Đề bài: tìm hiểu nỗi khát khao tình đời và tình người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử.
***
Bạn đang xem bài: Tình đời và tình người trong Đây thôn Vĩ Dạ
Đề bài tập trung vào tình đời và tình người trong Đây thôn Vĩ Dạ được rất nhiều thầy cô sử dụng cho những bạn học sinh tập tành để hiểu thêm về bức tranh tâm trạng trong đây thôn vĩ dạ. Và Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung cũng đã tổng hợp những gợi ý tốt nhất cho những em học sinh với đề bài này trong tuyển tập Văn mẫu 11: dàn ý chung, những bài văn mẫu cho đề bài này.
>>Tham khảo:
Bình luận quan niệm Đây thôn Vĩ Dạ chỉ thể hiện tình yêu với một người con gái xứ Huế
Dàn ý tìm hiểu nỗi khát khao tình đời và tình người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Cảnh (bức tranh thiên nhiên) và tình (bức tranh tâm trạng) thể hiện trong bài thơ
a) Cảnh (bức tranh thiên nhiên): Đẹp nhưng buồn
– Cảnh mang vẻ đẹp riêng: Hình ảnh nắng hàng cau trong sớm mai, vườn mướt xanh như ngọc, dòng sông đêm trăng
– Cảnh hiện thực mà huyền ảo: Hình ảnh sông trăng, thuyền trăng; hình ảnh áo “trắng quá nhìn không ra”; hình ảnh “sương khói mờ nhân ảnh”
b) Tình (bức tranh tâm trạng): Buồn xót xa nuối tiếc, niềm khát khao yêu đời
– Yêu tha thiết Vĩ Dạ nhưng không về thăm lại được
– tự ti về sự chia lìa: Hình ảnh phong vân ngược chiều, ngăn cách nhau: “Gió theo lối gió, mây đường mây”, hình ảnh người thôn Vĩ thân thiết mà xa vời
– Mạch xúc cảm của bài thơ thể hiện tình cảm, tâm trạng: ước ao, khát khao – ước vọng, phấp phỏng – mơ tưởng, hoài nghi. Tất cả đều xuất phát từ lòng tha thiết yêu đời
– Tình yêu thiên nhiên, quê hương quốc gia: Thôn Vĩ, xứ Huế chỉ còn trong hoài niệm, tâm tưởng của thi sĩ nhưng đã được vẽ ra sống động hiện thực trước mắt. Điều đó cho thấy Hàn Mặc Tử yêu tha thiết cảnh và người xứ Huế tới chừng nào
Với dàn ý chúng trên phối hợp với tri thức phần Soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ, những em học sinh sẽ có định hướng cơ bản để làm bài văn tìm hiểu Tình đời và tình người trong Đây thôn Vĩ Dạ. Thêm vào đó, Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung cũng tổng hợp thêm bài văn mẫu đã làm về đề bài này cho những em học sinh tham khảo, từ đó xây dựng nên một bài tìm hiểu riêng cho mình.
Chữ tình ấy được thể hiện ngay từ những dòng thơ trước hết với lời mời ngọt dịu, vừa nhẹ nhõm
Văn mẫu tìm hiểu nỗi khát khao tình đời và tình người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Bài 1 – tìm hiểu tình đời và tình người trong bài Đây thôn Vĩ Dạ ngắn
Hàn Mặc Tử là 1 thi sĩ lỗi lạc trong phong trào “Thơ mới”, đặc biệt là với trường thơ Loạn. “Đây thôn Vĩ Dạ” là 1 bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Điên của Hàn Mặc Tử, nhưng thực ra những vần thơ ấy có điên, có loạn thật không, hay đó là cả một nỗi lòng của một người khách đa tình, là nỗi khát khao về tình đời và tình người.
Chữ “tình” ấy được thể hiện ngay từ những dòng thơ trước hết với lời mời ngọt dịu, vừa nhẹ nhõm như trách cứ người thương “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Giữa quang cảnh vườn tược Vĩ Dạ đẹp nên thơ thấp thoáng đâu đó hiện lên hình bóng của một thiếu nữ. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình đã tô đậm cho nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu.
Ở khổ thơ 2, ngoại cảnh mênh mang chia lìa như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân. Tâm hồn thi sĩ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay “thuyền người nào” vừa thân quen, vừa xa lạ. Khổ thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn. Ở đây bức tranh tâm trạng tràn ngập ánh trăng, thấm thía một nối buồn đơn chiếc li biệt của khách đa tình. Khổ thơ thấm đượm dư vị xót xa. Trong nỗi đớn đau, vô vọng, thi sĩ chứa tiếng gọi đó xót xa: “Thuyền người nào…kịp tối nay?”
Khổ thơ 3 nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Sương khói đã làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em. Người thiếu nữ thoáng hiện, trong trắng, kín đáo và duyên dáng. sắp mà xa. thực mà mơ. Liệu rằng tình người thôn Vĩ có mặn mòi, tình người đời thương kẻ hoán vị nạn có thực tình, mặn mà, hay chỉ là chút tình thương hại nhạt nhẽo, mờ ảo như màn sương khói kia?
Những vần thơ ấy khi đọc lên quả thực có chút gì đó như điên, như loạn, nhưng lại thật sâu xa và thấm đẫm nhân văn, và là một nỗi khát khao tình đời, tình người.
Trên trục đường đời xa lắc xa lơ, giờ đây, thi sĩ ôm vết tử thương, đang lùi lại sau đồng loại, khiến những vần thơ ấy chứa đầy một nỗi đơn chiếc, trống vắng, và ta thấy, thi sĩ đang khát khao được sống trong yêu thương của con người và thế cục.
Tiếng thơ như nhắc nhở ta hãy biết yêu thương và bao dung, rộng lượng với đồng loại. Ở đời này có biết bao người hoán vị nạn cần tới sự thông cảm, chia sẻ ân tình của mỗi người chúng ta. Bài thơ đánh thức lòng trắc ẩn vốn tiềm tàng trong nhân thế.
Bài 2 – tìm hiểu nỗi khát khao tình đời và tình người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
người nào mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cảnh liễu đợi chờ
người nào mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tơ duyên ước hứa hẹn thề”.
người nào đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết tới “lời rao trăng” nổi tiếng ấy của một thi sĩ cũng rất nổi tiếng trong những năm ba mươi của thế kỉ XIX, vâng đó chính là Hàn Mặc Tử – một tên tuổi mãi mãi in đậm trong tấm lòng đọc giả. Ông là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đớn đau, nhịn nhường như có một cuộc vật lộn và xâu xé dữ dội giữa vong linh và xác thịt”. Ông “đã tạo ra cho thơ mình một toàn cầu nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với thế cục thực”. có nhẽ vì vậy mà trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài Chân đã xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ “kì dị” cùng với Chế Lan Viên. Tuy vậy, bên những dòng thơ điên loạn ấy, vẫn có những vần thơ trong trẻo tới lạ thường. “Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong tập “Thơ Điên” là một bài thơ như thế. Đây chính là sản phẩm của nguồn thơ lạ thường kia – là một lời tỏ tình với thế cục của một tình yêu vô vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là cả một khối u hoài của tác giả. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng nàn – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi ức của ông. Chính vì vậy đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn thi sĩ.
“Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ tuyệt bút này đã từng gây ra biết bao tranh luận bởi cái hay của nó không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn hay ở nghệ thuật từ âm điệu, câu chữ, hình ảnh tới cả nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được vận dụng một cách thành thục và khéo léo, nhưng cảnh thì ít mà tình thì nhiều cho nên cả bài thơ là một âm điệu du dương được gảy lên từ tiếng lòng của chính thi sĩ. Có tài liệu nghĩ rằng bài thơ được gợi hứng từ bức ảnh phong cảnh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc – người yêu đơn phương mà ông đã thầm yêu trộm nhớ từ ngày xưa – một người con gái dịu dàng thướt tha của thôn Vĩ xứ Huế. Nhưng bức tranh thôn Vĩ mà Hoàng Cúc gửi cho tác giả chỉ là cái cớ trực tiếp để phát sinh thơ, còn động lực và cội nguồn sâu xa làm nên cảm hứng thì Hàn Mặc Tử đã có sẵn lâu rồi, chỉ chờ tới thời cơ là nó sẽ bột phát. Đó là vẻ đẹp của một dáng Huế yêu kiều – nơi đã khắc chạm một dấu ấn khó quên của một người con gái và cũng là nơi để lại một mối tình đơn phương trong lòng tác giả:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”
Xứ Huế mộng mơ đã từng là nơi khơi nguồn cho bao văn nghệ sĩ, không ít người đã có những sáng tác xúc động về xứ Huế mộng mơ này: “Đã bao lần tới với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt” hay là “Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ sông…”, Huế có trong câu hát, có trong lòng mọi người và nay lại có trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ mở đầu bài thơ là một thắc mắc mang nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa như là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, trách đó mà sao tha thiết và bâng khuâng thế! Nhưng người nào trách, người nào hỏi? Không phải của Hoàng Cúc mà của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết vối Huế của thi nhân mà vút lên thắc mắc tự vấn khắc khoải này. Thật sự ở thôn Vĩ có cái gì đặc biệt và hấp dẫn mà tác giả đã hối thúc mọi người tới đó? Ba câu thơ tiếp theo sẽ vẽ ra một hình tượng chung – một mảnh vườn thông Vĩ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặt tả bằng ánh sáng của buổi rạng đông và một vườn cây thân thuộc. Đây là ánh nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín” của tác giả:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”.
Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn tượng với những “nắng tươi”, “nắng ửng”, còn ở đây là “nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” đã tỏa sức nóng cho bức tranh, cho sự sống, nắng ở đây trong và sáng đang trải dài trên những tán cau còn ướt đẫm sương đêm. Hàng cau hiện lên trong một khoảnh khắc đặc biệt, gắn liền với cái “nắng mới lên” trong trẻo, tinh khôi, thật cụ thể và đầy gợi cảm trong buổi sớm mai.
Nắng mới cũng còn có ý tức là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng trước hết chiếu rọi xuống làng quê, chiếu thẳng vào những vườn cây tươi mát, sum sê làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, nhóng nhánh như những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mượt:
“Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc”
Câu thơ sử dụng đại từ phím chỉ “người nào” để nói tới con người xứ Huế. Câu thơ có vẻ đẹp thật long lanh, vì có sắc “mướt” chăng? Hay vì được sánh với “ngọc” chăng? Vườn thôn Vĩ như một viên ngọc nhóng nhánh đang tỏa vào không gian cái sác xanh của mình. quang cảnh đơn sơ nhưng vô cùng lộng lẫy, chỉ bằng một vài từ gợi tả “mướt quá” và so sánh “xanh như ngọc” Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh quê rực rỡ, chan hòa sự sống. từ đó chứng tỏ, thi sĩ là một ngòi bút có tài quan sát tinh tế và trí tượng phong phú. Và cảnh vật ấy như sinh động hẳn lên khi có sự hiện diện của con người, nhưng người ở đây không phải toàn diện từ đầu tới chân mà chỉ là khuôn mặt “chữ điền” kín đáo, dịu dàng và phúc hậu:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ở đây có tương đối hướng Á Đông cổ điển, mặt chữ “điền” là khuôn mặt đượm nét phúc hậu đoan trang, nếu như nói “lá trúc che ngang” thì chỉ có thể nói về một cô gái có vẻ đẹp rất Huế. Cô gái e lệ đứng thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ “vườn người nào” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên và con người hài hòa với nhau đã tạo nên cái thần thái, cái hồn của Vĩ Dạ – một Vĩ Dạ vốn thơ mộng. Và đối với tâm tưởng của Hàn Mặc Tử, đó là thôn Vĩ của tình yêu và hoài niệm.
Thôn Vĩ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm nên ắt hẳn nhịp sống của con người ở đây cũng sẽ bị chi phối bởi cái yên ả của sông Hương: “Dòng sông Hương vẫn yên ả lững lờ trôi” – nhẹ nhõm mà vô cùng đẹp. Từ cách tả cảnh làng quê ở khổ đầu tác giả đã chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo trong giấc mộng. Ở khổ thơ thứ hai tâm trạng của tác giả đã chuyển sang một gam khác nên bước vào khổ thơ này chính là bước vào không gian tâm trạng riêng của Hàn Mặc Tử:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
thực tiễn phiêu tàn khởi đầu bao trùm cả bài thơ. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai hình ảnh đối lập: “gió” và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió trôi nổi, lang thang chính vì vậy mà nó bay thẳng vào thơ của Hàn Mặc Tử. Cái buồn sẵn có của nó phối hợp với vần thơ của tác giả thì chính nó đã tự làm cho nó buồn hơn bởi: gió đi theo đường của gió, mây theo đường của mây, gió và mây từ nay xa vắng nhau, không còn là bạn đồng hành của nhau nữa nên không còn lí do gì để gặp nhau. Mượn hình ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên tâm trạng buồn của mình, về sự xa vắng của mình và người yêu và cũng có thể sự xa vắng đó là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế truất nhân, đang nằm chờ cái chết. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như ở đoạn trước nữa nhưng lại bắt gặp một tâm hồn đau buồn, u uất:
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt. Với giải pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho hình ảnh dòng nước trở nên u buồn, xa vắng. “Dòng nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió – mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Câu thơ này nhịn nhường như còn thể hiện nhịp sống thường nhật của người dân nơi đây: một lối sống êm đếm và buồn tẻ. Hình ảnh “hoa bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu hắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời tới mặt đất, từ đất, gió, mây tới dòng nước và hoa bắp trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa vắng, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ là hư ảo trong mộng tưởng.
Trên cái xu thế đang trôi đi, chảy đi, thi sĩ chợt ước ao một thứ có thể ngược dòng “về” với mình, ấy là “trăng”:
“Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay? ”
Một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng…Không gian “bến sông trăng” nghe sao mà thân thuộc tới thế: “Bến sông trăng ôi nỗi nhớ đã đi qua mong tìm tới, biết khi nào được gặp lại em yêu hỡi. Trong cái lãnh cung của sự chia lìa, vốn không có “niềm trăng và ý nhạc” nên thi sĩ ước ao có trăng về như một niềm khát khao, một tri kỉ, một vị phúc tinh. Không biết thuyền có chở trăng về kịp cho người trên bến đợi hay không ? – đó là một thắc mắc biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Tác giả hiểu căn bệnh của mình nên ông tự ti về thời gian ngắn ngủi của thế cục mình. Giờ đây đối với ông, sống là chạy đua với thời gian, ông luôn tranh thủ từng ngày, từng buổi trong cái quỹ thời gian còn quá ít ỏi của mình. Chữ “kịp” nghe thật xót xa, đớn đau, gây nên nỗi xót thương cho người đọc. Bằng thắc mắc tu từ “có chở trăng về kịp tối nay ?” cùng với hình ảnh vừa hư vừa thực ở đoạn cuối thơ vừa như khắc khoải, thấp thỏm, vừa như hy vọng chờ đợi một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại. Đây chính là nỗi ước ao tha thiết với một nỗi buồn man mác của Hàn Mặc Tử khi vọng nhớ về thôn Vĩ Dạ.
Tiếp nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong cái mênh mông, bát ngát của trời đất. Đó là sự hy vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Mặc dù lời thơ thấm đẫm cái buồn của tâm trạng nhưng tác giả vẫn không quên gợi cho ta về cảnh đẹp của Huế cũng như con người ở đây:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
người nào biết tình người nào có mặn mòi ?”
Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ là tới hình bóng đẹp của người “khách đường xa”. Điệp từ “khách đường xa” phối hợp với nhịp thơ 4/3 thể hiện nỗi niềm trông ngóng tới da diết của tác giả. Đây còn là cách nói về nỗi cách xa nhưng không chỉ có không gian mà còn có sự xa vắng về tâm hồn và tình cảm. Có thể “đường xa” là xa về không gian, về thời gian nhưng cũng có thể là “đường tới trái tim xa”, cho nên tất cả chỉ gói gọn trong một chữ “mơ” duy nhất. Hình ảnh “sương khói” cùng với cụm từ “nhìn không ra” gợi lên hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong cõi mộng tạo cho thi sĩ một cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Mà vì sao lại “nhìn không ra” ? có nhẽ là do màu áo trắng của cô gái Huế trắng quá hòa lẫn vào làn sương mờ ảo. Thật ra “nhìn không ra” không phải là không nhìn ra, đây chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng – trắng một cách kì lạ, bất thần. Và hình như giữa mĩ nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
người nào biết tình người nào có mặn mòi ?”
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” phác họa một cảnh tượng mờ mờ, ảo ảo lại còn có cả sương và khói khiến cho ta thấy con người này đang ở ranh giới giữa hai toàn cầu sống và chết, và toàn cầu nào cũng lù mù đáng sợ. Câu thơ diễn tả rất đắt nỗi đau của một con người đang phải đụng độ với “sinh, lão, bệnh, tử”. Tác giả đã cố níu kéo, cố bám víu nhưng không được vì cảnh và đời chỉ toàn là “sương” với “khói”. Điều đặc biệt ở hai câu thơ này là ngoài nói về nỗi đau, tác giả còn mô tả rất thực về cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói ấy, con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi nên tác giả rất sợ điều đó. Tác giả không dám khẳng định tình mình với cô gái Huế mà chỉ nói “người nào”– điệp từ “người nào” nhịn nhường như xuyên suốt cả bài thơ, khổ thơ nào cũng có sự hiện diện của “người nào”, từ “vườn người nào”, “thuyền người nào” và bây giờ thì “người nào biết tình người nào có mặn mòi”. Câu thơ ngân xa như một tiếng than, nỗi đau của Hàn Mặc Tử như đang trải ra, vào cõi mênh mông vô cùng. Lời thơ nhịn nhường như nhắc nhở nhưng không bộc lộ vô vọng hay hy vọng mà là toát lên một sự thất vọng. Sự thất vọng của một thi nhân – người chủ của những mối tình “khuấy” mãi không thành khối, của một trái tim khát khao yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Lời thơ như một lời thanh minh khiến cho ta cảm thấy thông cảm và xót xa cho tác giả nhiều hơn.
Bài thơ khởi đầu là một thắc mắc tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” và kết thúc bài thơ cũng là một thắc mắc tu từ “người nào biết tình người nào có mặn mòi ?” khiến cho nỗi niềm của tác giả được đẩy thêm tầm vóc. Những thắc mắc tu từ trong bài nhịn nhường như cứ xoáy lên mỗi lúc một cao hơn ? Cảnh vật thì đẹp nhưng những hình ảnh về mảnh vườn xanh mướt, về bến sông trăng, về con thuyền và cả mối tình của tác giả nhịn nhường như vô tình làm nhòe đi để tạo nét mênh mang, thích hợp với tâm trạng của thi sĩ – một con người đang ở giữa hai bờ của sự sống và cái chết. Cảnh thật lung linh, huyền ảo, đầy thơ mộng nhưng lồng vào đó là tâm trạng của chủ thể trữ tình thì cũng trở nên buồn, buồn nhưng mà có hồn.
Thật vậy, âm hưởng của bài thơ chỉ cô đúc trong một chữ “buồn” nhưng không làm cho người ta bi lụy, bởi đằng sau nỗi niềm ấy của thi nhân ta thấy được một tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, nồng nàn và một khát vọng về cuộc sống ấm tình hơn. Những chi tiết, những thủ pháp nghệ thuật, cách cấu tứ đã được Hàn Mặc Tử vận tải bằng chính tình cảm của mình. Đọc cả bài thơ, ta không thấy có cái gì gượng gạo ép, trái lại ta như đang cùng sống với thi sĩ trong cái toàn cầu huyền ảo của ông. Bài thơ là sự phối hợp, giao hòa giữa tình và cảnh bộc lộ những nét đẹp, những nét trong sáng gắn với quê hương Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê quốc gia qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một thi sĩ đa tình đa cảm. Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những thắc mắc tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một quang cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đó là nỗi lòng của chính thi sĩ: nỗi đớn đau trước sự đơn chiếc, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đớn đau của ý thức và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn quyết tâm vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc.
Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng sốt và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đớn đau ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt thế cục luôn thổn thức tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã biến những nỗi đau thương, xấu số của đời mình thành những đóa hoa thơ, mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là “Đây thôn vĩ dạ’’.
—–
Với những nét chung được chỉ rõ cùng với những bài văn mẫu đầy đủ, hay nhất cho đề bài tìm hiểu nỗi khát khao Tình đời và tình người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử, chúc những em xây dựng được bài văn mẫu cho riêng mình thật hay và ý nghĩa.
Tình đời và tình người trong Đây thôn Vĩ Dạ không thể hiện lộ liễu qua từng lời thơ mà ẩn sâu trong bức tranh tâm trạng của tác giả, Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung tổng hợp và soạn những gợi ý cho những em học sinh làm bài tốt nhất
Bản quyền bài viết thuộc THPTSocTrang.Edu.Vn. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: cmm.edu.vn
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục