Đề bài: tìm hiểu vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở những nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt
Bạn đang xem bài: tìm hiểu vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở những nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt
tìm hiểu vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở những nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt
I. Dàn ý tìm hiểu vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở những nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
– Giới thiệu vấn đề cần tìm hiểu.
2. Thân bài
a. Bối cảnh truyện ngắn:
– Diễn ra vào giữa nạn đói năm 1944-1945, khiến hơn hai triệu đồng bào ta ở miền Bắc phải chịu cảnh chết đói.
– Ở xóm ngụ cư:
+ Cảnh người dân từ khắp nơi bồng bế, dìu dắt, thất thểu đi trên phố làng, người nào nấy đều “xanh xám như bóng ma”, người đói “ngổn ngang khắp lều chợ”.
+ “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Bao trùm lên toàn bộ không gian ấy là tiếng quạ kêu thảm thiết từng hồi, như một loại kèn quái dị đưa ma những kẻ xấu số, chết không có chỗ chôn.
b. Nhân vật Tràng:
– Là một người dân ngụ cư, xấu xí, và nghèo đói, tính tình vô tư không lo nghĩ, chính vì vậy Tràng không có nổi một tấm vợ. Ngày ngày anh làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm miếng ăn.
– Tuy nhiên cuộc thế khốn khó và bế tắc của Tràng bỗng có một bước ngoặt lơn khi anh “nhặt” được một cô vợ giữa buổi đói kém. Một cô vợ theo không anh chỉ sau hai lần gặp gỡ và bốn bát bánh đúc.
– Ban đầu anh cũng không có cái gọi là tình yêu trai gái gì với thị, chỉ đơn thuần rằng anh đồng cảm, thương xót cho người phụ nữ khốn khổ đã đói tới mức vật vờ, sắp chết nên đãi thị bốn bát bánh đúc => Lòng lương thiện, là tình người khi sống với nhau ở trên đời của Tràng.
– Khi đã thành vợ, thành chồng, Tràng cảm thấy mình có nghĩa vụ phải săn sóc và quan tâm tới cái người phụ nữ đang đi kế bên mình. Tràng bỗng lột xác trở thành một người đàn ông tinh tế:
+ Thấy vợ rách nát tàn tạ quá, lại không có đồ đoàn gì ngoài cái nón rách, anh dẫn thị vào chợ huyện mua lấy một cái thúng con và vài đồ vụn vặt.
+ Mua hai hào dầu về thắp đèn, cho cửa sáng sủa để đón thị về làm dâu.
=> Tràng bỗng nhiên trưởng thành hơn trong nhận thức, thứ tình cảm với thị không chỉ còn nằm ở lòng thương hại, mà giờ đây đã trở thành tình thân, tình yêu, thứ tình cảm ấy khiến con người ta trưởng thành, nhân hậu và tinh tế hơn hẳn.
– “trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Tình yêu, hạnh phúc lứa đôi đã xóa mờ đi tất cả những vấn đề chất chồng, sự đe dọa của đói kém, mở ra trong lòng nhân vật những xúc cảm, những hy vọng mới mẻ, niềm tin mãnh liệt về một cuộc sống khấm khá hơn.
– Sau đêm tân hôn, Tràng đã nhận thức được trách nhiệm của bản thân với cuộc sống, với gia đình
=> Biểu hiện rõ nét nhất về niềm hy vọng vào một cuộc sống tương lai tốt đẹp đang sắp có của nhân vật.
– Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phơi phới” chính là giải pháp, là niềm tin, niềm hy vọng mới của Tràng, mở ra cho anh một trục đường sáng, đưa cả nhà thoát khỏi cảnh bế tắc và tối tăm.
c. Nhân vật thị:
– Không tên tuổi, quê quán, dân ngụ cư, cong cớn sưng sỉa vì miếng ăn, cuối cùng theo không anh Tràng cũng vì miếng ăn.
– khát khao được sống, cầu được sống, thị trân trọng mạng sống của mình, thế nên thị buộc phải cong cớn, sưng sỉa để được ăn và cuối cùng là về làm vợ Tràng.
– Khi nhìn thấy cái căn chòi rách nát của Tràng thị đã không khỏi thất vọng, thở dài, thế nhưng thị chọn lựa lặng im, quyết tâm cùng chồng vun vén, tạo dựng hạnh phúc cho ra đình.
=> Thị vẫn còn nhớ cái ân tình của người chồng cho thị 4 bát bánh đúc, cứu thị khỏi chết đói, và thị cảm động bởi cái sự săn sóc của Tràng.
– Thị càng trân quý hơn cái tình cảm của bà mẹ chồng dành cho mình, bà đã không chê thị là loại con dâu theo không, trái lại còn dạy bảo, săn sóc.
– Sau đêm tân hôn, thị đã dậy sớm, ra sức vun vén, thu dọn nhà cửa, đem quần áo rách ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang trí nhà cửa, lột xác trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, biết chăm lo => Sự trân quý thứ tình thân vừa mới có được và thị muốn tận tình vì nó.
– Trước món “chè khoán”, đắng ngắt và khó khăn, thị đã giấu đi nỗi thất vọng và buồn tủi của mình cốt để bà cụ khỏi buồn, và không phá vỡ đi cái không khí gia đình đang đầm ấm, yên vui này.
– Niềm hy vọng vào cuộc sống rất mãnh liệt, thị đã nhắc tới chuyện người ta đi phá kho thóc của nhật, và lòng thị cũng dần rộn lên những suy nghĩ về việc đi cướp thóc, cải thiện cuộc sống.
d. Bà cụ Tứ:
– nghèo túng cả đời buôn ba khốn khổ nuôi con lớn khôn, khi con lớn rồi thì bà lại cứ mãi day dứt về chuyện không thể cưới nổi vợ cho con.
– Xót xa cho cái phận mình, phận con lấy vợ ngay giữa nạn đói, không cỗ bàn, cưới hỏi, giữa cái không khí thê thảm, tiêu điều của thôn ấp, lo lắng một nỗi rằng không biết rồi đôi vợ chồng có thể dìu dắt nhau qua được cái nạn đói kinh khủng này không. = > Tấm lòng thương con sâu sắc.
– Nhanh chóng lạc quan và thông suốt bà thương con và thương cả người phụ nữ đã theo con mình, phải vào bước đường cùng thì người ta mới chịu lấy con mình, vì vậy bà lại càng thêm quý trọng mối nhân duyên này.
– Xuất phát từ tấm lòng của người mẹ bao dung, nhân hậu bà liên tục cho những con những lời dặn dò, động viên ý thức để những con chăm lo làm ăn, ổn định cuộc sống, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình.
– Bà cụ đã xua đi cái không khí u ám, rầu rĩ của nạn đói bằng cách liên tục kể những câu chuyện vui, gieo vào lòng con trai con dâu những niềm tin, niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng với những kế hoạch làm ăn, nuôi gà,… vạch ra một chặng đường tương lai đầy hứa hứa hẹn khiến không khí gia đình trở nên sôi nổi, hạnh phúc.
– Hình ảnh nồi chè khoán là tấm lòng của người mẹ, đang cố xua đi những cái đói, cái u ám của sự tử vong dần lan trên xóm ngụ cư.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận.
II. Bài văn mẫu tìm hiểu vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở những nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt
Số lượng tác phẩm ít, nhưng sáng tác nào của Kim Lân cũng đều chứa đựng những trị giá cốt lõi quý giá, lấy nền tảng hiện thực làm nổi trội lên những trị giá nhân văn sâu rộng, tác động lớn tới tâm hồn của người đọc. Chính vì lẽ ấy, thế nên Kim Lân một tác giả không học hành nhiều, nhưng có óc sáng tạo phong phú, đi sâu vào trong đời sống của nhân dân, đồng thời thấu hiểu nội tâm và vẻ đẹp tâm hồn của họ đã vinh dự được xếp vào là một trong 10 tác giả tiêu biểu nhất cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Cùng viết về chủ đề người nông dân khốn khổ trước cách mệnh tháng 8, thế nhưng khác hẳn với Nam Cao hay Thạch Lam, luôn mang tới cho độc giả những cái chết xa hoặc sắp, những cái tăm tối, bế tắc không hồi kết, thì ở Vợ nhặt, Kim Lân đã khéo léo mang lại ánh sáng cho người đọc giữa một quang cảnh ngột ngạt của nạn đói năm 1945. Ánh sáng đó xuất phát từ vẻ đẹp của tình người rét mướt và niềm hy vọng sống còn vẫn tiềm tàng trong mỗi một nhân vật Tràng, Thị, và bà cụ Tứ, dẫu rằng phận đời của họ cũng ngấp nghé cảnh chết đói.
Bối cảnh câu chuyện diễn ra vào giữa nạn đói năm 1944-1945, khiến hơn hai triệu đồng bào ta ở miền Bắc phải chịu cảnh chết đói, đó là cái nạn đói kinh khủng mà nhà văn Nam Cao đã không khỏi sợ hãi nhắc lại rằng “có nhẽ tới năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình”. Ở xóm ngụ cư, nơi diễn ra câu chuyện, giữa nạn đói ấy Kim Lân đã gợi lại một viễn cảnh thê thảm, tiêu điều của một giai đoạn đau thương nhất lịch sử dân tộc bằng những câu văn nhẹ nhõm ẩn chứa nhiều nỗi niềm đau xót. Cảnh người dân từ khắp nơi bồng bế, dìu dắt, thất thểu đi trên phố làng, người nào nấy đều “xanh xám như bóng ma”, người đói “ngổn ngang khắp lều chợ”, thần chết có nhẽ đã triển khai ngay một cuộc thảm sát trong khi “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. những người còn sống có nhẽ cũng đã xác định trước cái chết của mình, họ lầm lũi bước chầm chậm về phía nghĩa trang, kẻ “dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”. Bao trùm lên toàn bộ không gian ấy là tiếng quạ kêu thảm thiết từng hồi, như một loại kèn quái dị đưa ma những kẻ xấu số, chết không có chỗ chôn. Bởi lẽ lúc ban đầu người ta còn có sức chôn, sau vì đói, vì người chết nhiều quá nên người ta mặc kệ. Thậm chí, cái đói nó còn hóa thú cả con người, những kẻ sống sót từ nạn đói ấy có nhẽ cũng có vài người nghe tới tên món thịt người cứu đói. Chao ôi, cái sự sống khốn khổ trong văn của Kim Lân nó thật thấm thía và nhiều sợ hãi.
Tuy nhiên Kim Lân, không cốt để phản ánh hiện thực chết chóc, đau thương hay lên án cái xã hội đày đọa bất công này, mà ông tập trung nhiều hơn về con người và vẻ đẹp tiềm tàng trong họ. Từ nạn đói, bước ra 3 nhân vật rất tiêu biểu ấy là Tràng, Thị và bà cụ Tứ, những con người cũng bị cái đói hành tội tới thê thảm. Trước hết nói về nhân vật Tràng, là một người dân ngụ cư, xấu xí, và nghèo đói, tính tình vô tư không lo nghĩ, chính vì vậy Tràng không có nổi một tấm vợ. Anh cùng người mẹ già của mình nương tựa nhau trong một cái chòi rách phía rìa làng, ngày ngày anh làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm miếng ăn, nhưng ngày càng đói kém và công việc của anh cũng trở nên cập kênh, bữa được bữa mất. Tuy nhiên cuộc thế khốn khó và bế tắc của Tràng bỗng có một bước ngoặt lơn khi anh “nhặt” được một cô vợ giữa buổi đói kém. Một cô vợ theo không anh chỉ sau hai lần gặp gỡ và bốn bát bánh đúc. Từ một câu nói bông đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò cùng anh” khởi đầu nhân duyên và một lời cầu hôn cũng nửa thật nửa đùa hợp với tính vô tư của Tràng “Này có theo tớ về thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, người phụ nữ cong cớn, sưng sỉa, tàn tạ ấy đã sẵn sàng theo không Tràng, không cần mối lái, cưới xin, lễ hỏi gì sất, hai người đã thành vợ chồng dễ dàng như thế. Có thể nói rằng chưa có lúc nào mà con người ta lại xuống giá tới mức ngang bằng cọng rơm cọng rác có thể nhặt bất cứ đâu ở ngoài đường như thế, khốn khổ cho một kiếp người bị cái ăn, cái đói ép uổng. Tràng không ngờ rằng mình lại có được vợ bằng cái cách ấy, ban đầu anh cũng không có cái gọi là tình yêu trai gái gì với thị, chỉ đơn thuần rằng anh đồng cảm, thương xót cho người phụ nữ khốn khổ đã đói tới mức vật vờ, sắp chết nên đãi thị bốn bát bánh đúc. Đó là cái lòng lương thiện, là tình người khi sống với nhau ở trên đời của Tràng, người ta đâu thể hứa suông rồi không làm, người ta cũng đâu thể chứng kiến một mảnh đời tàn tạ, tội nghiệp sắp lìa đời, trong khi bản thân có thể trợ giúp họ bằng 4 bát bánh đúc. Nhưng khi đã thành vợ, thành chồng, nhịn nhường như trong lòng Tràng có cái gì đó nảy nở, Tràng cảm thấy mình có nghĩa vụ phải săn sóc và quan tâm tới cái người phụ nữ đang đi kế bên mình. Tràng bỗng lột xác từ anh chàng khù khờ, cục mịch trở thành một người đàn ông tinh tế, thấy vợ rách nát tàn tạ quá, lại không có đồ đoàn gì ngoài cái nón rách, anh dẫn thị vào chợ tỉnh mua lấy một cái thúng con và vài đồ vụn vặt. Thương thị không có được một đám cưới tử tế, Tràng lại dẫn vợ đi ăn mừng cưới một bữa no nê, thậm chí phá lệ mua hai hào dầu về thắp đèn, cho cửa sáng sủa để đón thị về làm dâu mới cho có không khí. Tràng bỗng nhiên trưởng thành, thứ tình cảm với thị không chỉ còn nằm ở lòng thương hại, mà giờ đây đã trở thành tình thân, tình yêu, thứ tình cảm ấy khiến con người ta trưởng thành, nhân hậu và tinh tế hơn hẳn. Một niềm hy vọng sống và mưu cầu hạnh phúc mãnh liệt đã thắp lên trong tâm hồn Tràng “trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Tình yêu, hạnh phúc lứa đôi đã xóa mờ đi tất cả những vấn đề chất chồng, sự đe dọa của đói kém, mở ra trong lòng nhân vật những xúc cảm, những hy vọng mới mẻ, niềm tin mãnh liệt về một cuộc sống khấm khá hơn. Sau đêm tân hôn, trước “cảnh tượng thật đơn thuần thông thường, nhưng đối với hắn thật thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ thường”, Tràng cảm nhận được rõ “một nguồn vui sướng đột ngột tràn ngập trong lòng”. Tràng đã nhận thức được trách nhiệm của bản thân với cuộc sống, với gia đình “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có phận sự phải lo lắng cho vợ con sau này” và biến nó thành hành động “hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa ngôi nhà”. Việc ý thức được phải lo lắng cho gia đình sau này, hay hành động tu sửa ngôi nhà rách nát chính là biểu hiện rõ nét nhất về niềm hy vọng vào một cuộc sống tương lai tốt đẹp đang sắp có của nhân vật. Trách nhiệm và ý thức về cuộc sống hiện tại, đã mở ra trong lòng Tràng khát khao đổi đời, thay đổi cái sự sống khốn khó này bằng một cách nào đó. Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phơi phới” chính là giải pháp, là niềm tin, niềm hy vọng mới của Tràng, mở ra cho anh một trục đường sáng, đưa cả nhà thoát khỏi cảnh bế tắc và tối tăm này.
Nhân vật thị, một người phụ nữ khốn khổ, không tên tuổi, quê quán, dân ngụ cư, cong cớn sưng sỉa vì miếng ăn, cuối cùng theo không anh Tràng cũng vì miếng ăn, vì muốn tránh khỏi cái lưỡi hái của Tử thần. cuộc thế của thị chính là tiêu biểu cho một loạt những cuộc thế có số phận tựa rơm rác giữa nạn đói năm 1945, bần cùng, thê thảm và tàn tạ. Ban đầu độc giả có thể có chút ác cảm với thị, một người phụ nữ đã xấu người lại còn được cái xấu nết, thế nhưng sau tất cả người ta mới thấy rằng vì thị thiếu thốn quá, thiếu ăn thiếu mặc, thiếu sự bảo bọc chở che, sắp chết tới nơi thì người ta còn biết cái gì là liêm sỉ, mặt mũi nữa, thị khát khao được sống, cầu được sống, thị trân trọng mạng sống của mình. Thế nên thị buộc phải cong cớn, sưng sỉa để được ăn và cuối cùng là về làm vợ Tràng, ngẫm cảnh thị khép nép theo chồng về nhà, ngồi trong nhà Tràng một cách ngượng nghịu, người ta lại thấy thương hơn thấy ghét. Thật là một người phụ nữ tội nghiệp. Thế rồi thấy cái cách chị hành xử trong gia đình, người ta mới dần trông thấy vẻ đẹp tâm hồn của thị, khi nhìn thấy cái căn chòi rách nát của Tràng thị đã không khỏi thất vọng, thở dài, thế nhưng thị không tỏ ý chê trách, đỏng đảnh mà trái lại thị chọn lựa lặng im, quyết tâm cùng chồng vun vén, tạo dựng hạnh phúc cho gia đình. có nhẽ rằng trong lòng thị vẫn còn nhớ cái ân tình của người chồng cho thị 4 bát bánh đúc, cứu thị khỏi chết đói, và thị cảm động bởi cái sự săn sóc của Tràng. Cuối cùng thị cũng có một mái ấm, một tình thân, và thị càng trân quý hơn cái tình cảm của bà mẹ chồng dành cho mình, bà đã không chê thị là loại con dâu theo không, trái lại còn dạy bảo, săn sóc. Sau đêm tân hôn, thị đã dậy sớm, ra sức vun vén, thu dọn nhà cửa, đem quần áo rách ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang trí nhà cửa, lột xác trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, biết chăm lo. Điều ấy đã chứng tỏ trong lòng thị thật sự trân quý thứ tình thân vừa mới có được và thị muốn tận tình vì nó. Trong bữa cơm sáng, trước món “chè khoán”, đắng ngắt và khó khăn, mắt thị tối lại, thị tủi thân, nhưng hơn hết là thị thương bà cụ, một người mẹ già nghèo túng không có tiền nong chuẩn bị cho con cái được bữa chè mừng cưới, buộc lòng bà phải đãi món chè khoán. Chính vì vậy thị đã giấu đi nỗi thất vọng và buồn tủi của mình cốt để bà cụ khỏi buồn, và không phá vỡ đi cái không khí gia đình đang đầm ấm, yên vui này. không những thế ngoài vẻ đẹp tình thân, ở nhân vật thị cũng toát lên một niềm hy vọng vào cuộc sống rất mãnh liệt, thị đã nhắc tới chuyện người ta đi phá kho thóc của nhật, và lòng thị cũng dần rộn lên những suy nghĩ về việc đi cướp thóc, cải thiện cuộc sống, thị tin rằng tương lai bằng đôi bàn tay của thị, Tràng và bà cụ Tứ sẽ ngày một tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn.
Với nhân vật bà cụ Tứ, có nhẽ rằng đây là nhân vật bộc lộ một cách rõ nét nhất về tình thân và niềm hy vọng vào cuộc sống, mặc dù bà cụ đã là người sắp đất xa trời. Người phụ nữ hiền hậu, nghèo túng cả đời buôn ba khốn khổ nuôi con lớn khôn, khi con lớn rồi thì bà lại cứ mãi day dứt về chuyện không thể cưới nổi vợ cho con. Thế nên khi nghe chuyện Tràng cưới vợ, bà cụ ban đầu là sửng sốt, hoang mang, sau ấy là trở nên tủi hơn “cúi đầu nín lặng”. Bà xót xa cho cái phận mình, phận con, người ta cưới xin lúc ăn nên làm ra, nhà có của dư của để, đãi làng đãi xóm, còn con mình lại lấy vợ ngay giữa nạn đói, không cỗ bàn, cưới hỏi, giữa cái không khí thê thảm, tiêu điều của thôn ấp, nghĩ mà thêm đau xót. Lòng của người mẹ thương con không chỉ buồn bã, tủi phận mà còn lo lắng một nỗi rằng không biết rồi đôi vợ chồng có thể dìu dắt nhau qua được cái nạn đói kinh khủng này không. Từ nỗi lo bà cụ là người từng trải, nên cũng nhanh chóng lạc quan và thông suốt bà thương con và thương cả người phụ nữ đã theo con mình, phải vào bước đường cùng thì người ta mới chịu lấy con mình, chứ nào đâu có dễ dàng gì, vì vậy bà lại càng thêm quý trọng mối nhân duyên này. Bà cụ đã thật hiền từ mà nhanh chóng gật đầu cho mối hôn sự “Ừ thôi thì những con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lắm”. Rồi xuất phát từ tấm lòng của người mẹ bao dung, nhân hậu bà liên tục cho những con những lời dặn dò, động viên ý thức để những con chăm lo làm ăn, ổn định cuộc sống, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình. Tuy ít học hành, nhưng bà cụ Tứ thật xứng đáng là người mẹ hiền, thông tuệ, có tấm lòng yêu thương con sâu sắc, biết chia sẻ và trợ giúp những con trong cơn đói kém bằng sức mạnh của tình thân, tình người. Sau đêm tân hôn, bà cụ đã xua đi cái không khí u ám, rầu rĩ của nạn đói bằng cách liên tục kể những câu chuyện vui, gieo vào lòng con trai con dâu những niềm tin, niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng với những kế hoạch làm ăn, nuôi gà,… vạch ra một chặng đường tương lai đầy hứa hứa hẹn khiến không khí gia đình trở nên sôi nổi, hạnh phúc. Lòng người mẹ thương con, còn bộc lộ thông qua hình ảnh nồi chè khoán, bà cụ Tứ nghèo túng không có tiền đãi con được bữa chè ngọt nhạt, chỉ có một nồi cháo cám, đắng ngắt, nghẹn bứ ở cổ, nhưng ấy là tấm lòng của người mẹ, đang cố xua đi những cái đói, cái u ám của sự tử vong dần lan trên xóm ngụ cư.
Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm có trị giá nhân văn sâu sắc, ở đó vẻ đẹp của tình thân tình người, niềm tin và niềm hy vọng vào cuộc sống vẫn hiện lên một cách tiềm tàng và âm ỉ trong tâm hồn mỗi con người, mà không hề bị cái đói, cái chết vùi dập, chôn lấp. Trái lại dựa vào sức nuôi dưỡng mạnh mẽ của tình thân, thì hy vọng sống còn của con người càng trở nên mạnh mẽ và tỏa sáng, mở đường cho con người thoát khỏi cảnh bế tắc, khốn cùng.
—————HẾT————–
Trong không khí u ám, ngột ngạt của nạn đói, khi đứng trước ranh giới mỏng manh giữa sự sống và cái chết, những con người trong truyện ngắn Vợ nhặt vẫn dành cho nhau những tình cảm thật đáng quý. Tìm hiểu về nội dung truyện ngắn Vợ nhặt, từ đó thấy được trị giá nhân đạo được nhà văn Kim Lân gửi gắm qua tác phẩm. kế bên bài tìm hiểu vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở những nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt, những em có thể tham khảo thêm: trị giá nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt, tìm hiểu tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt, tìm hiểu nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt, trị giá nhân đạo và trị giá hiện thực của Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt
Bản quyền bài viết thuộc trường Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung (cmm.edu.vn)
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục