Đề bài: tìm hiểu nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang
Bạn đang xem bài: tìm hiểu nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang
tìm hiểu nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang
I. Dàn ý tìm hiểu nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang (Chuẩn)
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nỗi nhớ nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan qua bài thơ “Qua đèo Ngang”.
2. Thân bài
– Nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả được bộc lộ gián tiếp qua bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà:
+ Thời gian: Chiều tà vốn là khoảng thời gian nhạy cảm khi con người kết thúc một ngày lao động mỏi mệt để trở về với gia đình, thường gợi cho con người cảm giác nhớ nhung, man mác buồn.
+ Không gian: Tại một vùng núi hoang vu hẻo lánh đó là “đèo Ngang”, tới cỏ cây cũng phải chen nhau để tranh giành sự sống.
+ Bức tranh thiên nhiên có xuất hiện sự sống của con người nhưng thưa thớt tới nao lòng khi chỉ có “lum khum dưới núi tiều vài chú/ loáng thoáng bên sông chợ mấy nhà”…(Còn tiếp)
>> Xem chi tiết Dàn ý tìm hiểu nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang tại đây.
II. Bài văn mẫu tìm hiểu nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang (Chuẩn)
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên thi sĩ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho thế cuộc của mình cũng có nhụy”. Thật đúng tương tự, mỗi thi sĩ đều lựa chọn cho mình một lối đi riêng biệt để thể hiện phong cách nghệ thuật sáng tác của riêng mình. Ta bắt gặp Hồ Xuân Hương với cái “tôi” sôi nổi cá tính muốn đấu tranh cho thân phận bèo trôi của người phụ nữ qua “Bánh trôi nước”. tới với thơ Bà Huyện Thanh Quan ta lại thấy một cái “tôi” nhẹ nhõm với những nỗi nhớ nước thương nhà da diết qua bài thơ “Qua đèo Ngang”.
Bà Huyện Thanh Quan được biết tới với tăm tiếng là một nữ sĩ tài giỏi hiếm có trong thời đại xưa. Thơ của bà luôn chất chứa những nỗi nhớ đầy vơi, những miền kí ức lạ. Bài thơ “Qua đèo Ngang” là một trong số những bài thơ Đường luật xuất sắc nhất của bà và luôn được những thế hệ độc giả đón nhận. Với tình yêu quê hương quốc gia luôn cháy bỏng, “Qua đèo Ngang” chính là một tuyệt phẩm về tả cảnh ngụ tình của tác giả để giãi bày nỗi nhớ nước thương nhà tới đau lòng.
Không phải bất cứ nỗi nhớ nào cũng có thể diễn tả bằng lời hay có thể gọi tên nỗi nhớ ấy. Chính vì vậy mà nữ thi nhân đã mượn quang cảnh bức tranh thiên nhiên bóng xế tà để nói lên tâm trạng của mình:
“Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
lum khum dưới núi, tiều vài chú,
loáng thoáng bên sông, chợ mấy nhà”.
Câu thơ mở đầu gợi lên cho chúng ta một quang cảnh thiên nhiên vào lúc “xế tà”, thời gian dần chuyển từ chiều sang tối. Phải chăng đây chính là khoảng thời gian nhạy cảm nhất trong ngày đưa tâm trạng con người trở về với những miền nỗi nhớ, những nỗi buồn man mác không tên. Thời gian “xế tà” phối hợp với không gian hoang vu hẻo lánh của đèo Ngang đã làm cho lòng người càng thêm trĩu nặng hơn. Tâm trạng của thi nhân bỗng có chút thay đổi khi được chứng kiến cuộc sống sinh hoạt của người dân ở dưới chân đèo. Nỗi nhớ nước thương nhà như được lan tỏa vào muôn vàn cảnh vật. Bức tranh đượm buồn ấy bỗng trở nên sinh động hơn khi “cỏ cây chen đá, lá chen hoa” để tranh giành nhau sự sống. Phải chăng trong lòng thi sĩ cũng có chút liên tưởng về những thân phận người phụ nữ bị chèn lấn trong xã hội cũ, thế nhưng họ vẫn vô cùng mạnh mẽ đi tìm một lẽ sống cho riêng mình. Đứng từ độ cao hàng trăm mét nhìn xuống, thi sĩ có cái nhìn bao quát lên vạn vật. Nơi đây hoang vu nhưng vẫn có sự xuất hiện của con người cho thấy sự sống vẫn còn tiếp tục khi “lum khum dưới núi, tiều vài chú/ loáng thoáng bên sông, chợ mấy nhà”. Ở dưới chân đèo kia, vẫn có những con người đi kiếm củi vì cuộc sống mưu sinh vất vả, vì bữa cơm manh áo hằng ngày. Điểm nhìn của thi sĩ có sự dịch chuyển từ cảnh vật sang con người nhưng lạ thay quang cảnh ấy vẫn rất hiu quạnh, nặng nề. Phải chăng vài chú tiều chuyên nghề đốn củi cũng không thể phá vỡ không gian yên tĩnh nơi đây? thi sĩ sử dụng từ láy gợi hình “lum khum” cho thấy những bóng hình bé nhỏ dưới chân núi cũng đang rất vất vả và vội vã gánh củi về nhà trước khi trời đã xế chiều. thi sĩ phóng tầm mắt ra xa hơn thì thấy “loáng thoáng bên sông, chợ mấy nhà”. Khi nhắc tới chợ, ta thường liên tưởng ngay tới một quang cảnh tấp nập, mua bán diễn ra tấp nập nhưng ở đây, chợ lại vô cùng vắng vẻ, tiêu điều cũng chẳng thấy một dáng người qua lại và cũng chỉ “loáng thoáng bên sông” mấy cái nhà trơ trọi. thi sĩ đang luôn ngóng chờ được thấy những chân trời mới tốt đẹp hơn khi đặt chân tới vùng đất mới nhưng sự sống mỏng manh, thưa thớt lại càng làm cho cảnh vật trở nên u sầu hơn. thi sĩ đã đảo vị ngữ “lum khum”, “loáng thoáng” lên đầu câu thơ cho ta thấy những sự sống hiếm hoi, lẻ bóng nơi đây cũng rất xa xôi để thi sĩ có thể cùng bầu bạn, trút bầu tâm sự. Việc sử dụng hai từ láy “lum khum”, “loáng thoáng” vừa có tính gợi hình cao lại vừa có tính ước lệ rõ nét. Nhưng tất cả cũng không thể diễn tả được dòng xúc cảm của thi sĩ lúc này. Chắc hẳn, thi sĩ phải yêu và nhớ quê hương lắm mới có thể tạo nên bức tranh tinh tế tới vậy.
Nỗi nhớ ấy cứ trực trào và trỗi dậy mãnh liệt hơn khiến thi sĩ phải thốt lên rằng:
“Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi mồm, cái gia gia,
ngừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta”.
Trong không gian yên tĩnh, hiu quạnh của núi đèo bỗng chợt đâu đó vang lên tiếng kêu của con chim cuốc, chim da da trong bối cảnh chiều buồn càng gợi lên nỗi tan tác, bi thương hơn. Điệp âm “con quốc quốc” và “cái gia gia” đã tạo nên những âm điệu êm đềm, du dương nhưng cũng rất não nùng, buồn thấu tâm tình. Phải chăng dụng ý chơi chữ của thi sĩ viết rằng con “quốc quốc” và cái “gia gia” chính là sợi dây liên kết giữa tiếng kêu của loài chim rừng với nỗi nhớ về Tổ quốc, về gia đình của thi sĩ. thi sĩ đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật “lấy động tả tĩnh”, lấy tiếng kêu của loài chim rừng để làm nổi trội bối cảnh yên ắng, quạnh hiu của buổi chiều muộn khiến cho tiếng chim bỗng chốc càng trở nên não nùng, thê lương hơn bao giờ hết. Nghe tiếng chim kêu thi sĩ càng đau lòng và càng nhớ về quê hương, gia đình nhiều hơn, thương cảnh nước nhà đang rối ren, tao loạn, li tán, gia đình thì hợp tan mà phận nữ nhi không thể cầm giáo ra giết thịt giặc trên chiến trường khiến thi sĩ càng cảm thấy đau lòng. Giữa chốn đèo cao hẻo lánh, tiếng chim cuốc, chim đa vang lên chính là tiếng lòng nhớ nước, thương nhà của nữ thi nhân. Giữa cái mông mênh vô tận của núi rừng đối lập với bóng hình bé nhỏ đơn độc một mình của thi sĩ đã khiến thi sĩ phải “ngừng chân đứng lại” để ngắm trời, non sông, quốc gia của mình bỗng đẹp như “gấm hoa” bởi:
“Có nơi đâu đẹp tuyệt vời
Như sông, như núi, như người Việt Nam”.
(Nguyễn Văn Trỗi)
Nỗi niềm chất chứa trong tâm hồn thi sĩ khiến thi sĩ xúc động tới thắc thỏm trước cảnh núi sông hữu tình nên phải “ngừng chân đứng lại” để tận hưởng, để ngắm nhìn tinh hoa đất trời. Thế nhưng thi sĩ vẫn cảm thấy đơn chiếc, lạc lõng khi chỉ còn “Một mảnh tình riêng, ta với ta”. Thủ pháp đối lập, thi sĩ đã lấy cái mông mênh, mênh mông của đất trời để làm nổi trội lên một thân phận bé nhỏ, “một mảnh tình riêng”. Trong bức tranh thiên nhiên ấy tuy có sự xuất hiện của con người, nhưng họ ở rất xa xôi và thưa thớt, sự sống hiện lên rất yếu ớt bởi vậy mà thi sĩ cũng cảm thấy có chút xót xa cho thân phận của mình, bà thật mạnh mẽ và táo tợn khi lựa chọn cho mình một hướng đi mới. Vũ trụ thì thật mông mênh và rộng lớn khiến cho con người càng cảm thấy mình đơn chiếc, bé nhỏ hơn. Khi không gian tĩnh lặng, ở đây chỉ có một mình bà “ta với ta” hòa quyện cùng mảnh tình riêng cho quốc gia đã làm ta gợi nhớ tới câu thơ của thi sĩ Nguyễn Khuyến: “chưng tới chơi đây ta với ta”. Thế nhưng sự phối hợp giữa “ta với ta” trong thơ của Nguyễn Khuyến có nghĩa rằng tuy hai mà một, tuy một mà hai. Cái “ta” đó không phải cái ta đơn chiếc, cái “ta” đó chính là cái “ta” được hòa quyện giữa hai tâm hồn vào chung một thể xác. Còn với Bà Huyện Thanh Quan, cái “ta” chính là cái “ta” đơn độc, lẻ bóng với nỗi sầu nhớ nước, thương nhà khôn xiết. từ đó, ta càng thấm thía hơn nỗi niềm giấu kín không thể giãi bày của thi sĩ.
Bài thơ “Qua đèo Ngang” đã thể hiện thành công một phong cách nghệ thuật rất sáng tạo và đặc biệt của Bà Huyện Thanh Quan. Những tình cảm đặc biệt thi sĩ đều dành trọn cho quê hương quốc gia, cho gia đình của mình bởi vậy bài thơ đã được giới trẻ đón nhận một cách nồng nhiệt.
Bài thơ chính là một tuyệt phẩm về nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình”, mượn không gian yên tĩnh của núi rừng để bộc bạch tình cảm nhớ nước, thương nhà luôn túc trực của thi nhân. Tác giả đã để lại cho chúng ta những bài học đắt giá về tình yêu quê hương, quốc gia bởi mỗi chúng ta sinh ra đều có một quê hương để trở về và tôi cũng vậy, quê hương của tôi chính là Việt Nam thân yêu!
——————HẾT———————-
Qua Đèo Ngang là một trong những thi phẩm đặc sắc nhất trong thơ ca trung đại nói về tình yêu nước, nỗi nhớ nhà của người lữ khách xa quê. Để việc tìm hiểu và học tập bài thơ được hiệu quả nhất, kế bên bài tìm hiểu nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang, những em có thể tìm Xem thêm: tìm hiểu bài thơ Qua đèo ngang- Bà huyện thanh quan, Tâm trạng tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang, Cảm nhận bài thơ Qua đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan, tìm hiểu trị giá biểu cảm của 2 câu thơ trong bài Qua Đèo Ngang.
Bản quyền bài viết thuộc Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://cmm.edu.vn
https://cmm.edu.vn/phan-tich-noi-nho-nuoc-thuong-nha-cua-tac-gia-trong-bai-tho-qua-deo-ngang/
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục