Tìm hiểu về thế cuộc và phong cách thơ Chế Lan Viên
Bài văn mẫu Tìm hiểu về thế cuộc và phong cách thơ Chế Lan Viên
Bạn đang xem bài: Tìm hiểu về thế cuộc và phong cách thơ Chế Lan Viên
Bài làm
I. Chế Lan Viên:
“Từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”, có thể tóm tắt nội dung tập thơ Ánh sáng và phù sa (1960), tập thơ thứ hai của Chế Lan Viên sau cách mệnh như thế. Tập thơ phản ánh, truyền tụng cuộc sống mới đang lớn dậy từng ngày, kịp thời góp tiếng nói đấu tranh cùng với miền Nam, và đồng thời, xuyên suốt tập thơ là sự xâu xé trong tâm hồn thi sĩ, đẩy lùi nỗi đau cũ để tiến tới niềm vui mới. Chế Lan Viên giãi bày cuộc đấu tranh trong tâm hồn mình, trung thực, thực tâm như để chia sẻ tâm sự. Tính trữ tình của tập thơ bộc lộ trực tiếp, nhiều sắc thái, có chiều sâu.
Từ bóng tối của chế độ cũ, Chế Lan Viên bước theo vầng sáng chói lọi của lý tưởng, có nhẽ cũng có cái gì giống như nàng Kiều “trở về cái sống, còn chuếch choáng những cơn sóng siêu hình”. Trong chỗ khuất của hồn thơ, bóng tối của cái cũ vẫn náu lại, không phải dễ dàng rũ sạch. Anh hiểu rõ lắm tâm hồn mình:
Hồn tôi là một cánh đồng lẫn khuất
Đau bên đoài nên gió thổi bên đông.
Thật ra, được Đảng và cách mệnh giác ngộ, Chế Lan Viên đã dứt khoát từ lâu về mặt nhận thức tư tưởng đối với “cái tôi” cũ, hồn thơ cũ. nghi vấn triết lí về vấn đề ấy, anh đã tìm được cách trả lời:
Ta là người nào? như ngọn gió siêu hình
nghi vấn hư vô thổi nghìn nến tắt
Ta vì người nào? Bỗng xoay chiều ngọc bấc
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh
(Hai nghi vấn)
Nhưng đó vẫn mới chỉ là nhận thức. Còn chỗ sâu kín nhất của hồn thơ, nơi mạch ngầm của ngọn nguồn sáng tạo? Chế Lan Viên đã thể hiện sâu sắc được nỗi dằn vặt trong cái “toàn cầu tiềm tàng” của một tâm hồn nghệ sĩ, ở đây, nỗi đau, bóng tối vẫn muốn lan ra như từ một tâm bệnh cũ, một bản năng nào. Đau thương đang kết thành trùng điệp, nhân tới vô cùng. Nỗi đau ấy đang kéo thi sĩ xuống một tư thế tội nghiệp, một sự van xin:
Quỳ xuống bên đường
Tôi hôn cuộc sống
Lượng đời mở rộng
Nên đời còn thương…
Một cách chủ động, có ý thức. Chế Lan Viên quyết lấy niềm vui và ánh sáng để đẩy lùi nó, quét sạch nó. Trong cuộc đấu tranh này, anh đã có hậu thuẫn mới, chỗ dựa mới. Có sức nóng của ngọn lửa kháng chiến mười năm. Có vũ khí ý thức mà Đảng trao cho anh – “ánh sáng rọi soi tôi, ánh sáng ý thức của lí tưởng tôi”. Và may thay, bây giờ Chế Lan Viên không tự thu mình trong vương quốc của “cái tôi” cũ. nếu như thế thì nỗi đau của một người đủ che khuất chân trời của một người lắm! Anh đã “từ chân trời của một người, tới chân trời của mọi người”. Anh đã sống giữa Đời, giữa Người, cuộc sống mới đứng lên, tiếp sức anh.
Từng bước một, anh “lấn từng nỗi đau như mùa chim lấn vòng đai trắng”. Lòng anh, đầu này là tiếng khóc, thì tới phía kia, tiếng hát đã chứa lên:
Lòng ta chửa bao giờ ta đi hết được
Đi nhiệt tình, tiếng khóc hóa lời ca
Ngoảnh lại mùa đông khép lại cuộc đấu tranh ấy trong lòng Chế Lan Viên khẳng định người thắng lợi là anh, là cái mới. Chúng ta gặp một Chế Lan Viên đổi khác hẳn từ khuôn mặt hồng sắc máu, cho tới tâm hồn yên tĩnh lại, cho tới dáng đứng bước đi:
Nhìn mắt tạnh thuốc nước mắt…
Nhìn mặt đỏ hồng da mặt
Soi gương hồng cả gương soi
Đứng, đã với cành cao ngất
Đi, mơ đi những bước dài
Ôi những dặm đường công việc
Ba lô trìu ấp đôi vai
Cuộc đấu tranh dứt bỏ cái cũ cũng mở đường cho cuộc sống mới tràn vào Ánh sáng vù phù sa với rộn ràng âm thanh, dồi dào hương sắc. Người ta thấy rõ Chế Lan Viên rất có ý thức đi vào cuộc sống mới. “Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng” – đó là lời của Tây Bắc, hay chính là lời anh mời gọi tâm hồn mình. “Đi ra với sông, đi ra với trời, đi ra với người” là một cách bứt khỏi cái quẩn quanh tư nhân, hòa vào cái lớn của Đời. Chế Lan Viên say người đi và cũng làm người đọc say trong những vẩn thơ và tiếng thoi, tiếng cối sôi động ngoại thành, về con sông Hồng “phù sa óng ã – đôi bờ đỏ má “, cho ta cảm nghe giữa Tết trồng cây cả những rộn rực sinh nở của một mùa hoa trái tương lai. Văn xuôi về một vần thơ, với những cành phong lan bể, tàu tới, tàu đi đã thực sự nở một chùm hoa lạ, rực rỡ sắc màu trong thơ ca viết về cuộc sống mới. Tiết tấu câu thơ phóng túng mà vẫn nhịp nhàng như chính cái mới đang muốn phá bung những ràng buộc cũ, nẩy nở trong những nhịp độ mới tạo nên những câu thơ đẹp, lãng mạn, tiêu biểu nhất cho phong cách Chế Lan Viên thời kì này:
Tôi muốn tới chỗ nước trời lẫn sắc
Nơi bốn mùa đã hóa thành thu
Nơi đáy bể những rừng san hô vờ thức ngủ
Những rừng rong tóc xõa lược trăng cài
Nơi những đàn mây trắng xóa cá bay đi
Cá vào hội xòe hoa mang áo đẹp
Cá nục, cá chuồn, cá chim không phải chim đâu,
Cá hồng hồng sắc vẩy
Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về.
(Cành phong lan bể)
Ánh sáng và phù sa đánh dấu một chặng quan trọng trên trục đường thơ Chế Lan Viên, ở chặng này, anh đã rũ bỏ được tư tưởng và xúc cảm siêu hình cũ vẫn ẩn náu trong anh, đón nhận ánh sáng của lí tưởng làm vũ khí, phù sa của đời sống làm chất ngọt nuôi thơ. Và với hành trang ấy, anh bước ra “Đại lộ Lớn của Đảng, của nhân dân”. trục đường lớn của thơ anh (Trích thi sĩ Việt Nam hiện đại NXB Khoa học Xã hội, H.1984)
cách mệnh và trục đường trở về với dân tộc của Chế Lan Viên tuy không khác với Huy Cận, Xuân Diệu nhưng cũng có những nét riêng độc đáo. Một vùng quê hương với những kỉ niệm tuổi thơ khó quên lãng, những tháng năm chống Pháp với chiến khu Bình Trị Thiên mà mỗi mảnh đất, mỗi tên làng làm gợi nhớ biết bao chiến công hiển hách. Tât cả đều gắn bó sâu xa với tâm hồn và tình cảm của người cán bộ kháng chiến. Cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh ấy lần trước tiên đã đem tới cho thơ Chế Lan Viên một tình cảm tinh khôi, rất cao đẹp về Tở quốc. Tổ quốc đã tới trong thơ anh qua hình ảnh và tấm lòng cảm phục người mẹ, người anh du kích, người em liên lạc. Tổ quốc là những hy sinh và chịu đựng gian khổ trên sức tưởng tượng của Bình Trị Thiên khói lửa, là ý thức bám trụ kiên cường, là những chiến công rực rỡ. Lần trước tiên anh biết tới nhân dân qua thế cuộc cụ thể, với tấm lòng trân trọng hàm ơn:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Tình yêu Tổ quốc, lòng gắn bó thiết tha với nhân dân đã thực sự đem tới cho Chế Lan Viên một hạnh phúc lớn lao – hạnh phúc trước tiên tìm thấy trong thế cuộc và cả trong thơ ca vì tất cả trong quá khứ anh đánh rơi: mất phương hướng, mất sự sống, mất thời gian “Đời vừa mất ta. Thơ ăn mất hồn, Rừng ăn mất cây, bể ăn mất thuyền, Bóng đêm ăn cá, thế cuộc giết mổ luôn… “
Tất cả đã được tìm lại. Tất cả dào dạt trong hạnh phúc và niềm vui mới:
Ôi cái buổi lòng ta yêu Tổ quốc
Hạnh phúc nào không hạnh phúc trước tiên
Và đang được nhân lên và được tô điểm trong hào quang rực rỡ:
Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào
Thấy nghìn núi trăm sông diễm lệ
(Trích Nhà văn Việt Nam 1945 – 1975, Tập I, NXB Đại học và Trung học nhiều năm kinh nghiệm, H.1979).
II. Thơ Chế Lan Viên:
(QUA MỘT SỐ CHỦ ĐỀ thân thuộc CỦA ANH)
Nguyễn Xuân Nam
1.
Cho tới được…lúa vùng đất mật
Phải trên lòng bao trận gió mưa qua
Những tháp Chàm đổ nát hoang vắng của thành Bình Định đã khiếp sợ hồn thơ của cậu học trò mười bảy tuổi là Chế Lan Viên lúc ấy. Tập Điêu tàn được đặc biệt chú ý. Trong những giọng buồn của thơ ca lãng mạn 30 – 45 đây là giọng ảo não, khác lạ, vừa đượm chút kì bí lẫn màu sắc viễn phương. Khi thông cảm với nỗi đau của một dân tộc khác trong quá khứ, người đọc như nhận thấy thân phận hiện tại của mình. Nỗi đau không tìm ra lối thoát, rồi tự huyễn hoặc trong những cảm giác hư ảo, Chế Lan Viên lạc dần sang toàn cầu siêu hình. Suýt nữa rơi hẳn vào hư vô!
cách mệnh tháng Tám tới, thay đổi vận mệnh của dân tộc và kịp đặt ra những thử thách đối với anh:
Ơi kháng chiến, mười năm qua, như ngọc lửa
Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường
(Tiếng hát con tàu)
Những phẩm chất cao quý của những bà mẹ giàu lòng vị tha, của những người em liên lạc dũng cảm và tận tụy, của bao nhiêu đội viên không tiếc xương máu… trong những ngày kháng chiến gian khổ đã có sức cảm lớn. sống giữa nhân dân giàu lòng hy sinh và nhân hậu, Chế Lan Viên tự khắc phục cái băn khoăn “hình nhi thượng” của mình:
“Ta là người nào”, như ngọn gió siêu hình
nghi vấn hư vô thổi nghìn nến tắt
“Ta là người nào”, khẽ xoay chiều ngọn bấc
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh
(Hai nghi vấn)
Từ sự bừng tỉnh đó, nghiêm khắc nhìn lại quá khứ, anh đi tới một “bản kiểm điểm” có phần cực đoan:
Suốt một đời ăn hạt gạo nhân dân
Lần thứ nhất nhân vật đi học cấy,
Bỗng hối tiếc nghìn câu thơ nước chảy
Chửa “vì người” bằng một bữa cơm ăn
(Đi thực tế)
Chẳng có kĩ xảo gì trong những câu thơ này. Nhưng nó nêu được một vấn đề lớn của lương tâm những trí thức qua nhiều thời đại – từ thi sĩ xưa khi nhìn mây tạo nên những dáng kì lạ trên nền trời, tới cụ Trần Nguyên Đán nhìn đồng lúa khô cằn: “văn học không thể chỉ là những lời suông hão, trống rỗng”. Đối với những người cầm bút vốn hay si mê con chữ, bài thơ đánh dấu một bước giác ngộ lớn.
Nhưng muốn viết thứ văn học có ích cho đời, bản thân người viết cũng phải thế nào chứ? Nhiều bài thơ của Chế Lan Viên đã ghi lại cuộc đấu tranh vất vả với tật bệnh, với thương đau, với những dằn vặt xót xa. Điều quý nhất là anh luôn luôn lấy sức mạnh ở thế cuộc, ở tập thể, ở lí tưởng để tự khích lệ:
Phá đơn chiếc ta hòa hợp với người
Lấy cái vui của thế cuộc hạ gục mọi đau thương
Tôi đâu dám tủi buồn quên nhiệm vụ
Mỗi câu thơ đều phủi vượt lên mình
Giọng thơ không hùng hồn nhưng có sức hút. Nhiều người khác trong những hoàn cảnh riêng, trong cuộc đấu tranh riêng trông thấy ở anh một tâm hồn bầu bạn. Họ chia sẽ với anh niềm vui trong trẻo:
Tôi đứng dưới nhành vui còn bỡ ngỡ
Như em Kiều e lệ nép vào hoa
Và họ thật sự mừng khi anh tổng kết thắng lợi một giai đoạn của đời mình và rút ra quy luật:
Xưa phù du mà nay đã phù sa
Xưa bay đi mà nay không trôi mất
Cho tới được…lúa vàng đất mật
Phải trên lòng bao trận gió mưa qua
(Thư gửi Tế hanh hao)
trục đường đi kháng chiến là trục đường đi sâu vào trong nhân dân, dân tộc, đi tới một nền nghệ thuật chân chính. Trên trục đường ây, luôn luôn tự vượt lên mình,
hướng về Đảng, Chế Lan Viên đã viết một trong những bài thơ hay nhất của mình bài thơ trong thế cuộc, trước khi là bài thơ trên trang giấy: Kết nạp Đảng trên quê mẹ. Có thể trong bài ý thức về giai cấp người lao động, về vai trò dìu dắt của những người đồng chí chưa thật rõ. Nhưng bài thư lại thích hợp với tâm trạng của đông đảng viên ở một nước công nghiệp chưa phát triển, nông nghiệp còn thấp kém. Sự giác ngộ của họ khởi đầu từ cảnh nghèo đói của quê hương, từ trong những thế cuộc hy sinh lặng lẽ, từ nỗi đau dân tộc. thực tâm và xúc động, bài thơ đã đi vào tâm hồn nhiều người.
2.
Ôi giữa lòng ta, bác bỏ tới tự hồi nào?
bác bỏ vĩ đại mà chẳng làm người nào ngạc nhiên
Điều hạnh phúc lớn cho chúng ta là Hồ chủ toạ, người trước tiên mang tới cho dân tộc ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin, cũng là người suốt đời tiêu biểu toàn mĩ nhất cho chân lí của chủ nghĩa đó. Cả dân tộc có một tấm gương sống động để noi theo, tin tưởng và yêu kính. Như một nhu cầu về tình cảm, Chế Lan Viên đã viết nhiều bài kính dâng bác bỏ. Người đi tìm hình của Nước viết năm 1960 trong dịp kỉ niệm ba mươi năm thành lập Đảng là một bài đặc sắc. Nhiều đặc điểm về tư duy và văn pháp của Chế Lan Viên thể hiện khá rõ. Anh nêu lên quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của bác bỏ, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính tới chủ nghĩa Lênin. Bài thơ phối hợp chặt chẽ giữa tính lịch sử – cụ thể của người trong truyện, của người kể chuyện. những cảnh hiện lên xen kẽ đối lập và hài hòa: trong nước và ngoài nước, hiện thực và ước mơ, tưởng như kịch bản của một cuốn phim tài liệu – nghệ thuật.
tác động lớn của cách mệnh tháng Mười Nga, và tầm quan trọng đặc biệt của luận cương Lênin về những vấn đề dân tộc và thuộc địa được nhấn mạnh với những lời xúc tích:
Luận cương tới bác bỏ Hồ và người đã khóc
Lệ bác bỏ Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe bác bỏ lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, quốc gia đợi mong tin
bác bỏ reo lên một mình như nói cùng dân tộc
“Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi”
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc trước tiên là phút bác bỏ Hồ cười
Ngoài những thành công khác, Chế Lan Viên đã thể hiện được tầm nhận thức mới của chúng ta lúc ấy, có chủ nghĩa Mác – Lênin mới có nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. truyền tụng bác bỏ, anh đã đồng thời truyền tụng Đảng, truyền tụng trục đường cách mệnh đúng đắn Lênin đã vạch ra và bác bỏ vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam. Nội dung của bài thơ trở nên nhiều tầng, phong phú.
Bốn năm sau (1964) bài Người thay đổi đời tôi. Người thay đổi thơ tôi, lại là một đóng góp khác. nếu như ở bài trước anh nói nhiều về vận mệnh cả dân tộc, thì bài này anh đi sâu vào trong số phận một con người. Đề thơ khá rẽ ròi cốt làm vượt trội tính nhân quả. Những tư duy tìm hiểu khúc chiết không hề làm giảm đi sức cảm nhiễm nghệ thuật. Mỗi lần viết về bác bỏ, anh nhìn lại thế cuộc mình, không xúc động sao được. Chính sự xúc động đó tạo nên sức truyền cảm. Qua một loại so sánh giữa cái Đại giác ngộ và cái Vô ý thức, cái vĩ đại và cái non dại…như một người đi đường nhìn dãy núi ngất nghểu trước mặt, cảm thấy sự bé bỏng của mình. Nhưng qua bao nhiêu gian khổ, vượt bao nhiêu dốc đèo lúc nào không biết đã thấy mình đứng ở triền núi, nhờ núi mà cao thêm:
Ôi giữa lòng ta, bác bỏ tới tự hồi nào
bác bỏ vĩ đại mà chẳng làm người nào ngạc nhiên
Một buổi sáng, nhìn lòng ta, ta thấy bác bỏ
Nước mắt tràn, ta cảm hết ơn sâu
Càng ngày nhìn rộng ra Đông Tây, ta càng thấy rõ hơn sự vĩ đại của bác bỏ: Tâm hồn bác bỏ tỏa ánh sáng xuống mỗi đời người và tâm hồn mỗi người trở nên lóng lánh. Bài thơ đã diễn đạt được tấm lòng người Việt Nam trong cách nói của lớp trí thức – đối với lãnh tụ của mình.
Trong tình cảm thiết tha của Chế Lan Viên đối với bác bỏ, ta thấy sáng lên một trí tuệ sáng lên một trí tuệ sắc sảo. Rải ra trong những dòng thơ anh là những câu có ý nghĩa khái quát, như đúc kết chân lí:
Một thế hệ Hồ Chí Minh ấy là lực lượng.
Một trục đường Hồ Chí Minh ấy là phương hướng,
Một thành phố Hồ Chi Minh làm đích phía chân trời …
Người kí XYZ- CB như dân kí Lúa, Xoài
Người không muốn trang sách hóa thần, nhân dân quỳ để dọa
Dẫu tuyệt bút thi thư, cũng con đẻ cửa đời …
Ngọn suối reo! Nghe như tiếng bác bỏ cười
Và ta đi giữa con sông là trang viết của Người
Trí tuệ sắc sảo của tác giả còn thể hiện trong cấu tứ. Để phát hiện nhiều khía cạnh trong thiên tài của bác bỏ, và để diễn đạt tình cảm suy nghĩ tinh tế của mình, Chế Lan Viên tìm nhiều cách cấu tứ. Thấm nhuần ý kiến lịch sử, anh thường nhìn thấy quá trình phái triển của thiên tài ở những thời khắc mấu chốt và từ đó triển khai những dòng suy tưởng, Người đi tìm hình của nước, cách mệnh chương đầu đã cấu tứ như thế. Có lúc anh sử dụng khả năng tìm hiểu. Anh nhìn bác bỏ từ nhiều góc độ, nhiều quan hệ, bác bỏ Hồ – người thủy thủ, bác bỏ Hồ – người thợ ảnh, bác bỏ Hồ – nhà đội viên, bác bỏ Hồ – người cha, bác bỏ Hồ – người ông, bác bỏ Hồ – nhà hiền triết, bác bỏ Hồ – người trồng cây…và đi tới ý niệm toàn vẹn:
bác bỏ nằm kia như một sự kết tinh
Trăm cuộc sống
Cuộc sống nào cũng đẹp
Bài Ta nhận vào ta phẩm chất của Người lời chưa thật hay nhưng sự quyết tâm của tác giả để nói với chúng ta những điều vừa trừu tượng, vừa tinh vi… thật đáng ghi nhận. Bể và người lại đi vào một câu tứ khác; cái mênh mông trầm tư lửa bể, những quy luật của bể như có liên quan sâu xa tới cuộc sống của bác bỏ. hay đúng hơn hình như bác bỏ đã thâu tóm được lẽ huyền điệu của tự nhiên. Chế Lan Viên cho ta cảm giác vừa thân quen vừa mới lạ:
Ngôi nhà sàn giữa vườn hoa mộc
Khi sao lên có dáng con tàu
bác bỏ lên boong, trắng ngời râu tóc
Gió trong vườn vỗ sóng lao xao
Và kết thúc bằng hình ảnh gợi cảm:
Việt Nam vứt xuống thềm lục địa này ba tên đế quốc
Ngôi nhà sàn nằm yên trong hoa mộc hoa ngâu
Nhưng kìa, trên mặt bể, chỗ bác bỏ đi qua, sóng còn thao thức
Như lan mãi, lan xa theo vệt sáng con tàu
Tình cảm yêu kính và sự hiểu biết về bác bỏ là những điều cần bồi đắp mãi vào đời sống đạo đức và văn hóa của mỗi người chúng ta. Sau Tố Hữu, Chế Lan Viên là người đã quyết tâm đáp ứng yêu cầu ấy một cách siêng năng nhất. Tập Hoa trước lăng Người là chứng cớ của một tấm lòng, một trí tuệ… một tài hoa.
Xem thêm những bài văn mẫu hay tác phẩm Tiếng hát con tàu trên Cmm.edu.vn
– tìm hiểu khổ thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu: “Con tàu này lên… đã hóa những con tàu”
– tìm hiểu đoạn thơ để thấy tình cảm của Chế lan Viên với nhân dân: “Con gặp lại nhân dân… con nhớ mãi ơn nuôi”
– giảng giải ý nghĩa nhan đề bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên và bình giảng khổ thơ đề từ
Bản quyền bài viết thuộc Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://cmm.edu.vn
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục