉnh điểm. Ngòi bút của Nguyễn Tuân trở nên bay bổng, linh hoạt bởi nhiều liên tưởng tạt ngang đầy thú vị. Trong trùng vi thạch trận thứ ba này, dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội hơn, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là cửa tử. Cái luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu nên sự sống của ông đò càng hết sức phong phanh. Chính giữa ranh giới cửa sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác thật tuyệt của ông lái. Ông cứ phóng thẳng, chọc thủng, vút qua cổng đá để rồi thắng lợi vinh quang. Thác dữ không chặn bắt được con thuyền, cuối cùng vẫn là con người thắng lợi. Sức mạnh thần thánh của tự nhiên cũng phải cúi đầu. Con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết hớp này tới lớp khác trùng vi thạch trận, biểu lộ sức mạnh phi thường trong quá trình thuần phục sự hung hãn của dòng sông. tiếng nói mô tả nhanh, gọn mà nhẹ nhõm như chính ông lái đò đang lướt đi trên băng khiến người đọc vô cùng cảm phục những con người lao độ động thông thường giản dị mà rất đỗi phi thường.

Con sông Đà hung hãn là vậy ông lái đò chỉ coi nó như một chiếc lá thu. Ông tới với nó như tới với một người lắm chứng nhiều tật nhưng đằm thắm như một cố tri. Ông hiểu nó, lắng tai âm vang của nó, thủy chung với nó. Qua mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm đều tan biến: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí tưởng”. Họ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh như không hề có chuyện gì xảy ra, mặc dù ngày nào họ cũng phải vật lộn, đối mặt với thác dữ. Đó thực là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ.

Có thể nói, thiên tùy bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm mang đậm phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa, uyên chưng trong cách tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều khía cạnh, phương diện thẩm mĩ, văn hóa. Dòng sông được mô tả như một dự án mĩ thuật tuyệt vời của tạo hóa, người lái đò được khắc họa với tư chất trí dũng tài hoa, nghệ sĩ. Tác giả vận dụng tiếng nói điêu luyện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như: hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,…huy động tri thức nhiều ngành nghề: địa lí, lịch sử, thể thao, võ thuật,..Tât cả đã tổng hợp, tựu chung lại làm nổi trội vẻ đẹp một dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng cùng với đó là vẻ đẹp hình tượng người lao động rất đỗi bình dị mà kì vĩ, lớn lao.

Khép lại tùy bút sông Đà, Nguyễn Tuân đã đem tới cho độc giả bức tranh về thiên nhiên sông nước hùng vĩ, dội nhưng cũng không kém phần thơ mộng trữ tình. Hiện lên trong bức tranh đó là hình ảnh con người lao động trí dũng tài hoa của thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 25

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật muôn thuở. Đặc biệt trong những năm miền Bắc đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội Nhiều thi sĩ nhà văn đã tới với nơi đây Để tìm cho mình Những nguồn cảm hứng mới trong đó có Nguyễn tuân. Ông đã thăng hoa trên chính mảnh đất này với tập “Tùy bút Sông Đà”với vong hồn là bút chì người lái đò Sông Đà. Bài văn Được dệt nên bằng thứ tiếng nói điêu luyện, Những đoạn tả đèo cao vực sâu, thác nước dữ dội hòa quyện phối hợp cùng về đẹp thiên nhiên hùng vĩ thơ mộng trữ tình. Và nhấp nhánh giữa bao vẻ đẹp đó chính là hình ảnh con Sông Đà mang nét hung bạo, dữ dội mà hùng vĩ, đầy cá tính.

Vẻ đẹp sông Đà trước tiên được thể hiện ở dòng chảy của con Sông Đà. Như lời đề từ ngay phần mở đầu bài văn “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc Bắc lưu”. Mọi con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ riêng con sông Đà là theo hướng Bắc mà chảy. Chính đặc điểm thú vị này đã tạo nên nét cá tính rất riêng, rất tai ngược và đầy độc đáo cho Đà giang.

Vẻ hùng vĩ, dữ dội của dòng sông Đà còn biểu hiện ở những vách đá đầy hiểm trở và đáng sợ đối với con người. Tác giả mô tả cụ thể, sống động với nhiều chi tiết đặc sắc những vách đá hẹp và cao chót vót “dựng vách thành, chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”gợi cảm giác âm u, lạnh lẽo tới mức “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”.

Qua cách mô tả của tác giả người đọc Được truyền một cảm giác trung thực tới mức như đang đứng ở ngay trước mặt con Sông Đà ấy, nhịn nhường như chính họ cũng cảm thấy sờn sợn và sợ hãi khi phải qua quãng ấy: “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”rồi “cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào.. vừa tắt phụt đèn khí”. Bằng nghệ thuật mô tả cùng những giải pháp tu từ như nhân hóa, so sánh liên tưởng tưởng tượng, Nguyễn tuân Đã khiến người đọc cảm nhận rõ hơn bao giờ hết sự nguy hiểm của vách đá Sông Đà

Con Sông Đà với vẻ đẹp hùng vĩ được gợi lên qua những nét mô tả ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Câu văn dài, nhiều về những vế móc xích nối lên nhau đặc biệt nhịp thơ nhanh mạnh phối hợp với những từ động từ mạnh, Từ láy, Nghệ thuật điệp “xô “, “cuồn cuộn “, “gùn ghè”đã đặc tả bức tranh sông nước quả tình vô cùng trung thực gợi lên một cuộc truy đuổi dữ dội, quyết liệt của sóng nước Sông Đà hòng cướp đi sinh mạng của bao con người Sông Đà đã phát huy hết sức mạnh của mình nhằm tiến công con người.

Đặc biệt nét hung bạo dữ dội của con Sông Đà được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết ở hình ảnh những cái hút nước xoáy tít cả đáy với giải pháp so sánh phối hợp với trí tưởng tượng phong phú của mình, Nguyễn Tuân Đã có những phát hiện vô cùng thú vị khi mô tả những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát.

Đó là “Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, Âm thanh của nước thì được nhân hoá Lên thành “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Đặc biệt cách sử dụng từ độc đáo “xoáy tít đáy”đã gợi tả một cách cụ thể, ấn tượng những hút nước sâu và nguy hiểm, mặt sông có những vòng xoáy nhanh và mạnh. Cái cảm giác đầy gay cấn, hồi hộp khi trèo qua quãng sông ấy “y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh”xuất phát từ những liên tưởng thật độc đáo và thú vị. Tác giả đặt mình vào vị trí của con người trên thuyền khi đi qua quãng ấy, sự nguy hiểm còn được Minh họa bằng những dẫn chứng rất sinh động có những thuyền đã bị cái hút đổ xuống thuyền trồng ngay cây chuối ngược … tan xác ở khuỷnh sông dưới.

Để có được những góc nhìn Đầy đủ và đa chiều, tác giả đã mượn góc nhìn điện ảnh để chuyển lại cho người đọc những cảm nhận Vô cùng trung thực về con Sông Đà, nguyễn tuân hình dung về một anh quay phim nào dám ngồi vào một thuyền “rồi cho cả thuyền cả mình cầm máy quay xuống đây cái hồ Sông Đà “rồi nhìn ngược lên”làm cho hình ảnh về những cái hút hiện lên rõ nét như mồm con thuỷ quái khổng lồ cố nuốt trộng bất cứ thứ gì đi từ đó. Hình ảnh những cái hút nước được mô tả cụ thể, tỉ mỉ từ hình dáng, màu sắc, âm thanh, sự vận động dữ dội. Bằng vốn sống phong phú và trí tưởng tượng sáng tạo, Nguyễn Tuân đã tô đậm mức kinh độ khủng của những cái hút qua hàng loạt những hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo vừa giúp người đọc hình dung về những cái hút như những hung thần tàn bạo vừa khiến họ cảm thấy ghê sợ, khó bứt thoát khỏi những ghê người mà ma lực ngôn từ Nguyễn Tuân đã truyền tới cho họ.

Nét hoang vu của con sông Đà đã được Nguyễn Tuân khắc họa qua những nét đặc tả về thác đá. Âm thanh thác nước được cảm nhận từ xa tới sắp với thủ pháp nhân hoá “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng găng mà chế nhạo”phối hợp với phép so sánh “rống lên như tiếng 1 nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa… gầm thét với đàn trâu da cháy bùm bùm”. Dòng thác nhịn nhường như đã mở hết âm lượng, tiếng thét của thiên nhiên bừng bừng, phấn khích, mạnh mẽ và man dại. Từ những âm thanh đó, tác giả giúp người đọc cảm nhận được tính cách hung hãn y như 1 con thuỷ quái khổng lồ với những âm thanh cuồng loạn, khiêu khích.

Đặc biệt tác giả sử dụng phép so sánh với những hình ảnh ở thế hoàn toàn đối lập. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy trâu mộng để tả thác nước như réo, oán trách, van xin… Cách mô tả của tác giả rất độc đáo nhờ thủ pháp so sánh phối hợp với lối viết riêng đã gợi ra nhiều trường liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Nhờ đó, ta thấy được, Nguyễn Tuân quả là 1 nhà văn có tầm.

Qua thủ pháp nhân hoá, Nguyễn Tuân đã thổi hồn cho đá, biến chúng thành những gương mặt với hành động rất “tướng”với chân dung, dung mạo “ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó”, hình dáng, phong thái thì “oai vệ uy phong lẫm liệt”rồi còn “hất hàm”, “thách thức”, mỗi lần xuất hiện bóng vía cái thuyền nào là chúng bèn “nhổm cả dậy”, “vồ”, “chặn ngang”, “đánh tan”,”xoá sổ”cho bằng được cái thuyền. Thủ pháp nhân hóa đã phát huy tính độ tác dụng để làm nổi trội tính cách đầy hung bạo độc ác yêu chiến. Hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn với nhiệm vụ xoá sổ con người. Những hòn đảo ấy trong cảm nhận của Nguyễn tuân là những tên chiến binh với nhiệm vụ khác nhau nhằm giúp con chuyển vào để xoá sổ. Chỉ vài dòng đặc tả thôi cũng đủ khiến nơi đây trở thành nỗi sợ kinh khủng đối với những kẻ yếu bóng vía.

Đá phối hợp với nước bày binh bố trận thành 3 tuyến tiến công: hàng tiền vệ, tuyến giữa, boongke chìm và pháo đài nổi. Sóng nước hò la thanh viện Để uy hiếp ý thức con người. Sông Đà đã huy động sức mạnh tổng lực của mình “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “Sông nước như thể quân quyên sinh”, đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền”, “Đội cả thuyền lên bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông đò”.

Qua những dòng văn mô tả về trận thạch thuỷ sông Đà, Nguyễn Tuân lại một lần nữa làm người đọc rùng mình trước tâm địa hiểm độc, đáng sợ của con sông Đà.

Binh pháp thần sông thần đá đầy bí hiểm, thạch trận được sắp đặt thành ba trùng vi. Ở những trùng vi nhiều cửa tử mà chỉ có một cửa sinh và đặc biệt vị trí của sinh thường xuyên thay đổi. Đọc tới đây, ta nghĩ ngay tới trận đồ bát quái của Khổng Minh khi xưa chỉ có điều trận địa nay đã chuyển xuống mặt nước Sông Đà.

Nguyễn Tuân sử dụng hàng loạt thuật ngữ quân sự như binh pháp, pháo đài, cửa sinh cửa tử, đánh khuýp quật vu hồi, phục kích, trùng vi thạch trận, hậu vệ, boong-ke chìm, pháo đài nổi…. tạo không khí căng thẳng, kịch tính như 1 trận đụng độ thực sự giữa con người và thiên nhiên đã diễn ra hàng bao thế kỷ.

Con Sông Đà không chỉ mang vẻ đẹp hung bạo dữ dằn quân thù số một của con người mà con sông ấy còn hiện lên với một bức chân dung hoàn toàn đối lập, một nét vẽ tương phản cùng tồn tại trong một chỉnh thể, chính vì vậy mà nét đẹp của nó càng trở nên độc đáo ấn tượng, hấp dẫn. Vẻ đẹp trữ tình của con Sông Đà hiện lên dưới nhiều khía cạnh được Nguyễn Tuân cảm nhận theo những góc nhìn khác nhau.

Con Sông Đà từ trên cao nhìn xuống với hình dáng thướt tha và màu sắc biến đổi vô cùng phong phú. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống, trông con Sông Đà như “cái dây thừng ngoằn ngoèo… tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Điệp từ tuôn dài cùng với Nhịp thơ nhẹ nhõm như ru như ngân tạo nên về được Lững lờ thướt tha,đầy chất thơ cho con Sông Đà. Phép so sánh con sông như một áng tóc trữ tình là một nét nghệ thuật độc đáo mới mẻ. Chính lối so sánh giàu chất thơ, chất hoạ này vừa giúp phô ra vẻ đẹp dịu dàng đằm thắm kiều diễm kiêu sa vừa bộc lộ được chất phong tình hào hoa của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Qua phép so sánh, sông Đà mang dáng vẻ của 1 người thiếu nữ đầy xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên giữa cánh rừng hoa bồng bềnh màu khói. Bao nhiêu vẻ đẹp quyến rũ, thơ mộng của đất trời bỗng ùa về thức dậy trong những câu văn của Nguyễn Tuân.

Đà Giang hiện lên với đủ màu sắc biến hoá theo từng mùa. Mùa xuân sông xanh ngọc bích mùa thu nước sông lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Tác giả còn so sánh màu xanh ngọc bích của Sông Đà Với màu xanh cánh hiện của sông Gâm sông lô. Đồng thời, nhà văn còn đặt sông Đà trong dòng chảy lịch sử, ông phân bua sự bất bình trước cách gọi tên đầy lếu láo của bọn thực dân gọi Sông Đà là sông đen. Đoạn văn không chỉ thể hiện những cảm nhận tinh tế của 1 ngòi bút tài hoa mà còn bộc lộ được 1 cái tôi đầy uyên chưng của nhà văn.

Con sông Đà dưới cái nhìn của 1 người rừng lâu ngày trở nên đầy mới mẻ và gợi cảm. Với Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như 1 “cố tri”. 2 chữ “cố tri”vang lên cùng biết bao tình cảm trìu mến, niềm xúc động của tác giả khi gặp lại sông Đà đã cho thấy mối quan hệ gắn bó vô cùng sâu nặng, tâm tình, tri kỉ.

Khoảnh khắc mà tác giả phát hiện vẻ đẹp cổ kính của dòng sông, mặt sông nhoang nhoáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt, sáng lóe lên 1 màu nắng tháng 3 Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”( Lý Bạch ). Dòng sông như đang chảy về từ quá khứ xa xưa mang vẻ đẹp cổ kính như những câu thơ của tiền nhân. Bờ bãi sông Đà ngập tràn chuồn chuồn, bươm bướm, dệt nên 1 bức tranh rực rỡ sắc màu, tô điểm thêm cho vẻ đẹp dòng sông.

kế bên việc mô tả dòng sông, nhà văn còn trực tiếp giãi bày, bộc lộ niềm xúc động và hạnh phúc của mình khi gặp lại cố tri. Những câu văn đầy tính nhạc và xúc cảm: “Chao ôi, trông dòng sông vui như thấy nắng giòn tan sau khi kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao ngắt quãng”. Thán từ “chao ôi”mở đầu câu thơ thể hiện bao niềm xúc động ngỡ ngàng, trằm trồ,đầy hoan hỉ mà “đằm đằm ấm ấm “của tác giả khi gặp lại sức “cố tri “ấy. Cách sử dụng từ và diễn đạt mới mẻ, đầy ấn tượng “đằm đằm ấm ấm”. Nguyễn tuân với góc nhìn của người ngồi trên thuyền thả trôi trên sông đã cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp thơ mộng hoang vu, tĩnh lặng nhưng đầy sức sống của đà Giang. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”là 1 câu toàn thanh bằng gợi âm điệu nhẹ nhõm dịp trôi yên ả, thong thả của con thuyền đồng thời gợi hình ảnh con người thoải mái khoan khoái, tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên.

Điệp từ lặng từ được lập lại hai lần diễn tả sự tĩnh lặng sắp như tuyệt đối thậm chí là Tịnh không một bóng người. Sự tĩnh lặng nhịn nhường như đưa ta trở về quá khứ tới đời lý đời trên đời lê, Đó là một vẻ đẹp cổ kính hoang vu như một bờ tiền sử và hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đặc biệt tác giả còn sử dụng nghệ thuật lấy động tả tính, từ những âm thanh trong tâm tưởng như tiếng còi súp lê của một chuyến xe lửa cho tới âm thanh của hiện tại tiền cả quốc gia sông, tất cả đều có phần gợi ra một không gian được bao phủ bởi một sự tĩnh lặng tới tuyệt đối.

Vẻ hoang dại, mộng mơ được thể hiện đầy ấn tượng qua hình ảnh “hoang dại như 1 bờ tiền sử”, “hồn nhiên như 1 nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thường người ta so sánh cái trừu tượng với cái cụ thể, cái lạ với cái quen vậy mà ở đây, Nguyễn Tuân đã làm trái lại. Qua cách so sánh này, tác giả vừa vẽ nên bức tranh sông Đà hoang vu, thơ mộng vừa thể hiện được tình cảm vô cùng trìu mến và thân yêu mà ông dành cho cô gái sông Đà. Hình ảnh con yêu thơ ngộ lần đầu nhung khỏi người nào có xương đã tô thêm nét thơ mộng cho cảnh dòng sông

Hình ảnh những nương ngô nhú lên mấy là ngô non đầu mùa rồi là cỏ gianh ra những nõn búp, “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”gửi hình ảnh một con Sông Đà thoát ra khỏi cuộc sống nhiều bề lắng đọng bâng khuâng cùng với đó tiếng còi trong tâm tưởng của tác giả diễn tả khát khao của con người hứa hứa hẹn về một tương lai giàu tiềm năng du lịch của Tây Bắc

Nguyễn tuân đã mô tả con Sông Đà vô cùng ấn tượng với những đặc điểm và tính chất đối nghịch vừa hùng vĩ hung bạo lại phối hợp với nét thơ mộng trữ tình. Về đẹp ấy được khắc họa qua những phương thức nghệ thuật tiêu biểu như thủ pháp tương phản những giải pháp tu từ thân thuộc đặc biệt hình tượng con Sông Đà à được cảm nhận dưới nhiều góc nhìn khác nhau mang tới một Về đẹp cụ thể đa chiều Cho dòng sông. Qua hình tượng con Sông Đà, tác giả đã gửi gắm tình yêu sự gắn bó sâu sắc với quê hương xứ sở và niềm tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên quốc gia.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 26

Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là mỗi bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm gắn bó với quốc gia quê hương. Bằng ngòi bút độc đáo, uyên chưng, tài hoa, cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái tạo một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng của sông Đà cũng như thiên nhiên hùng vĩ núi rừng Tây Bắc qua tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Giữa thiên nhiên bát ngát rộng lớn của núi rừng Tây Bắc, nối bật lên là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chống chọi với con sông Đà.

Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà được trích từ tập “Sông Đà” được sáng tác năm 1960, là thành nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Vắc rộng lớn, xa xôi của Tổ Quốc không chỉ để thỏa mãn tìm những miền đất lãn mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những con người lao động nơi đây.

“Người lái đò sông Đà” là một tuỳ bút viết về thiên nhiên và con người lao động vùng Tây Bắc. nổi trội giữa thiên nhiên núi rừng Tây Bắc là hình ảnh con người, hình ảnh người lái đò sử dụng cảm, can trường. Với phong cách nghệ thuật rất riêng của mình, khai thác mọi vấn đề dưới con mắt nghệ thuật, đối với Nguyễn tuân, lúc đó, lái đò là một nghệ thuật và người lái đò là một người nghệ sĩ.

Người lái đò trên sông đà trong tác phẩm là một ông lão đã hơn 70 tuổi và đã lái đò trên dòng sông đà này đã hơn 15 năm. có nhẽ chính bởi ông đã dành phần lớn thời gian của của mình cho nghề lái đò trên sông nước mà bản thân ông đã trở thành một người lái đò lão luyện “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần…”.

Nhân vật người lái đò là một con người từng trải, hiểu biết, rất thạo trong nghề lái đò, và đã đạt tới trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Không ngừng lại ở đó, Nguyễn Tuân tiếp tục phân bua sự khâm phục của mình đối với ông: “Sông Đà, với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc tới cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”.

Thật là một cách so sánh “rất văn học” đầy thú vị và mang đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn tuân. Hình ảnh người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mùn” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”.

Ông đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của thiên nhiên khắc nghiệt như những bãi đá gớm ghê, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ nghìn năm vẫn phục kích hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.

Và một mình một thuyền, ông đã giao chiến như một dũng sĩ: “… hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền.

Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông… Từng chi tiết được tác giả mô tả thực thực và táo tợn cho thấy sự dữ dội gớm ghê của dòng thác đối với con người và chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một tí là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.

Nhưng dũng cảm và gan góc chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm lái để lái con đò tới mức điêu luyện và nghệ thuật. Đối với tác giả Nguyễn Tuân, người lái đò chính là một người nghệ sĩ.

Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người tài xế lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người tài xế còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có mùi gì cả…”.

Rồi lại vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo tợn, tác giả đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”.

Lại có những “hút nước” xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”…Thật là một dòng sông đầy hiểm trở, và gian truân cho con người. Thế nhưng, “người lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. “. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”…

Qua cách mô tả tới tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân đã ngợi ca sự dũng cảm, tài trí của con người, ngợi ca sự thắng lợi vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về tới bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà.

Cuộc đọ sức giữa thiên nhiên dữ dội và con người nhỏ bé, trong cuộc chiến đó, con người đã thắng lợi; trở về cuộc sống yên bình: “Sông nước lại yên bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…”

Từ đây, cảm hứng lãng mạn đặm đà trong sáng lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Với tác giả, thiên nhiên là chất vàng của tây Bắc còn con người là chất vàng mười đã qua thử lửa. Trong suy nghĩ của Nguyễn Tuân, con người đẹp hơn tất cả, quý hơn tất cả.

“Người lái đò sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu quốc gia say đắm, thiết tha của một con người muốn sử dụng văn học để ngợi ca vẻ đẹp vừa kì vĩ hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhân và nhất là con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Hình ảnh người lái đò sông Đã là tiêu biểu cho con người lao động vùng Tây Bắc, dũng cảm, gan góc, quật cường, luôn kiên trì và hết mình với công việc. nổi trội nền trên thiên nhiên bát ngát hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc chính là con người lao động nơi đây.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 27

Nguyễn Tuân là một người con của đất thủ đô Hà Nội, sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống Nho học. Con người ông ưa thích “chủ nghĩa xê dịch”, với lối sống, lối viết phóng khoáng, vượt ra khỏi phạm vi của thời đại, quan niệm “đời là một trường du hí”, ông viết văn trước hết là để khẳng định cái tôi bản ngã của mình. Trong sáng tác, Nguyễn Tuân nghĩ rằng lao động là một phương thức nghệ thuật, nghiêm túc thậm chí người viết phải chịu “khổ hạnh” mới có thể cho ra đời những tác phẩm có trị giá, có nhẽ vì ý kiến nhấn này mà người ta nghĩ rằng: “Cái tôi của Nguyễn Tuân chính là một khái niệm thực thụ về nghệ sĩ”. Nói tới đặc điểm của nhà văn này người ta vẫn thường khắc ghi mấy chữ tài hoa, uyên chưng, ông không chỉ có đặc tài văn học, bậc kỳ tài trong thể loại bút ký mà còn là người có tinh thông sâu rộng về nhiều ngành nghề, từ đó đem tới cho tác phẩm của mình những góc nhìn mới mẻ và toàn diện khiến độc giả không khỏi trằm trồ ngạc nhiên vì cách sử dụng câu từ thiện nghệ và vốn tri thức phong phú của ông. Nguyên Tuân có rất nhiều sáng tác phân chia ra làm hai giai đoạn, trong đó những tác phẩm sau cách mệnh tháng tám nổi trội nhất chính là tùy bút Sông Đà (1960), được viết trong chuyến thực địa về miền Tây Bắc xa xôi của tác giả. Người lái đò sông Đà là đoạn trích được lược trong tập tùy bút này với hai hình tượng trung tâm là dòng sông Đà và người lái đò trên sông.

Lời đề từ Nguyễn Tuân cũng tỉ mỉ xét soi, mượn của Phan Huy Chú câu “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”, để nói về cái quái tính của con sông này, bao dòng sông khác chọn lựa xuôi về hướng đông, chỉ riêng sông Đà chọn lựa cho mình lối chảy ngược ngạo, khác thường về phương Bắc. có nhẽ chính cái cá tính thích độc lai độc vãng, riêng mình ta một lối này có gì đó tương đồng với cái tôi đậm chất “ngông” của Nguyễn Tuân thế nên khi viết ta có cảm giác Nguyễn Tuân rành rọt và thiết tha với con sông này lắm. Mượn thơ của Phan Huy Chú chưa đủ, nhà văn còn mượn thêm một dòng thơ của thi sĩ người Tây Ban Nha rằng: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” gợi ra cái vẻ đẹp phóng khoáng thơ mộng của Đà giang kế bên cái vẻ ngang tàng, hùng vĩ vốn có bao đời nay của một dòng sông miền rừng núi Tây Bắc.

Sông Đà đã hiện lên trong tác phẩm với một dáng vẻ rất sống động, tựa một sinh thể, cũng có vong hồn, có nội tâm có cả thế cuộc, với xuất xứ từ tận Trung Quốc xa xôi, chảy qua hơn 400km với tìm về được biên giới nước ta, rồi nhập tịch tại Mường Tè, Lai Châu, mang tên độc một chữ “Đà”. Bỗng người ta có cái liên tưởng về thế cuộc đầy sóng gió của một kiếp nhân sinh, thế nên khi tới dải đất hình chữ S này, sông Đà mới bộc lộ cái bản tính khó hiểu, đỏng đảnh làm mình làm mẩy với cả vùng Tây Bắc, lúc thì hung bạo, dữ dội như đang hờn giận gì, lúc lại dịu dàng, nên thơ lãng mạn vô cùng. trước hết ấy là cái quái tính hung bạo, hùng vĩ, một dòng sông, đổ dọc Tây Bắc cái nhiều nhất ở khúc thượng nguồn có nhẽ là ghềnh và thác, Nguyễn Tuân có chuyến đi thực nghiệm dài và cũng lại là người ưa cái “khổ hạnh” tìm tòi khai thác, thế nên sông Đà trong tác phẩm mới có được những cảnh đắt giá, khiến người ta chỉ đọc thôi nhưng cũng đủ thấy cái tầm vóc, cảm giác rét lạnh giữa lòng sông. Nguyễn Tuân mô tả khúc sông này với những hình ảnh rất hấp dẫn “cảnh đá bờ sông dựng vách thành”, rồi thì “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ lại “chẹt lòng sông như yết hầu”, sinh động với những “con nai con hổ đã có lần vọt qua bờ bên kia”, tạo cảm giác”đang màu hè mà cũng cảm thấy lạnh”. Tất cả những hình ảnh ấy, khiến độc giả nghĩ dòng sông tựa như một nhân vật bí hiểm, lạnh lùng, đang sử dụng đôi mắt sắc bén cùng cái khí thế âm u để quan sát, nghiên cứu tất cả những con người bước vào giữa lòng sông, mang tới sức ép vô hình và khó lường. Nhưng đó mới chỉ là khúc dạo đầu cho cái quái tính gớm ghê của con sông này, người ta phải thực sự thấy nó kinh khủng và hung tợn khi đọc những âm thanh mà Nguyễn Tuân đã vắt kiệt vốn từ Việt của mình để chế ra. Quãng mặt ghềnh Hát Loóng là cảnh “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đó”. Rồi quãng Tà Mường Vát dưới Sơn La thì lại có cảnh nước “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Hoặc có khúc quái dị, với điệu bộ “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, khiến người ta phải dè chừng, khiếp sợ nắm chắc tay chèo hơn nữa. tới chỗ đổ thác nhịn nhường như dòng sông biến thành một loài quái thú, nước chỗ ấy “rống lên như tiếng một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…”. Làm người ta mường tượng ra cảnh một con thủy quái đang quẫy mình sôi nổi, giận dữ, hoặc là đói mồi hoặc là kẻ nào đã lỡ tay chọc vào chiếc vảy ngược mới khiến lồng lộn cả lên như thế. Chung quy lại tiếng nước trong mô tả của Nguyễn Tuân quả thực là hấp dẫn và thu hút vô cùng, nó làm nổi trội hẳn lên cái vẻ hầm hố, khó chịu của con sông khúc thượng nguồn này.

Dĩ nhiên dung mạo hung bạo, hùng vĩ của sông Đà không chỉ ngừng lại ở bấy nhiêu ấy mà còn ấn tượng hơn với hình ảnh những cái hút nước “đặc sản” của những dòng sông có độ dốc lớn như sông Đà. Trong lăng kính của Nguyễn Tuân những hút nước ấy được mô tả bằng nhiều hình ảnh gợi sự liên tưởng sâu rộng cho người đọc tỉ như những hình ảnh rất độc lạ “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, hay “mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh”, rồi lại tựa “Cốc pha lê nước khổng lồ”, rồi thì “Từ đáy hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao tới vài sải”,… Qua những hình ảnh gợi cảm ấy người ta thấy sông Đà có những cái xoáy nước rất mỹ lệ, rất đẹp trong trẻo, xanh ngắt thế nhưng cũng ẩn chứa hàng vạn mối nguy hiểm cho kẻ nào lỡ may sảy chân rơi vào đó thì chỉ có tan xác. Thật ứng với câu “càng đẹp càng độc” của cổ nhân bao đời. Và có nhẽ tác giả sẵn có máu điện ảnh trong người, thế nên ông lại càng muốn tác phẩm của mình thêm nổi trội và độc giả có được góc nhìn độc đáo bằng việc vẽ ra viễn cảnh một anh quay phim quyên sinh nào đó đặt cả mình cả máy vào xoáy nước được bắt trọn cái khoảnh khắc quay tít như chiếc gậy đánh phèn của cái hút nước. Quả thực khiến người đọc phải rùng mình và không khỏi thán phục về cái cách Nguyễn Tuân đưa điện ảnh vào văn của mình.

Cái dung mạo của dòng sông Đà cáu bẳn, khó tính này có nhẽ được thể hiện sinh động hơn cả là trong những hình ảnh về đá và những cái “trùng vi thạch trận” mà binh pháp “thần sông thần đá” đã bày ra để nuốt trộng bất kỳ kẻ nào dám khiêu khích. Với những hình ảnh sinh động của thứ đá mà Nguyễn Tuân nói rằng đã phục kích ở đây hàng nghìn năm, trực chờ tên quyên sinh nào đi qua với bộ dạng sốt sắng “nhổm cả dậy” để vồ lấy thuyền, rồi thì dáng vẻ “ngỗ ngược”, dung mạo “nhăn nhúm”, “méo mó”, tư thế đứng, ngồi, nằm, nghiêng,… đều đủ cả, khiến người ta phải kiêng dè trước cái khí vậy mà chúng tỏa ra. Thêm nữa đá ở đây đâu có dễ dàng cho người nào lọt lưới, chúng chọn lựa cho mình riêng một nhiệm vụ, đứa thì dàn hàng ngang, đứa thì đòi đánh giáp lá cà, lại có cả đứa giả bộ lộ sơ sở, để những đứa còn lại phục kích tập kích cho thuyền bè không kịp trở tay. Thế mới thấy lũ đá này gớm ghê thế nào, và chúng không chỉ dàn trận mà còn bày cả “trùng vi thạch trận” có tới 3 lớp, lớp sau càng nhiều cửa tử, ít cửa sinh, luồng sống hẹp, luồng chết dày, nhịn nhường như là không để cho kẻ địch một thời cơ sống còn nào cả. Không biết là dòng sông này khó ở, thích trêu ngươi hay là đã mang thù hằn truyền kiếp gì với con người ở đây mà lại mang một dung mạo kinh khủng, người sống ta chết tương tự.

Thế nhưng, khác hẳn với cái vẻ hung hãn, thô lỗ, cục cằn nơi thượng nguồn thì vùng hạ lưu người ta lại phải nhìn sông Đà bằng một đôi mắt khác. Dòng sông hiện lên với dáng vẻ hiền hòa, từ điểm nhìn cao và xa trên tàu bay, dòng chảy như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo, mềm mại trải khắp vùng Tây Bắc. Nhìn sắp hơn thì nó lại mang dáng vẻ của một mỹ nhân xinh đẹp, yêu kiều với dòng chảy “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”, quyến rũ và hấp dẫn vô cùng. kế bên vẻ mềm mại dịu dàng người ta còn thấy một sông Đà với nhiều dáng vẻ với những gam màu nổi trội, lãng mạn theo mùa, ví như “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô”, còn “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Nguyễn Tuân yêu và gắn bó với quê hương quốc gia, đặc biệt là với con sông Đà ngu ngạo, khó chiều này, ông xem dòng sông ấy như là một “cố tri” để liên tưởng tới “màu nắng tháng ba Đường thi” trong thơ Lý Bạch với câu thơ nổi tiếng “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, tức là màu hoa nở rực rỡ mùa xuân gắn với sương khói mặt sông khiến người ta không khỏi thổn thức một nỗi niềm thân thuộc. Ấy rồi có lúc sông Đà lại như là “người tình chưa quen biết” trong cái cảnh nương ngô, đàn hươu, bờ sông hoang dại với nỗi niềm cổ tích thuở xa xưa,… khiến lữ khách xuôi dòng xúc động.

Đó là dòng sông, nhưng trong trích đoạn Người lái đò sông Đà, hình tượng cốt yếu nổi trội nhất phải là hình ảnh ông lái đò mới đúng. Nguyễn Tuân khúc này chắc cũng có rất nhiều phần tương tự đại thi hào Nguyễn Du, sông Đà là Thúy Vân còn người lái đò chính là Thúy Kiều, lấy cái dữ dội, hùng vĩ của dòng sông để làm nổi trội lên dáng vẻ kiêu hùng trong lao động của con người. Ông lái đò quả tình xứng đáng khi nhận danh xưng “chất vàng mười Tây Bắc”, ông không có tên, không rõ dung mạo, người ta chỉ có thể nhận định ông thông qua công việc lái đò đầy nặng nhọc và vất vả, cái công việc mà theo như Nguyễn Tuân nhận xét ông đã làm đạt tới tầm của một nghệ sĩ, một nghệ sĩ trong công cuộc vượt thác sông Đà. Người đàn ông ấy, đã ở tầm cái tuổi thất thập kim cổ hi, nhưng vẫn miệt mài với công cuộc lao động, giống như Nguyễn Khoa Điềm đã nói “không người nào nhớ mặt đặt tên”, nhưng họ vẫn sống và đóng góp cho quốc gia từng ngày. Ông lão hiện lên với dáng vẻ đậm mùi sông nước mênh mông, vẻ khắc khổ,”tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…”.

Nói ông lái đò là một nghệ sĩ mang chất vàng mười của Tây Bắc bởi lẽ ông lão ấy không đơn thuần chỉ là một người lao động thông thường, mà ở người đàn ông này còn hiện lên hai vẻ đẹp nổi trội ấy là vẻ đẹp của một chiến binh dũng cảm trên chiến trường sông nước, ngày ngày chống chọi tranh giành miếng cơm manh áo và vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài hoa hăng say trong lao động, là bậc thầy trong nghệ thuật chèo đò ngày ngày viết nên những bản trường ca vô tận về công cuộc lao động không ngừng nghỉ. Người ta cũng phần nào tò mò, vì sao hình ảnh mà Nguyễn Tuân để ý lại là một ông lão mà không phải một thanh niên trẻ trai. Thế nhưng có câu “Lửa thử vàng gian truân thử sức”, biết bao kinh nghiệm chinh chiến trên con sông khó chiều, hung hiểm này đã phải đánh đổi bằng mồ hôi, bằng trải nghiệm và bằng cả thế cuộc của ông lão, để ngày ngày hôm nay dẫu có già lão nhưng ông lại thực sự trở thành một tay chèo đò lão luyện, nhà nghề thứ mà chẳng có thanh niên nào có được. Hơn thế nữa, vẻ đẹp của ông lão còn tới từ sự liều lĩnh, dám nghĩ dám làm, ông bảo đã có trên dưới trăm lần xuôi ngược ở khúc sông này, và trên 60 lần cầm lái chính, thử hỏi mấy người nào đã đủ dũng khí để đương đầu với sóng nước như ông? Rồi thêm vào đó cái chất vàng, chất nghệ sĩ của ông lão nó còn nằm ở lòng hăng say, niềm mê say trong công việc lao động, ông làm không chỉ vì mưu sinh dù nó là thế tất mà quan trọng hơn cả vẫn là ông thực sự có niềm mê say mạo hiểm, thích cảm giác mạnh. Ông nói: “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dạy, chân tay dễ buồn ngủ” thế mới thấy ông lão cũng là người nhiệt thành, dũng cảm, có tâm hồn tươi trẻ, sôi động chẳng thua kém gì người nào bao giờ. Dẫu rằng cái bản tính máu chiến, mê say khám phá, chinh phục gian truân thử thách ấy có rất nhiều lần khiến ông phải lểu đểu vì cái tính cáu bẳn của sông Đà, người đầy vết “củ nâu”, thế nhưng ông cũng chẳng bao giờ lùi bước, hay lấy đó làm sợ hãi mà ngày càng trở nên kiên gan liền lợm hơn cả. Nguyễn Tuân thấu hiểu cái cá tính tính này của ông lái đò, bởi chính bản thân tác giả cũng là người có cá tính tương tự thế nên ông rất trân trọng mà ví von những vết tích “củ nâu” ấy là những “huân chương lao động siêu hạng”.

Hình ảnh ông lái đò trong lao động thực sự nổi trội khi Nguyễn Tuân chứa công mô tả cảnh chèo đò vượt thác của ông lão quả thực đó là một trận đụng độ không nhân nhượng khi “cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chống chọi hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có rất nhiều lúc trông nó thành ra dung mạo và tâm địa của một quân thù số một”. Ở đây người ta thấy cái chất nghệ sĩ trong tâm hồn của ông lão chèo đò hiện lên một cách rõ rệt, hết sức nghiêm túc, tỉ mẩn, miệt mài và nhẫn nại với công việc. Dòng sông Đà trong lòng ông đã trở thành một bản trường ca vĩ đại mà người nghệ sĩ dành hết tâm tư của cả một đời chỉ để nghiên cứu, tập dượt, sao cho nhuần nhuyễn, thiện nghệ tới mức nằm lòng “từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả những đoạn xuống dòng”, khắc sâu vào trong tâm tưởng như “đóng đanh vào lòng” từng nhịp từng pháp, không thiếu tới nửa dấu. Đồng thời dòng sông cũng lại trở thành một chiến trường thân thuộc với vị tướng đã dành cả thế cuộc để chinh phạt, nơi đó ông được phép thi triển hết bao tài năng, tâm huyết, cả thứ binh pháp ông vẫn hằng tâm niệm nhằm đụng độ với lũ đá, với những cái hút nước kinh người. Ông lão xông pha chiến trường với ý thức mạnh mẽ, hiên ngang, mái chèo thay đao, chiếc đò duy nhất thay cho chiến mã, dẫu đơn độc thế nhưng khí thế oai hùng của người lái đò cũng chẳng thua kém gì so với sự gớm ghê, dữ dội của con sông Đà. Đối mặt với những “trùng vi thạch trận” giăng mắc, ông lão cũng chẳng ngần ngại mà nắm chặt mái chèo vượt qua sự thách thức, uy hiếp của lũ đá khó nhằn. Chinh chiến thì sau tránh khỏi thương tích có những lúc sông Đà tung đòn hiểm, người lái đò “mặt méo bệch đi” thế nhưng ông vẫn “cố nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái” “lên tiếng chỉ huy ngắn gọn” cho những vô lăng phụ an toàn vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất. Rồi tức khắc bước vào ải thứ hai, cuộc chiến giữa người và sông tựa như một bộ phim hành động mà càng về hồi sau càng trở nên gay cấn, hồi hộp. Ải này cửa tử lại càng nhiều hơn, cửa sinh thì lệch hẳn về bên hữu ngạn, thế nhưng với ông lái đò thì đã là thân thuộc, “ông đã nắm chắc cái bình pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải này”, thế nên ông lão tự tin lấn lướt “ghì cương lái” vọt vào cửa sinh trước vẻ mặt xanh lè tức giận của lũ đá dàn trận. Còn cửa ải cuối, cùng là cửa khó nhằn nhất, toàn cửa tử, cửa sinh nằm giữa, ông lão chỉ việc ngắm thẳng mũi đò phóng vào đó là xong ải thứ ba, rồi khải hoàn trở về xuôi xuống vùng hạ lưu. Qua ba cửa ải tử sinh ấy, người ta thấy ông lão hiện lên với bản tính dũng mãnh, lòng kiên cường đã tôi rèn cả thế cuộc của một người lính chiến, và lòng hăng say lao động, chinh phục thiên nhiên của một người nghệ sĩ điêu luyện có “bàn vô lăng ra hoa”.

Người lái đò sông Đà quả là một trích đoạn xuất sắc trong tập tùy bút Sông Đà, tác phẩm tiêu biểu nhất trong trong văn đàn Việt Nam ở thể loại tùy bút, cũng như là trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân. Ở đó người ta thấy hiện lên hai hình ảnh vô cùng ấn tượng ấy là hình ảnh con sông Đà với vẻ hùng vĩ, dữ dội và kiêu ngạo, đồng thời nó cũng mang trong mình những nét uyển chuyển, mềm mại, lãng mạn. Từ hình ảnh con sông, thì hình tượng người lái đò đã hiện lên một cách sống động, rõ nét và nổi trội với ba vai trò kéo, người lao động thông thường, người đội viên dũng cảm và người nghệ sĩ với tài năng điêu luyện bậc thầy.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 28

Nhà văn Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trước 1945, ông ghi dấu trong lòng độc giả với tập “Vang bóng một thời” . Sau khi cách mệnh tháng Tám thành công, những sáng tác của ông vẫn giữ được những nét sáng tạo độc đáo riêng. Nguyễn Tuân được biết tới như là một nhà văn tôn sùng cái đẹp. Ông luôn tìm kiếm khám phá mọi khía cạnh đẹp đẽ của toàn cầu trên văn hoá và thẩm mỹ. Con người và thiên nhiên xuất hiện trong văn học của ông như những dự án nghệ thuật độc đáo và kỳ vĩ.

Người lái đò sông Đà được rút ra từ tập tùy bút Sông Đà mà ông sáng tác năm 1960 độc giả sẽ cảm nhận rõ hơn điều đó. Tác phẩm là kết quả sau một chuyến đi “phượt” gian truân nhưng đầy hứng khởi của nhà văn về miền Tây Bắc đầy hiểm trở. Trong đoạn trích, hình ảnh sông Đà hiện lên quanh co, uốn lượn chảy dọc qua những triền núi. Sông Đà có dòng nước chảy xiết với độ dốc vô cùng lớn. Chính những nét khác biệt đó đã tạo cho Đà giang một vẻ đẹp hoang vu nhưng vô cùng kỳ vĩ. Vì chính sự hung bạo mà trữ tình của dòng sông Đà lại là cơ sở làm nổi trội lên vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trên sông.

Ngay từ những lời kể trước hết, nhà văn đã dẫn dắt độc giả cuốn theo cảm giác vừa sợ hãi tột độ nhưng vừa mê mệt, vui thú với hình ảnh dòng sông Đà đầy hung bạo và dữ tợn. Điều đó hiện rõ ngay từ những mô tả trước hết như “đá bờ sông dựng vách thành”. Ở đây, nhà văn sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để mô phỏng những khối đá bờ sông như những thành trì vững chãi, kiên cố, ẩn giấu nhiều bí mật và đe dọa nhiều nguy hiểm. Càng đọc, độc giả càng thích thú với những ví von và cách sử dụng từ mô tả dòng sông khác lạ và đặc sắc của ông. Ông vẽ bằng ngôn từ rằng, mặt sông thường “đúng ngọ” mới có mặt trời. Và lúc đó, những vách đá như “chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, rồi “có quãng tưởng như con hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ kia” . Nhà văn thể hiện những liên tưởng tưởng chừng chỉ vô tình, ngẫu nhiên bân quơ, ấy thế nhưng lại chứa đầy dụng ý nghệ thuật. Cái tài của Nguyễn Tuân là ở đó. Ông nói mà như không nói và ông làm mà như không làm. những hình ảnh, ngôn từ cứ tự nhiên sắp đặt đâu vào đó một cách hợp ý tình tới độ không người nào nghĩ là ông cố tình. Ví như động từ “chẹt”. Nó giống như là từ sử dụng trong tiếng nói nói hơn là văn viết ấy thế nhưng khi xuất hiện với hình ảnh “như một cái yết hầu” thì lại vô cùng ăn khớp và không có từ nào có thể thay thế.

Vẻ đẹp dữ dội của Đà giang còn thể hiện ở cảm giác thấy lạnh của nhà văn khi đi qua vào mùa hè Cái cảm giác ấy vừa cho thấy không khí trong sạch nơi đây vừa tạo ra quang cảnh đầy kỳ vỹ, với những vách đá dựng đứng khiến con người cảm thấy thật nhỏ bé giữa thiên nhiên bát ngát.

Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông, bởi nó là tiền đề làm tôn lên vẻ đẹp trữ tình và hình tượng người lái đò sau này. Cảnh hung bạo của dòng sông còn được khắc họa đậm nét ở mặt ghềnh Hát Loóng. Tác giả viết dòng sông phải có tới hàng nghìn cây số là “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Chỉ một câu nhưng được lặp lại từ “xô” ba lần và một loạt thanh sắc xuất hiện, khiến độc giả cũng có cảm giác như đang bị sóng, gió và nước tạt thẳng vào người, mỗi lúc một cao, mạnh hơn và liên miên hơn. Qua đây, chúng ta thấy rõ sức mạnh của thiên nhiên thật kinh khủng và lạnh lùng. Nó “gùn ghè”, hầm hè y hệt thú hoang bạo tợn, lì lợm và hung hãn. Nó sẵn sàng giơ nanh vuốt, thách thức với con người.

Tiếp tới, vẻ đẹp hung bạo ấy còn thể hiện ở những cái “hút nước” khổng lồ ở quãng sông Tà Mường Vát. Dưới con mắt của Nguyễn Tuân, xoáy nước “như những cái giếng bê-tông” được thả xuống làm móng cầu. Ở đây, ông nhân hóa xoáy nước thành con người biết thở và biết kêu. Sự ví von như một cái cống bị sặc thật sinh động và hấp dẫn. Chắc có nhẽ, chưa nhà văn nào lại có thể tưởng tượng và so sánh những hình tượng với nhau độc đáo như cách Nguyễn Tuân đã làm. Có thể nói, nhờ Nguyễn Tuân mà dù nhiều người chưa thấy mặt mũi dòng sông Đà ra sao nhưng vẫn cảm nhận được khúc sông ở đây vô cùng nghiêm trọng. Nó có thể nuốt trộng mọi thứ nên không có một con thuyền nào dám tới sắp, nếu như không sẽ bị hút rồi dìm xuống dòng sông. Thật đáng sợ!

Đặc biệt ở khúc thác sông Đà, vẻ dữ dội, hiểm ác của dòng sông được tác giả “vạch trần” rõ nét. Ông mô tả bằng những âm thanh, sắc thái vô cùng mạnh mẽ, quyết liệt như tiếng “réo sắp mãi lên, réo to mãi lên”. Ông nghe tiếng nước có lúc như “oán trách”, có khi lại “van xin”, hay là đầy “khiêu khích”. Có lúc nó lại rống lên như “một nghìn con trâu mộng” đang vật lộn trong lúc rừng cháy, Không những thế, đá ở sông Đà như hợp lại thành cả một “chân trời đá” mênh mông. Chúng mang nhiều dáng vẻ khác nhau như “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Nhà văn sử dụng nhiều tính từ tả người để khiến cho những hòn đá vô tri trở nên có tâm hồn. Nhớ thế, độc giả dễ dàng cảm nhận rõ sự ngang bướng, bất cần của đá. Tới đây, chúng ta có đủ cơ sở để khẳng định, bằng trí tưởng tượng phong phú của mình, nhà văn đã hô biến dòng sông Đà thông thường thành một “loài thuỷ quái khổng lồ” với tâm địa độc ác, nguy hiểm. Đó là lí do mà người dân nơi đây coi nó là quân thù số một.

Qua quá trình tìm hiểu tác phẩm Người lái đò sông Đà, những bạn có thể thấy, kế bên vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo và dữ dội, dòng sông còn mang trong mình vẻ trữ tình thơ mộng đầy dịu dàng, e lệ. Nét đẹp thùy mị như thiếu nữ ấy được tác giả cảm nhận qua nhiều khía cạnh, điểm nhìn ở không gian và thời gian khác nhau. Với Nguyễn Tuân, sông Đà từ trên cao nhìn xuống uốn lượn như áng tóc của người con gái vùng Tây Bắc xinh đẹp, diễm lệ “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”.

Ông không quên mô tả chi tiết thuốc nước biến đổi theo mùa của dòng sông như mùa xuân dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Không những thế, trong trí tưởng tượng của nhà văn, có lúc sông Đà nhẹ nhõm “như một cố tri”. Ông thấy dòng sông còn mang “màu nắng tháng ba Đường thi” với bờ sông đầy những chuồn chuồn và bươm bướm bay lượn. Từ xa tới sắp, từ khái quát tới chi tiết, tác giả không quên mô tả hai bên bờ sông như nhuộm màu cổ tích. Cả dòng sông còn mang trong mình những nỗi niềm hoài niệm xa xưa.

tìm hiểu tác phẩm Người lái đò sông Đà không thể không nói tới nhân vật người lái đò. nếu như như thiên nhiên càng bát ngát, dữ dội bao nhiêu thì càng tôn lên vẻ đẹp tài hoa, đức độ và trí tuệ của người lái đò bấy nhiêu. Người lái đò ở đây cũng chính là người lao động siêng năng, chuyên cần kiên trì mạnh mẽ và can đảm.

Phẩm chất đẹp đẽ ấy của người lái đò được khắc họa rõ nét qua quang cảnh vượt thác sông Đà. Trước con sông đầy mưu kế và nhiều đòn nghiêm trọng, người lái đò phải hết sức tỉnh táo và vững tâm mới có thể xuyên qua ma trận với ba vòng thách đấu của dòng sông. Trước “thạch trận” đầy căng go, ông lái vẫn không hề nao núng. Ông vẫn “giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên”. Dù cho mặt nước reo hò hùa nhau bẻ gãy cán thuyền còn sóng nước thì như “quân quyên sinh” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Mặc cho nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa ông ra, còn sóng thì như bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. Và dù cho đã bị thương “mặt méo bệch đi” thì ông vẫn kiên quyết không đầu hàng. Ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái” và chỉ huy chiếc thuyền băng băng vượt qua mọi “trùng vi thạch trận”.

Qua đây ta thấy rõ, tác giả đã xây dựng hình tượng nhân vật người lái đò bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc ở nhiều ngành nghề như binh pháp, âm nhạc, võ thuật, thể thao…, Đồng thời với những giải pháp tu từ nhân hóa, so sánh, cùng câu văn ngắn gọn, súc tích đã khắc hoạt thành người lao động vật lái đò và dòng sông huyền thoại.

Đoạn trích người lái đò Sông Đà thực sự là một tùy bút vô giá. Nó thôi thúc mọi độc giả sau khi đọc xong đều muốn xách ba lô lên và đi tới Tây Bắc để được tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vị, đầy bạo tàn và trữ tình của dòng sông độc đáo này. Đồng thời có thể trò chuyện với ông lái đò để thêm yêu, thêm hiểu những con người quả cảm nơi đây.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 29

Nhà văn là người dẫn đường cho người đọc tới với xứ sở của cái đẹp, bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã dẫn người đọc tới xứ sở của cái đẹp nơi Tây Bắc, ông tới để tìm chất thơ trong thiên nhiên chất vàng mười trong tâm hồn người dân lao động nơi đây.

Trước hết, đó là vẻ đẹp vừa hùng vĩ mà cũng rất đỗi nên thơ, dịu dàng của thiên nhiên Tây Bắc, của con sông Đà. Cái hùng vĩ dữ dội của sông Đà trước hết là ở đá dựng vách thành. Ngay chỗ này, cách sử dụng từ của Nguyễn như đã yểm vong hồn cho cảnh vật. Từ “vách thành” gợi cái gì đó âm u, thâm sâu, bí hiểm giống như thành xưa quách cũ, hầm cao hào sâu, giống như một thành trì kiên cố bất khả xâm phạm. Tiếp theo đó, những so sánh ví von gắn với thực tế về cảm giác lạnh khi ngồi dưới khoang thuyền đi khiến cho thiên nhiên, không gian nơi đây tuy hùng vĩ, nhưng lại đầy hoang lạnh, bí hiểm vô cùng. Hùng vĩ của sông Đà còn ở tiếng gầm của thác: “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió hằm hừ suốt năm”, giọng nghe “vừa oán trách, vừa van xin” rồi lại khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Đặc biệt là những hút nước như cống bê tông, đầy nguy hiểm rình rập. Con sông Đà hùng vĩ, dữ dội, hung bạo, cái nét hùng vĩ hung bạo ấy của Sông Đà khác hẳn con sông Hương trong văn Hoàng Phủ, sông Hương hùng vĩ, dữ dội nhưng mang nét đẹp mãnh liệt, phóng khoáng như một bản trường ca của rừng già, còn con sông Đà lại mang tâm địa của một loài thủy quái. Để thuần phục nó, chế ngự nó trên trang văn của mình, Nguyễn đã chơi ngông sử dụng “nước để tả lửa, lấy rừng để tả sông”, từ đó thấy được sức mạnh, cũng như sự gớm ghê, khốc liệt của con sông Đà. Nét đẹp dù dữ dội, hùng vĩ của nó cũng đẹp theo một cách rất riêng.

Nhưng kế bên vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội, con sông Đà còn mang trong nó vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc, bung nở như hoa ban hoa gạo tháng hai, cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Chỉ một chữ áng tóc, ta đã thấy được hết cái tài hoa và màng lọc tâm hồn tinh tế của Nguyễn Tuân, ông luôn nhìn sự vật dưới góc độ văn hóa nghệ thuật, đây chính là minh chứng cho điều đó. Xưa nay người ta chỉ nói áng thơ, áng văn, mái tóc, mấy người nào gọi áng tóc bao giờ? Vậy là dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà bỗng mang trong nó phẩm giá và cốt cách của một tác phẩm nghệ thuật, không chỉ đẹp mà còn duyên dáng, mềm mại, tràn đầy sức sống, sức xanh, và sinh khí như đang bừng nở trên mảnh đất của tổ quốc này. Nét trữ tình, thơ mộng ấy, là tất cả tài hoa và nội lực của ngòi bút Nguyễn Tuân dồn lên trang giấy, để từ đó dẫn đường cho người đọc tới xứ sở của cái đẹp.

nếu như trên kia là vẻ đẹp của con sông Đà, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, thì không những thế Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà” còn đào sâu để tìm kiếm chất vàng mười trong tâm hồn con người Tây Bắc, mà ở đây có thể thấy rõ nhất là người lái đò. Con sông Đà nhiều khi dữ dằn như muốn ăn tươi, nuốt tươi những người chèo đò qua đây, ấy thế nhưng, ông lái Đò ấy vẫn bằng tất cả sức mạnh của mình để chế ngự nó. Ông lái Đò vừa khéo léo, lại vô cùng dũng cảm, đầy mưu lược, tài hoa đã vượt qua được những của tử của con thủy quái này. Ấy thế nhưng, ngay khi vừa ngừng tay chèo, ông lại trở về với cuộc sống giản dị, bình đạm, không hề khoe khoang hay tự hào về chiến tích của mình. Hình ảnh ông lái Đò vô lăng ra hoa ấy, từ đó phần nào thể hiện sự vận động trong cách nhìn của Nguyễn Tuân về con người. Trước đó, ông chỉ nhìn thấy cái đẹp ở những con người đặc tuyển, bây giờ ông thấy cả vẻ đẹp bình dị mà nhấp nhánh của người dân lao động trong cuộc sống mưu sinh, ông đã đi từ chốn tháp ngà nghệ thuật để sắp gũi hơn với cuộc sống của nhân dân lao động, hòa nhập với khá thở cuộc sống mới. Đó cũng là lí do mà văn Nguyễn Tuân trong “người lái đò sông Đà” làm ấm lòng nhiều độc giả.

“Người lái đò sông Đà” là một tuyệt tác của Nguyễn Tuân, một trang hoa tờ mây bất ngủ trong dòng chảy văn học Việt Nam, từ đó một lần nữa đóng một dấu triện riêng của Nguyễn vào lịch sử văn học nước nhà.

tìm hiểu Người lái đò sông Đà – Mẫu 30

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Ông là cây bút tài hoa uyên chưng, có phong cách nghệ thuật độc đáo, có tình cảm thiết tha với thế cuộc và truyền thống dân tộc. Nguyễn Tuân suốt đời đi tìm cái đẹp và đem ngòi bút phục vụ cho cái đẹp thực thụ có trong thế cuộc này. Tùy bút Sông Đà thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật ấy của Nguyễn Tuân.

Hình tượng con sông Đà với những nét đối lập gay gắt: Tác giả nhân hoá con sông Đà: như một sinh thể có hồn, có hoạt động, có tâm trạng và có hai nét tính cách đối lập. Hình ảnh một con sông Đà hung bạo: Cái đáng sợ nhất của sông đà là những ghềnh thác. Sông nào ở thượng nguồn cũng có ghềnh thác nhưng thác nước của sông Đà quê thật kì quái và đáng sợ bậc nhất. Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ mô tả từng cái thác một như thể điểm mặt chỉ tên chúng.

Trước hết là cái ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt vô lăng thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra. Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Nó thông thường như những cái thác khác.

Đâu chỉ là dòng nước. trong nó còn có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn thật đáng sợ. Những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.

Nó nguy hiểm tới mức không có thuyền bè nào dám lại sắp cái hút nước ấy. Nhiều bè gỗ rừng đi ngông nghênh vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông tới mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.

Tiếng nước réo gầm là âm thanh ấn tượng nhất của núi rừng hoang vu Tây Bắc. Còn xa lắm mới tới cái thác dưới nhưng người lái đò đã thấy tiếng nước réo sắp mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước được hình tượng hóa nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.

Thế rồi nó rống lên như tiếng một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Bọt nước tung trắng xóa cả quảng sông dưới. Rồi đá bày binh bố trận dàn hàng đàn ra chỉ chực vỡ nát hoặc nuốt trộng những con thuyền qua lại nơi đây.

Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên những tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn khí.

Cách mô tả thực thực, có chút phóng đại với lối liên tưởng tài tình gây ấn tượng mạnh mẽ về độ cao tun hút. Với thác nước và thành vách đá, một con sông đầy đá nổi, đá chìm và thác dữ khiến sông Đà lộ rõ tâm địa một quân thù số một. Với nghệ thuật mô tả tài hoa, tiếng nói tạo hình đặc sắc, cấu trúc trùng điệp, giọng văn mạnh mẽ, vận dụng tri thức của nhiều ngành khoa học như địa lí, điện ảnh để làm nên hàng loạt so sánh, liên tưởng kì lạ, bất thần, Nguyễn Tuân đã tái tạo lại hình tượng con sông Đà hung bạo, dữ dội và đầy hiểm trở trên nhiều dáng vẻ.

Bên trong sự hung bạo đó, con sông Đà cũng nổi trội lên như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và quốc gia. Nguyễn Tuân là một bậc kì tài trong việc sử dụng ngôn từ, ông đã tận dụng mọi thời cơ có thể phát huy tới tận cùng thế mạnh của mình, để buộc sự hung tợn và kì vĩ của sông đà phải sống dạy, phải hiện hình và phải gào thét lên trên những hàng chữ viết.

Nguyễn Tuân đã làm cho những trang văn của mình lung linh lên nhờ những vẻ đẹp mà ông mượn ở những ngành, những bộ môn trong và ngoài nghệ thuật để làm nên hàng loạt so sánh, liên tưởng, tưởng tượng rất kì lạ, không thể nào đoán trước: Người đọc phải ngạc nhiên khi nghe “tiếng nước ở đây thở và kêu như cửa cống trái bị sặc”, lại “ặc ặc lên như vừa mới rót dầu sôi vào”.

Sự tưởng tượng xuất thần của nhà văn về cú lia ngược chiếc máy quay “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh với một áng thuỷ tinh khối đúc dày…sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem”. ngạc nhiên và thán phục hơn nữa khi ông dám can đảm sử dụng lửa để tả nước, lấy hình ảnh “ô tô sang số ấn ga” trên “quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” để ví von với cách chèo thuyền. Để có được những hình ảnh hấp dẫn tương tự, chứng tỏ nhà văn đã không quản ngại công phu quan sát,tìm hiểu tận tường để trông thấy thật đúng sự hung bạo đó.

Hình ảnh một con sông Đà trữ tình, thơ mộng: Thế nhưng, kế bên một con sông Đà hung bạo, dữ dằn ấy, còn có một con sông Đà hết sức đẹp đẽ, thơ mộng. Đó là một phát hiện lớn của Nguyễn Tuân về con sông của quốc gia. Ông biết nhìn nó ở mọi góc độ, mọi khía cạnh, mọi thời khắc để tìm kiếm vẻ đẹp ẩn chứa trong nó rất khó nhận thấy hoặc không có thời cơ nhận thấy. Như ông viết trong tác phẩm: “Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình”.

Vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình của sông Đà phải ở một độ cao đặc biệt, một điểm nhìn đặc biệt mới thấy rõ hết. Phải ở trên cao mà nhìn xuống. Phải vượt lên trên cái hung hãn của nó để thấy nó cũng hiền hòa, cũng duyên dáng để mà yêu mến và say mê nó. Phải từ trên cao mới thấy: “con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Đó là vẻ đẹp nét đẹp duyên dáng, mềm mại thơ mộng mà đất trời đã phú cho dòng sông kì vĩ ấy. Và phải bằng ánh mắt nhìn của người nồng nhiệt yêu mới nó mới thấy nó đẹp kì diệu tới thế.

Phải nhìn nhiều lần, nhiều thời khắc và nhìn kĩ lắm, Nguyễn Tuân mới phát hiện: “mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Cách so sánh về màu sắc, làm cho dòng sông hiện rõ vẻ đẹp riêng của mỗi mùa.

có nhẽ, Nguyễn Tuân phải đi lại và ngắm nhìn rất nhiều lần mới kết luận: “con Sông Đà gợi cảm” như một nhận định không thể sai được. Ông còn nói: “đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách”. Ông không hề biện minh cho cách nhìn của mình. Ông cứ nhìn thẳng, nói thật những gì ông đã thấy, đã cảm nhận được.

Sông Đà dưới mắt nhìn của Nguyễn Tuân lóng lánh ánh bạc phản chiếu. Cái gương sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi. Rồi gặp lại sông Đà thấy đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố tri, lưu luyến mãi không thôi. Đó là toàn bộ sông Đà khi nhìn từ trên cao. Còn khi đi trên thuyền, sông Đà hiện ra sắp gũi và thân tình. Lúc thuyền tới quảng êm mới thấy “cảnh ven sông ở đây lặng tờ” chứ không ồn ào nữa.

Rồi “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” hiện ra trước mắt. Tiếp tới “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm” thật yên bình như chốn này chưa từng có dấu chân người tới. Cuối cùng, Tác giả khẳng định chắc chắn: “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

giải pháp so sánh có sức khơi gợi sâu xa khắc hoạ vẻ đẹp hoang vu và dấu ấn văn hoá nghìn xưa của tổ tiên. nhịn nhường như có một dòng chảy vô tận từ nghìn năm cổ tích xuyên suốt về tới tận ngày nay. Lời văn Nguyễn Tuân cổ kính, đĩnh đạc trang nghiêm và hiện đại là thế.

Với những so sánh độc đáo gợi tả, gợi cảm, ấn tượng, giọng văn nhẹ nhõm, câu văn trải dài,mềm mại, âm điệu êm đềm, hình ảnh con sông hiện lên thật trữ tình và thơ mộng. Thành công đó chính là kết quả của những công phu tìm tòi nặng nhọc, công sức lao động nghiêm túc, chuyên cần, nhẫn nại của nhà văn.

Nhà văn ngợi ca vẻ đẹp, kì vĩ, hào hùng, trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, ngợi ca cái chất vàng mười của thiên nhiên. từ đó bộc lộ tình yêu tha thiết, say đắm của nhà văn đối với quê hương quốc gia nói chung và thiên nhiên Tây Bắc nói riêng. Từng câu văn vừa có đường nét, hình khối và màu sắc, vừa có sự so sánh và cảm nhận, lại như hát lên trong giọng điệu.

Lúc đầu âm vực cao, trường độ nhanh, càng về cuối nó như hạ thấp dần và chậm lại, kéo dài ra, lan tỏa trong không gian vô tận. Không phải cây bút văn xuôi nào cũng làm được như Nguyễn Tuân, tạo dựng nên cả một không gian trữ tình đủ sức khiến người đọc say đắm, ngây ngất, để thêm yêu thế cuộc này tới thế. Nhà văn đã có một sự chuyển đổi trong cách viết của mình khi mô tả hai nét tính cách đối lập của con sông này. Đó cũng là mục đích của nhà văn dựng lại hình ảnh con sông đà hùng vĩ, thơ mộng trữ tình.

Không chỉ chú trọng tái tạo hình ảnh dòng sông Đà, Nguyễn Tuân còn mô tả kỹ lưỡng hình ảnh người lái đò già thường qua lại trên quãng sông ấy trong trận đụng độ kịch liệt với dòng sông. Ông lái đò hiện lên với ngoại hình thật ấn tượng. Hai tay ông dài lêu nghêu như cái sào. hai chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như đang kẹp một cái gì đó vô hình. Rõ ràng, công việc hàng ngày đã tạc khác vào hình dáng của ông tới nỗi không thể rời bỏ hoặc thay đổi được. Hình ảnh ấy cũng là hình ảnh đặc trưng của những người xuôi ngược đò hàng như ông ở vùng đất dữ dội này.

Ông lái đò còn có nhãn giới phi thường. Nhìn mặt nước là ông biết ngay nó đang ẩn giấu cái gì ở bên dưới. Nó không thể nào lừa ông được. Tiếng nói của ông cũng ào ào lũ. Đầu quắc thước như một người bước ra từ trong sử thi. Trên ngực ông có một vết sẹo lớn mà ông rất tự hào về nó. Cuộc sống trên sông nước in dấu lên từng chi tiết trên thân thể ông. Những gian truân, cực nhọc và nghiêm trọng in hằn lên mồn một trong tâm trí ông.

Hàng chục năm xuôi ngược trên sông Đà, ông đò vẫn “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước, của tất cả những con thác hiểm trở” nên ông rất tự tin. Ông còn là người tài nghệ leo ghềnh, vượt thác. Qua mô tả của Nguyễn Tuân, ông lái đò hiện ra giống như một hiệp sĩ của núi rừng. Cả tư thế và tâm thế đều đứng trên hoàn cảnh. Với lối mô tả ấy, người đọc trông thấy ông lái đò có đủ sức mạnh và dũng khí để khuất phục và thuần hóa con sông dữ tợn và ngang bướng kia.

Hình ảnh ông lái đò hiện lên trực tiếp qua lời giới thiệu của tác giả trong cuộc chiến tử sinh với dòng sông Đà. Ông đã từng trải trăm lần chứ không phải là lần đầu thử sức với dòng sông. Ông rèn luyện trí tưởng cao độ và không cho phép mình sai phép. Trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc cả dấu chấm. Ông cũng không thích xuôi đò những đoạn nước êm. Những gì dữ dội và nghiêm trọng luôn làm ông hứng thú.

Cuộc sống của người lái đò Sông Đà quả là một cuộc chống chọi hàng ngày với thiên nhiên chỉ “để dành sự sống từ tay nó về tay mình” Trong cuộc chiến ấy, ông nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này và nắm được cái quy luật thế tất của dòng nước sông Đà. Dòng sông ấy dù có ẩn giấu cái gì trong mình nó đi chăng nữa ông đều thấu rõ hết.

Bằng việc khắc tạc tỉ mỉ, Nguyễn Tuân đã làm nổi trội lên bức chân dung ông lái đò từng trải, mang đậm dấu ấn nghề nghiệp, một con người có trí tưởng cao độ. Cách so sánh hấp dẫn thể hiện tài năng quan sát và sự tinh thông đối tượng của ông lái đò cùng sự tự tin, điềm nhiên nhưng không hề tự kiêu.

Qua mô tả của Nguyễn Tuân, ta có thể thấy, sự đối lập giữa ông lái đò và dòng sông Đà là quá lớn. Ông lái đò với con người nhỏ bé, không có phép màu, không có vũ khí. Ông chỉ có một cán chèo mỏng manh, đứng trên con đò đơn độc và lao đi trên dòng nước đầy cạm bẫy. Còn thiên nhiên Tây Bắc quá lớn lao. Dòng nước dữ dội và hiểm độc với sức mạnh được nâng hàng thần thánh. Nó có đủ mọi thứ vũ khí, mưu kế và binh pháp vô cùng lợi hại.

nếu như nhìn vào sự chênh lệch đó, quả thực, ông lái đò đang phải đối diện với một sức mạnh thần thánh, không có thời cơ nào để thắng lợi. Đó cũng là điều mà Nguyễn Tuân muốn gợi ra trong tâm trí người đọc để sau đó ông bất thần phô bày sự lợi hại phi thường của lái đò già dặn ấy trong cuộc vượt thác diễn ra ngay sau đó.

khởi đầu cuộc vượt thác, tác giả có đoạn mô tả con thác. trước hết là tiếng thác gầm réo với mọi âm điệu kinh rợn. Điều đó không khỏi khiến cho những đầu óc tỉnh táo và quả cảm nhất cảm thấy run sợ: “còn xa lắm mới tới cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo sắp mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.

Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, thác nước sông Đà như một con quái thú thượng cổ hung tợn và kì quái. Nó chỉ chực nuốt trộng tất cả những gì dám mon men lại sắp nó. Nó đói khát cùng cực và không gì có thể làm cho nó thôi dữ dội. Càng tới sắp càng thấy tháng hãi. Dòng sông không chỉ làm ra vẻ đáng sợ mà nó thực sự chứa đựng những nguy hiểm chết người.

Ngầm sâu dưới những cơn “sóng bọt đã trắng xóa” là “cả một chân trời đá”. Không chỉ đá ngầm, đá tảng mà chúng còn “phục kích hết trong lòng sông” . Mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy đâm thủng, xé nát những con thuyền gỗ mỏng manh.

Hình ảnh những hòn đá tinh quái hiện lên trong rất ngỗ ngược và khiêu khích. Nhìn vào, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Chúng đứng ngồi hay nằm tuỳ theo thị hiếu tự động của đá to đá bé. Bởi cái trật tự ngổn ngang và tùy tiện ấy, chúng làm cho mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trong tưởng như nó.

Thế nhưng không phải vậy. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn với một trật tự nhất định. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tang đám hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá. Hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa. Rồi tới tuyến hai nước sóng luồng giữa vật thuyền.

Thuyền vào đây rồi khó mà quay trở lại. Con nước cứ đẩy thuyền đi tới, mà quật, mà lắc, mà thúc, tránh bên nào cũng gặp đá nhọn, đá sắc ở tuyến ba như một pháo đài nổi sẵn sàng xoá sổ con thuyền ngay ở chân thác. Bằng nhãn quan kì của, ông lái đò tìm hiểu thạch trận, nhìn rõ cửa sinh, cửa tử mà tiến tới. Mỗi lần vượt thác là một trận đụng độ tử sinh thực sự. Sơ hở một cái là nguy hiểm ập tới ngay tức khắc. Con huyền tiến vào. trận đụng độ chính thức khởi đầu.

Vòng 1: Con thác dữ đón con thuyền hết sức long trọng bằng thạch trận đá và nước. Thạch trận dàn bài vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn oai vệ uy phong lẫm liệt. Chúng kiêu ngạo, chế nhạo, thách thức người lái đò. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến.

Một hòn khác lùi lại một tí và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến sắp vào. Thế nhưng điều ấy không làm ông lái đò quan tâm. Chúng chỉ là bọn lính nhằm gây mất tập trung mà thôi. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình.

Con thuyền lắc lư vụt tới. Sóng nước như thể quân quyên sinh cứ thức, giật, lắc hòng vật ngửa con thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Không những thế, nước bám lấy thuyền như đổ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Chúng không những hung tợn mà còn hết sức thâm hiểm, không chừa bất kì mưu kế hay đòn đánh nào. Sóng thác đã đánh tới miếng đòn hiểm duy nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò.

Nhưng ông đò cố nén vết thương, hô rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm.. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Trận thứ nhất mở màn thôi mà đã quyết liệt tới kinh hoàng. Kẻ tầm thường thật không thể vượt qua được con thuyền sớm bị xé nát tại đây. Thế nhưng, với tài năng và bản lĩnh của ông lái đò, con thuyền lướt tới vô sự. Người lái đò hiện lên như một viên tướng tả xung, hữu đột, tĩnh tâm, gan góc và tự tin, chống chọi và thắng lợi.

Vòng 2: Vừa hết vòng một là tới ngay vòng hai. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ở vòng vây này là cả một thạch trận có tổ chức vô cùng biến ảo. Mỗi hòn đá là một mối hiểm gớm ghê. Chúng xoay chuyển chứ không hề nằm yên và được che phủ, hỗ trợ bởi mặt nước nên càng thêm lợi hại.

Thế nhưng, ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. nếu như ở vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông thì vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để xí gạt con thuyền vào. Cửa sinh lại sắp đặt lệch qua phía bờ hữu ngạn. Con thuyền không thể lùi lại vì bất cứ lí do gì. Ông lái nhận định “cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi tới cùng như là cưỡi hổ”.

Không thắng nổi con thuyền ở vòng một, dòng sông tức giận vô cùng. Chúng hồng học tế mạnh đuổi theo. Ông lái mặc kệ chúng. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, băm chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Tuy cửa sinh lập lờ và biến ảo nhưng với kinh nghiệm bao năm vượt thác của mình, ong cảm nhận nó đang nằm ở hướng ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này. Chúng quá thân thuộc vì ông gặp chúng từng ngày.

tới đây, ông lái thể hiện tài năng và sức mạnh chinh phục của mình. Đứa nào ở xa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên. Đứa nào sáp lại sắp thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Bọn đá không làm gì được ông trở mặt nhăn nhó, gườm ghe thách thức.

Cuối cùng, những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Con thuyền vượt qua vòng hai bình an. Chỉ là vượt qua vùng đá cạn nhưng đó lại là vùng nguy hiểm nhất vì đá ẩn mình trong nước. Không có thương hiệu, không từng trải, từng nhiều lần bị đánh trúng, đánh trúng thì không thể thuộc lòng dòng sông tới thế.

Với trí tưởng tượng và vốn từ phong phú đặc biệt là tri thức về quân sự: cách bài binh bố trận, Nguyễn Tuân tạo dựng được đoạn văn mang đầy không khí trận mạc, sinh động.

Vòng 3: Còn một trùng vây thứ ba nữa. Vòng ba ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Nhưng ông lái biết những luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thế nhưng, không đơn thuần tới thế. Chúng đâu để người lái đò để tiến vào nơi ấy. Chúng tạo ra nhiều cửa hơn nữa, dụ dỗ con thuyền hết mức.

Không để bị chúng dụ dỗ, ông lái điều khiển con thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua khá nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được. Con thuyền thoát ra ngoài. người nào cũng thở phào nhẹ nhõm. Vòng ba này chỉ diễn ra có mấy giây đồng hồ. tới đây rồi mà sơ hở thì cũng thất bại như thuyền. Thất bại ở cửa nào trong cuộc vượt thác ấy đều dẫn tới hậu quả gớm ghê. Thế nhưng, nếu như thất bại ở cửa ba lại là một điều nhục nhã đối với bất kì tay đò nào.

Một hệ thống từ ngữ tượng hình, tượng thanh, nghệ thuật so sánh, câu văn ngắt ra nhiều để diễn tả những động tác trong cùng một khoảng thời gian của người lái đò. Nguyễn Tuân như đã vắt hết sinh lực của mình để diễn đạt thành công tính chất mạo hiểm và ý thức dũng cảm, ý chí thuần thục, giỏi giang trong nghề leo ghềnh,vượt thác của ông lái đò. Ông lái đò chính biểu tượng tài hoa của người nghệ sĩ như Nguyễn Tuân đã quan niệm: Dù bất cứ nghề nào, con người bộc lộ tài năng, khéo léo, điêu luyện trong nghề nghiệp, người đó là nghệ sĩ.

Với nghệ thuật mô tả giàu tính tạo hình, phối hợp nhiều yếu tố điện ảnh, lối kể chuyện hồi hộp giàu kịch tính, có cái nhìn của nhà địa lý chuẩn xác, nhà quân sự tài tình, nhà văn đã làm nổi trội cuộc chiến đầy dữ dội nhưng cuối cùng con người đã thắng lợi sức mạnh thần thánh của tự nhiên. Đó là kì tích lao động của con người. Bí quyết làm nên thắng lợi của con người không hề bí hiểm.

Đó chính là sự ngoan cường, chí quyết tâm và nhất là kinh nghiệm đò giang sông nước đã giúp con người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Bí quyết đó chính là những yếu tố làm nên chất “vàng mười” của nhân dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung. từ đó nhà văn ngợi ca ý chí của con người, ngợi ca lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng.

Trong con mắt Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc mới thật xứng đáng Là “vàng mười” của quốc gia ta. “Vàng mười” là để gọi tên vẻ đẹp và trị giá quý báu của con người lao động. Con người được ví với khối vàng mười quý báu lại chỉ là những ông lái đò nghèo khổ, những người trên hình hài còn in hằn những dấu vết khắc nghiệt của công việc chèo thuyền quá đỗi gian truân, cực nhọc, nghiêm trọng.

Tất cả những người lái đò trong tùy bút này, không trừ một người nào, đều làm lụng thầm lặng, giản dị, tuyệt đối vô danh, vì tác giả nhất định không chịu nêu tên họ. Song những con người vô danh đó đã nhờ lao động, nhờ cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên mà họ trở nên lớn lao, kì vĩ.

Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu quốc gia say đắm thiết tha của một con người muốn sử dụng văn học để ngợi ca vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật nặng nhọc, cùng sự tài hoa, uyên chưng của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc sử dụng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hoá và những kì tích lao động của con người.

*****************

kế bên tìm hiểu tác phẩm Người lái đò sông Đà , bài tìm hiểu hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà hay phần So sánh cảnh cho chữ và cảnh vượt thác Sông Đà cũng là những bài tham khảo hữu ích giúp những em trau dồi, nhằm củng cố tri thức Ngữ văn lớp 12 của mình.

Bản quyền bài viết thuộc THPTSocTrang.Edu.Vn. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: cmm.edu.vn

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục

Related Posts