TOP 200 truyện song ngữ là tài liệu vô cùng hữu ích, bao gồm một bên là tiếng Anh, một bên là tiếng Việt, kể về những câu chuyện cổ tích rất hay và thú vị của các nước trên thế giới.
Truyện tiếng Anh song ngữ là những câu chuyện cổ tích của các nước được kể ra có tính chất giải trí nên làm cho các bé cảm thấy thoải mái và thư giãn khi đọc chúng. Ngoài ra, chúng cũng gửi gắm những thông điệp ý nghĩa ở trong đó. Đọc truyện sẽ làm các bé hào hứng và có tinh thần tốt để học tiếng Anh qua cách rất tự nhiên và độc đáo này. Đồng thời với 200 truyện song ngữ này còn giúp các bé hỗ trợ tiếng mẹ đẻ hình thành và phát triển tốt nếu được giới thiệu sớm và bằng phương pháp phù hợp. Vậy dưới đây là TOP 200 truyện song ngữ hay nhất, mời các bạn cùng đón đọc nhé.
Bạn đang xem bài: 200 truyện ngắn song ngữ Anh – Việt
Never fight over trifles
Never fight over trifles
It was high summer. A traveller hired a donkey and set out on a journey. The owner of the donkey was following behind to drive the beast. At mid-day, they decided to take rest for some time but couldn’t find any shady place around. So, the traveler decided to rest in the shade of the donkey. But the owner didn’t let him do so as he himself wanted to sit in its shadow. The traveller said, “How can you refuse me the shadow? I have paid you money after all.” “But you have paid for the ride, not for resting in his shadow”, retorted the owner. So, an argument followed between the two. When the donkey saw that the owner and the hirer were busy fighting, he took to his heels and was soon out of sight.
Đừng bao giờ tranh đấu vì những chuyện vặt
Một mùa hè nóng bức, một người bắt đầu cuộc hành trình của họ với con lừa vừa thuê. Chủ con lừa đi theo sau để điều khiển nó. Đến giữa ngày, họ quyết định nghỉ một lúc nhưng đôi lúc lại không tài nào tìm được nơi râm ráo thích hợp, vì thế cậu thuê con lười đề nghị nghỉ dưới bóng con lừa. Nhưng chủ của nó không để ông ta làm thế vì bản thân ông chỉ muốn mình ngồi trong đấy. “Sao lại không cho tôi nghỉ chung trong bóng của nó? Tôi trả tiền trước đó rồi mà!”, Ông ta cằn nhằn. “Ông chỉ trả tiền để lái nó thôi, không có vụ nghỉ trong bóng của nó”, tên chủ đáp lại. Và một cuộc chiến bằng mồm diễn ra suốt hành trình của họ. Con lừa trông thấy rằng người chủ và ông hành khách có vẻ bận rộn cho cuộc chiến đó, nó liền ngồi dậy và biến đi mất tăm.
Better bent than broken
Better bent than broken
Once a huge oak tree stood on the bank of a river. It was well nourished by the water of the river. Naturally, it was very strong and had a thick stem. Just nearby, grew some reeds with thin but flexible stems. They stood almost half in water and had flourished well too. One day, strong winds blew. The tree, though huge and strong, broke from the middle and was thrown across the stream just among the reeds. On the other hand, the tree was very surprised to see that the reeds suffered no harm at all. The oak could not make out the reason of the safety of the reeds and asked them, “How is it that, you being frail and slender, managed to face the gale without any harm. But I, strong enough, have been broken.” The reeds replied, “You were proud of your strength and refused to bend. So, you broke while we bowed and yielded to the gale and were spared.”
Dẻo cong hơn rắn giòn
Một cây sồi lớn mọc trên bờ của một dòng sông. Nó được nuôi dưỡng tốt nhờ nước của dòng sông. Lẽ tự nhiên, nó rất khỏe mạnh và có cành lá rậm rạp. Ở dần đó, mọc vài đám sậy với cành lá mỏng nhưng mềm dẻo. Chúng mọc gần hết một nửa trong nước và cũng mọc sum suê. Một ngày nọ, một cơn gió mạnh thổi đến. Cây cối, dù to lớn và khỏe mạnh, đều bị gãy nửa và bị cuốn vào dòng suối trong những đám sậy. Mặt khác, cây cối đã rất ngạc nhiên khi nhìn thấy những đám sậy không phải chịu một tổn hại nào. Cây sồi không thể đưa ra lý do về sự an toàn của những cây sậy và đã hỏi chúng: ” Bạn đã làm thế nào vậy trong khi bạn yếu ớt và mảnh khảnh lại xoay sở để đối mặt với gió mạnh mà không bị thiệt hại gì. Còn tôi, dù đủ khỏe mạnh, mà vẫn bị gãy”. Lau sậy trả lời: “Bạn tự hào về sức mạnh của mình và từ chối cúi mình. Vì vậy, bạn đã gãy đổ trong khi chúng tôi cúi mình đầu hàng cơn gió mạnh và đã được tha”.
A coward can’t teach courage
A coward can’t teach courage
Once there lived a hind in a forest. She had a son who had grown very young and strong. She was very happy to see his stout body and branched strong horns and thought, “stags have powerful horns, why should they be afraid of hounds, wolves then? It’s sheer cowardice. I would never
like my son to do it at all.” After some time, the hind’s son came there. The hind wanted to teach him to be courageous. She said, “Son! You have a stout body and strong horns. So, you must not run away from hounds and wolves. Don’t be a coward.” “Ok, mom; I won’t”, said the stag. Just then the mother and the son heard the bark of the hounds. The hind got ready to run away when her son asked her to stay on. She said, “You may, but I have no horns.” Saying so, she ran as fast as she could. The mother herself was a coward and was teaching courage to her son. What a satire!
Kẻ nhút nhát không thể dạy sự dũng cảm
Một thuở nọ có một con hươu mẹ ở một khu rừng. Hươu mẹ này có một chú hươu con đực đang lớn mạnh mỗi ngày. Cô ấy rất vui vì đứa con mình có những bắp săn chắc và những nhánh sừng khỏe mạnh và cô ấy suy nghĩ: “loài hươu với những chiếc sừng mạnh mẽ, tại sao chúng ta lại sợ những con chó sẵn và chó sói nhỉ? Đó là một điều tủi nhục. Tôi không bao giờ muốn đứa con tôi trở nên như vậy”. Sau một lúc, hươu con đến. Hươu mẹ muốn dạy hươu con trở nên nên dũng cảm. Hươu mẹ nói:”Con trai! Con có một thân thể mập mạp và bộ sừng khỏe. Vì vậy, con không phải bỏ chạy khỏi chó săn và chó sói. Đừng là một kẻ nhát gan.” “Vâng, mẹ; con sẽ không nhút nhát” hươu con nói. Vừa đúng lúc người mẹ và người con nghe tiếng sủa của chó sói. Con hươu mẹ sẵn sàng chạy thoát khi hươu con yêu cầu mẹ ở lại. Người mẹ nói, “con có thể, nhưng mẹ không có những cái sừng”. Nói xong, hươu mẹ chạy nhanh nhất có thể. Bản thân hươu mẹ là một kẻ nhút nhát và lại dạy hươu con sự dũng cảm. Thật mỉa mai!
Belling the cat
Belling the cat
Long ago, the mice had a general council to consider what measures they could take to outwit their common enemy, the Cat. Some said this, and some said that; but at last a young mouse got up and said he had a proposal to make, which he thought would meet the case. “You will all agree,” said he, “that our chief danger consists in the sly and treacherous manner in which the enemy approaches us. Now, if we could receive some signal of her approach, we could easily escape from her.” “I venture, therefore, to propose that a small bell be procured, and attached by a ribbon round the neck of the Cat. By this means we should always know when she was about, and could easily retire while she was in the neighbourhood. “This proposal met with general applause, until an old mouse got up and said: “That is all very well, but who is to bell the Cat?” The mice looked at one another and nobody spoke. Then the old mouse said: “IT IS EASY TO PROPOSE IMPOSSIBLE REMEDIES.”
Đeo lục lạc cho mèo
Đã từ lâu lắm, loài chuột đã tổ chức một hội nghị chung để tính toán xem ở giới hạn nào chúng có thể đối phó với kẻ thù chung, loài mèo. Một số con nói thế này, một số thì bảo thế nọ, cuối cùng có một con chuột nhỏ đứng dậy và hắn đã đưa ra một đề xuất cần làm, mà theo nó đề nghị cần được đáp ứng. “Mọi người đều đồng ý thế này”, nó nói, “nguy hiểm lớn nhất của chúng ta chính là yếu tố ranh mãnh và xảo trá khi kẻ thù tiếp cận chúng ta. Giờ đây, giá như chúng ta có thể nắm bắt được tín hiệu tiếp cận của kẻ thù, chúng ta có thể dễ dàng tẩu thoát.” “Chính vì vậy, tôi xin mạo muội đề nghị kiếm một cái lục lạc nhỏ, và đính với một cái nơ quanh cổ của con mèo. Bằng giải pháp này, lúc nào chúng ta cũng biết được kẻ thù ở đâu và dễ dàng rút lui khi hắn đang ở gần.” Lời đề nghị này được mọi người tán thán, đến khi một con chuột già đứng dậy và nói: “Đề nghị đấy tốt thôi, nhưng ai sẽ đeo lục lạc cho mèo?” Bọn chuột nhìn nhau từng con một và không ai nói lời nào. Rồi lão chuột nói: “THẬT DỄ DÀNG KHI ĐƯA RA GIẢI PHÁP BẤT KHẢ THI”
The rat and the elephant
The rat and the elephant
A Rat was traveling along the King’s highway. He was a very proud Rat, considering his small size and the bad reputation all Rats have. As Mr. Rat walked along—he kept mostly to the ditc —he noticed a great commotion up the road, and soon a grand procession came in view. It was the King and his retinue. The King rode on a huge Elephant adorned with the most gorgeous trappings. With the King in his luxurious howdah were the royal Dog and Cat. A great crowd of people followed the procession. They were so taken up with admiration of the Elephant, that the Rat was not noticed. His pride was hurt. “What fools!” he cried. “Look at me, and you will soon forget that clumsy Elephant! Is it his great size that makes your eyes pop out? Or is it his wrinkled hide? Why, I have eyes and ears and as many legs as he! I am of just as much importance, and” But just then the royal Cat spied him, and the next instant, the Rat knew he was not quite so important as an Elephant. A resemblance to the great in some things does not make us great.
Con chuột và con voi
Một con chuột đang đi dọc trên con
đường lớn của nhà vua. Nó rất tự hào về ngoại hình nhỏ bé của mình và tiếng tăm xấu xa tất cả bọn chuột đều có. Khi chuột đi nó đi ngang qua nhiều vũng nước. Bỗng nó thấy rung động mạnh trên đường và ngay sau đó một đám diễu hành xuất hiện trước mắt. Đó là nhà vua và đoàn tùy tùng của người. Nhà vua cưỡi trên lưng một con voi rất to được trang hoàng với bộ đồ lộng lẫy. Cùng với nhà vua trên chiếc bành voi sang trọng là con mèo và con chó quý tộc. Đám đông người theo sau đoàn diễu
hành. Họ có vẻ rất coi trọng con voi và con chuột thì không được chú ý tới. Sự tự hào của nó bị tổn thương.
Thật ngu ngốc, nó kêu khóc. “nhìn tôi
đây, và anh sẽ sớm quên con voi vụng về đó! Có phải là vì ngoại hình to của nó đã khiến con mắt ngài để ý tới? Hay là làn da nhăn nheo của nó? Tại sao, tôi cũng có tai, có mắt và cũng có nhiều chân như nó! và tôi cũng quan trọng chứ. Nhưng ngay sau đó con mèo quý tộc đã đánh hơi được con chuột, và chỉ trong chốc lát con chuột biết rằng nó không quan trọng bằng con voi.
Cùng có chung những điểm tương đồng nhưng chúng ta không giống nhau.
The jay and the peacock
The jay and the peacock
A Jay venturing into a yard where
Peacocks used to walk, found there a
number of feathers which had fallen from
the Peacocks when they were moulting.
He tied them all to his tail and strutted
down towards the Peacocks. When he
came near them they soon discovered the cheat, and strid-ing up to him pecked athim and plucked away his borrowed
plumes. So the Jay could do no better than go back to the other Jays, who had watched his behaviour from a distance; but they were equally annoyed with him, and told him: ‘It is not only fine feathers that make fine birds.’
Chim giẻ cùi và con công
Có một chàng chim giẻ cùi bạo gan đi vào một khoảnh sân phơi những chú công thường hay đi tản bộ, và nhận thấy có khá nhiều lông rụng ra từ những chú công khi chúng đang độ thay áo. Chằng gắn hết chúng vào sau đuôi rồi nghênh ngang đi giễu vòng thẳng về hướng những chú Công. Rồi lũ Công cũng sớm phát hiện ra kẻ giả mạo khi chàng tiến đến ngày càng gần, chúng sải bước về phía chàng, mổ lia lịa vào chàng rồi ngoạm nhổ hết tùm long mà chàng vay mượn. Thế là chàng chim giẻ cùi không còn cách nào khác, đành quay trở lại với thế giới của những chú chim giẻ cùi, những kẻ đã quan sát hành động của chàng từ nãy giờ ở đằng xa; nhưng chúng tỏ ra khá khó chịu với chàng, chúng bảo chàng: ‘Chẳng phải cứ có lông vũ đẹp là thành chim đẹp được đâu.’
Cost of the bell
Everyday, a shepherd used to take his cows for grazing. He had tied a bell to each of the cows he had so that he could know where they were grazing. The best cow had a costly bell tied around her neck. One day, a stranger was going through the pasture. Seeing the costly bell around the cow’s neck, he went to the shepherd and asked if he would sell the bell. Out of greed, the shepherd sold the bell. But now he could not know where his best cow was grazing. On getting an opportunity, the stranger
stole the cow. Thus, the shepherd lost his best cow just because of his greed.
Mỗi ngày, người chăn cừu dẫn bò của anh ta đi ăn cỏ. Anh gắn chuông cho mỗi con bò để biết được chúng đang ở đâu. Con bò tốt nhất được đeo một cái chuông đắt nhất quanh cổ. Một ngày nọ, một người lạ đi qua đồng cỏ. Nhìn thấy cái chuông có giá trị trên cổ con bò, anh ta đi đến chỗ người chăn cừu và đề nghị ông ta bán cái chuông. Vì lòng tham, người chăn cừu đã bán cái chuông. Nhưng bây giờ ông ta lại không biết con bò của ông ấy đang ở đâu. Có được cơ hội, người lạ đã ăn cắp con bò. Vì vậy người chăn cừu đã mất con bò tốt nhất chỉ vì lòng tham của mình.
The mischievous dog
There was once a Dog who was so ill natured and mischievous that his Master had to fasten a heavy wooden clog about his neck to keep him from annoying visitors and neighbors. But the Dog seemed to be very proud of the clog and dragged it about noisily as if he wished to attract everybody’s attention. He was not able to impress anyone. “You would be wiser,” said an old acquaintance, “to keep quietly out of sight with that clog. Do you want everybody to know what a disgraceful and ill-natured Dog you are?” Notoriety is not fame.
Có lần chú chó quá xấu tính và tinh nghịch đến nỗi chủ của nó phải đeo cho nó một cái còng cổ rất nặng để ngăn nó không làm phiền du khách và hàng xóm. Nhưng dường như chú chó rất tự hào về cái còng và kéo nó đi rất ồn ào như muốn gây chú ý đến mọi người. Nhưng nó không gây ấn tượng được với ai. “Bạn phải khôn ngoan lên”, một người quen cũ nói, “hãy giữ yên lặng khi ở ngoài với cái còng. Bạn muốn mọi người biết bạn là một chú chó đáng hổ thẹn và xấu tính sao?” Tai tiếng không phải là sự nổi tiếng.
Never tellalie
On his deathbed, a father advised his son to always speak the truth. The son promised that he would never tell a lie. One day, while going to the city through a forest, he got surrounded by some robbers. One of them asked, “What do you have?” The boy answered, “I have fifty rupees.” They searched for him but couldn’t find anything. When they were about to go, the boy called out, “I am not telling a lie. See this fifty rupee note which I had hidden in my shirt.” The leader of the robbers felt pleased at the truthfulness of the boy, gave him hundred rupees as reward and went away.
Trong giờ phút cuối đời của mình, người cha đã khuyên con trai ông ấy phải luôn nói thật. Người con hứa rằng anh ấy sẽ không bao giờ nói dối. Một ngày nọ, trong khi đi đến thành phố thông qua khu rừng, cậu bé bị bao quanh bởi những tên cướp. Một trong số chúng hỏi “mày có cái gì?” Anh ta trả lời: “Tôi có 50 đồng rupi” Họ lục soát người anh ta nhưng không tìm thấy bất kỳ thứ gì. Khi họ chuẩn bị bỏ đi, cậu bé gọi họ lại: ” Tôi không nói dối. Nhìn này 50 đồng rupi tôi giấu trong áo này”. Thủ lĩnh băng cướp cảm thấy hài lòng về tính thật thà của cậu bé, ông ta cho cậu bé 100 đồng rupi như một phần thưởng và bỏ đi
The crow and the pitcher
Tiếng Anh
In a spell of dry weather, when the Birds could find very little to drink, a thirsty. Crow found a pitcher with a little water in it. But the pitcher was high and had a narrow neck, and no matter how he tried, the Crow could not reach the water. The poor thing felt as if he must die of thirst. Then an idea came to him. Picking up some small pebbles, he dropped them into the pitcher one by one. With each pebble the water rose a little higher until at last it was near enough so he could drink. “In a pinch a good use of our wits may help us out.
Tiếng Việt
Vào một đợt khô hạn, khi các loài chim chỉ có thể tìm thấy rất ít nước để uống,một con quạ khát nước đã tìm thấy một cái bình trong đó có một ít nước. Nhưng cái bình thì cao và có cái cổ hẹp, và dù cho quạ ta có cố gắng sao đi chăng nữa thì nó cũng không thể chạm được tới nước trong bình. Nó cảm nhận một điều tệ hại nếu nó phải chết vì khát. Sau đó, một ý tưởng thoáng lên trong nó. Nó nhặt lên vài viên sỏi nhỏ và thả từng viên một vài cáu bình chứa nước. Cứ mỗi viên sỏi thì nước lại dang lên cao hơn cho đến cuối cùng đã gần đủ để nên nó có thể uống. “Trong một trường hợp cấp thiết thì sự bình tĩnh sẽ giúp chúng ta vượt qua những sự cố.”
The two crabs
Tiếng Anh
One fine day two Crabs came out from their home to take a stroll on the sand. “Child,” said the mother, “you are walking very ungracefully. You should accustom yourself to walking straight forward without twisting from side to side.” “Pray, mother,” said the young one, “do but set the example yourself, and I will follow you.” “Examples is the best precept”
Tiếng Việt
Một ngày đẹp trời hai con cua đi ra khỏi nhà để đi dạo trên cát. “Này con gái” cua mẹ nói, “Con đang đi rất thiếu duyên dáng đấy. Con nên tập dần cho quen để đi thẳng hướng đừng đi ngang như thế”. “Mẹ hãy thử trước” cua con nói, “Làm một ví dụ từ chính mẹ và con sẽ làm theo” “Ví dụ là lời dạy bảo tốt nhất.”
The Goose with the Golden Egg
Tiếng Anh
One day a countryman going to the nest of his Goose found there an egg all yellow and glittering. When he took it up it was as heavy as lead and he was going to throw it away, because
he thought a trick had been played upon him. But he took it home on second thoughts, and soon found to his delight that it was an egg of pure gold. Every morning the same thing occurred, and he soon becam rich by selling his eggs. As he grew rich he grew greedy; and thinking to get at once all the gold the Goose could give, he killed it and opened it only to find, nothing. Greed often overreaches itself.
Tiếng Việt
Một ngày nọ, một người nông dân tìm
đến ổ của con ngỗng và thấy một quả
trứng vàng sáng bóng. Ông cầm quả trứng lên xem thì thấy nó nặng như chì và quẳng nó đi vì ông nghĩ đây là một trò đùa dành cho mình. Nhưng nghĩ lại ông bèn mang nó về nhà và vui sướng khi nhận ra rằng đây là quả trứng bằng vàng nguyên chất. Mỗi sáng điều tương tự này đều xảy ra và ông ta sớm trở nên giàu có bằng việc bán những quả trứng vàng. Khi càng giàu có thì lòng tham cũng lớn dần lên, ông nghĩ cách để có tất cả trứng vàng của con ngỗng trong một lần, ông giết con ngỗng, mổ bụng nó để tìm trứng vàng nhưng không có gì trong đó cả. Tham quá thì thâm
The Bear and the Bees
Tiếng Anh
A Bear came across a log where a Swarm of Bees had nested to make their honey. As he snooped around, a single little Bee flew out of the log to protect the swarm. Knowing that the Bear would eat all the honey, the little bee stung him sharply on the nose and flew back into the log. This flew the Bear into an angry rage. He swatted at the log with his big claws, determined to destroy the nest of bees inside. This only alerted the bees and quick as a wink, the entire swarm of bees flew out of the log and began to sting the bear from head to heel. The Bear saved himself by running to and diving into the nearest pond. “It is better to bear a single injury in silence than to bring about a thousand by reacting in anger.”
Tiếng Việt
Ngày nọ, một con Gấu đi qua chỗ có khúc gỗ nơi Bầy Ong xây tổ làm mật. Chú tò mò nhìn ngó xung quanh thì một con ong bay ra để bảo vệ đàn. Biết Gấu sẽ ăn hết mật, Con Ong bé nhỏ đốt thật mạnh vào mũi chú rồi bay vào trong khúc gỗ. Gấu tức giận như điên vì bị đốt đau. Chú nhất định phải tiêu diệt tổ ong bên trong, nên dùng những móng vuốt to của mình đập mạnh vào khúc gỗ. Bầy Ong bị động và bay ra rất nhanh, chỉ trong nháy mắt, chúng bắt đầu đốt Gấu khắp từ đầu tới chân. Gấu ta chỉ còn cách co giò chạy thoát thân rồi nhảy “ùm” xuống cái ao gần nhất. “Lặng lẽ chịu đựng chỉ một nỗi đau còn hơn là chịu cả ngàn thương tổn khi phản ứng lại trong cơn giận.”
Friendship is a strong weapon
Tiếng Anh
It was hot summer. A lion went to a pool to drink water. Just then a pig also came there to quench his thirst. Both of them wanted to drink first. They looked at each other with blood-shot eyes and attacked each other with so much anger that soon they started bleeding. Feeling tired, both stopped for a while to be fresh. Suddenly, they heard the screams of vultures. They saw that a large number of vultures were looking at them with longing eyes. In no time, both the beasts understood that the vultures were waiting for one of them to be killed by the other so that they might feed on his dead body. So both of them became friends, quenched their thirst and went away. Thus, their friendship saved their lives.
Tiếng Việt
Đó là vào mùa hè nóng nực.Một con sư tử đi đến hồ nước để uống nước.Vừa lúc đó, một con heo cũng đến để làm dịu cơn khát của mình. Cả hai đều muốn uống đầu tiên.Chúng nhìn nhau với ánh mắt hình viên đạn và tấn công đối phương rất dữ dội chẳng mấy chốc cả hai đều đổ máu. Cảm thấy mệt mỏi,cả hai ngừng lại một lúc để nghỉ.Đột nhiên , chúng nghe thây tiếng la hét của kền kền. Chúng nhìn thấy một bầy lớn kền kền đang nhìn chúng với đôi mắt thèm khát. Ngay khoảnh khắc đó,hai con thú đã hiểu ra rằng bọn kền kền đang chờ một trong hai bị giết chết bởi con còn lại để chúng có thể ăn thịt con đã chết. Vì vậy cả hai con thú đã trở thành bạn,dập tắt cơn thèm khát của chúng và bay đi Cuối cùng, tình bạn của cả hai đã cứu sống họ.
The owl and the grasshopper
Tiếng Anh
The Owl always takes her sleep during the day. Then after sundown, when the rosy light fades from the sky and the shadows rise slowly through the wood, out she comes ruffling and blinking from the old hollow tree. Now her weird “hoo-hoo-hoo-oo-oo” echoes through the quiet wood, and she begins her hunt for the bugs and beetles, frogs and mice she likes so well to eat. Now there was a certain old Owl who had become very cross and hard to please as she grew older, especially if anything disturbed her daily slumbers. One warm summer afternoon as she dozed away in her den in the old oak tree, a Grasshopper nearby began a joyous but very raspy song. Out popped the old Owl’s head from the opening in the tree that served her both for door and for window. “Get away from here, sir,” she said to the Grasshopper. “Have you no manners? You should at least respect my age and leave me to sleep in quiet!” But the Grasshopper answered saucily that he had as much right to his place in the sun as the Owl had to her place in the old oak.Then he struck up a louder and still more rasping tune. The wise old Owl knew quite well that it would do no good to argue with the Grasshopper, nor with anybody else for that matter. Besides, her eyes were not sharp enough by day to permit her to punish the Grasshopper as he deserved. So she laid aside all hard words and spoke very kindly to him. “Well sir,” she said, “if I must stay awake, I am going to settle right down to enjoy your singing. Now that I think of it, I have a wonderful wine here, sent me from Olympus, of which I am told Apollo drinks before he sings to the high gods. Please come up and taste this delicious drink with me. I know it will make you sing like Apollo himself.” The foolish Grasshopper was taken in by the Owl’s flattering words. Up he jumped to the Owl’s den, but as soon as he was near enough so the old Owl could see him clearly, she pounced upon him and ate him up. Flattery is not a proof of true admiration. Do not let flattery throw you off your guard against an enemy.
Tiếng Việt
Chị chim Cú luôn ngủ vào ban ngày. Sau đó, sau khi mặt trời lặn, khi ánh sáng hồng từ trên trời nhạt đi và bóng tối chầm chậm tràn đến khu rừng, cô đi ra từ gốc cây rỗng già, xù bộ lông và nhấp nháy mắt . Cô kêu lên thật huyền bí “hoo-hoo-hoo-oo-oo” tiếng kêu vang dội qua khu rừng yên tĩnh, và cô bắt đầu săn đuổi các con côn trùng và bọ cánh cứng, ếch và chuột nhắt, cô ấy rất thích ăn chúng. Bây giờ chim Cú đã phần nào già đi, trở nên rất cáu gắt và khó để làm hài lòng, đặc biệt là bất cứ điều gì quấy rầy đến giấc ngủ hàng ngày của cô. Một buổi chiều mùa hè ấm áp khi cô ngủ gà gật trong cái tổ của mình trên cây sồi già, một chú Châu chấu gần đó bắt đầu một bài hát vui tươi nhưng rất gay gắt. Cô chim cú già ló đầu qua lỗ hổng của cái tổ, nơi vừa là cửa vừa là cửa số. “Hãy tránh xa nơi này, thưa ngài” cô nói với Châu chấu. “Bạn không biết cách cư xử ư? Bạn ít nhất phải tôn trọng tuổi tác của tôi và để tôi ngủ trong yên tĩnh” Nhưng Châu chấu trả lời một cách hỗn xược rằng nó đã ở đúng vị trí của mình trong ánh mặt trời giống như chim Cú đã có nhà của cô ấy ở cây sồi già. Sau nó bắt đầu cất tiếng kêu to hơn và gay gắt hơn nữa. Chim Cú già khôn ngoan biết rất rõ rằng, nó sẽ không thể tranh luận với với Châu chấu, cũng như với ai khác về vấn đề này. Bên cạnh đó, đôi mắt của cô không đủ bởi sắc bén vào ban ngày để cho phép cô để trừng phạt Châu chấu như nó xứng đáng phải chịu. Vì vậy, cô đã bỏ qua tất cả các từ nặng lời và đã nói chuyện rất tử tế với anh ta. “Vâng thưa ngài” cô nói, “Nếu tôi vẫn tỉnh táo, tôi sẽ ổn định chỗ của mình để thưởng thức giọng hát anh. Bây giờ tôi đang nghĩ về nó, tôi có một loại rượu vang tuyệt vời ở đây, Olympus đã gửi cho tôi, tôi đã nói Apollo uống trước khi anh ấy hát cho các vị thần tối cao. Hãy đến và thưởng thức đồ uống thơm ngon này với tôi. Tôi chắc là nó sẽ làm cho bạn hát hay như Apollo.” Châu chấu ngu ngốc đã rơi vào những lời tâng bốc của chim Cú. Nó nhảy vào tổ của chim Cú, nhưng ngay sau khi nó đã đến đủ gần để chim Cú già có thể nhìn thấy nó một cách rõ ràng, cô vồ lấy anh ta và nuốt chửng. Tâng bốc không phải là bằng chứng của sự ngưỡng mộ thật. Đừng để sự tâng bốc làm bạn mất cảnh giác trong việc chống lại kẻ địch
The Lion and The Gnat
Tiếng Anh
“Away with you, vile insect!” said a Lion angrily to a Gnat that was buzzing around his head. But the Gnat was not in the least disturbed.
“Do you think,” he said spitefully to the Lion, “that I am afraid of you because they call you king?”
The next instant he flew at the Lion and stung him sharply on the nose. Mad with rage, the Lion struck fiercely at the Gnat, but only succeeded in tearing himself with his claws.
Again and again the Gnat stung the Lion, who now was roaring terribly. At last, worn out with rage and covered with wounds that his own teeth and claws had made, the Lion gave up the fight.
The Gnat buzzed away to tell the whole world about his victory, but instead he flew straight into a spider’s web. And there, he who had defeated the King of beasts came to a miserable end, the prey of a little spider.
Tiếng Việt
“Hãy cút khỏi đây đi, đồ côn trùng thấp hèn kia!” Con sư tử giận dữ nói với con muỗi đang bay vo ve quanh đầu nó nhưng muỗi ta không hề cảm thấy nao núng trước lời nói miệt thị ấy của con sư tử.
Chú muỗi hằn học đáp lại: “Ông nghĩ là tôi sợ ông vì ông được người ta tôn vinh là vua à?”
Sau đó, con côn trùng đậu trên con sư tử và cắn ngày vào mũi của nó. Con sư tử nổi trận lôi đình, dập một cái thật mạnh vào con muỗi nhưng lại trúng ngay mặt mình.
Cứ thế, con muỗi cắn con sư tử nhiều lần trong khi con sư tử đang gầm rú lên một cách thảm thiết. Cuối cùng, con sư tử kiệt sức với đầy viết thương trên mặt mà nó tự gây ra cho mình, nó đành phải chịu thua.
Con muỗi bay đi định khoe với mọi người về chiến thắng của mình nhưng sau đó nó lại bay ngay vào ổ nhện. Và ở đó, kẻ vừa mới đánh bại chúa tể cúa sơn lâm đã gặp một kết cục thảm hại đó là trở thành con mồi của một con nhện nhỏ xíu
The Ass’s Brains
Tiếng Anh
The Lion and the Fox went hunting together. The Lion, on the advice of the Fox, sent a message to the Ass, proposing to make an alliance between their two families.
The Ass came to the place of meeting, overjoyed at the prospect of a royal alliance.
But when he came there the Lion simply pounced on the Ass, and said to the Fox: “Here is our dinner for today. Watch you here while I go and have a nap.
Woe betide you if you touch my prey.” The Lion went away and the Fox waited; but finding that his master did not return, ventured to take out the brains of the Ass and ate them up.
When the Lion came back he soon noticed the absence of the brains, and asked the Fox in a terrible voice: “What have you done with the brains?”
“Brains, your Majesty! It had none, or it would never have fallen into your trap.”
Tiếng Việt
Sư tử và cáo thường đi săn cùng nhau. Sư tử nhờ cáo gửi đi một thông điệp đến Lừa, để đề xuất lập nên một liên minh giữa hai gia đình.
Lừa đến nơi diễn ra cuộc gặp mặt với vẻ vui mừng trước triển vọng của liên minh hoàng gia này.
Nhưng, khi Lừa đến thì Sư tử lạnh lùng vồ lấy Lừa và nói với Cáo: ” Đây là bữa tối của chúng ta, mi ở đây trong khi ta đi nằm nghỉ một tý.
Ngươi là tên khốn nếu dám động vào con mồi của ta ” Sư tử bước đi và Cáo ngồi đợi; đến khi không thấy Sư tử trở về, Cáo đánh liều lấy bộ não của Lừa và ăn nó.
Khi Sư tử trở về và phát hiện thiếu bộ não của Lừa bèn hỏi Cáo bằng một giọng kinh khủng: “Mày đã làm gì với bộ não?”
“Bộ não, Vẻ uy nghi của ngài! Nó không có hoặc đã bị mất khi sập bẫy của ngài rồi.”
The Mercury and the Woodman
Tiếng Anh
The Woodman was in despair. The axe was all he possessed with which to make a living, and he had not money enough to buy a new one. As he stood wringing his hands and weeping, the god Mercury suddenly appeared and asked what the trouble was. The Woodman told what had happened, and straightway the kind Mercury dived into the pool.
When he came up again he held a wonderful golden axe.
“Is this your axe?” Mercury asked the Woodman.
“No,” answered the honest Woodman, “that is not my axe.”
Mercury laid the golden axe on the bank and sprang back into the pool. This time he brought up an axe of silver, but the Woodman declared again that his axe was just an ordinary one with a wooden handle. Mercury dived down for the third time, and when he came up again he had the very axe that had been lost.
The poor Woodman was very glad that his axe had been found and could not thank the kind god enough. Mercury was greatly pleased with the Woodman’s honesty.
“I admire your honesty,” he said, “and as a reward you may have all three axes, the gold and the silver as well as your own.”
The happy Woodman returned to his home with his treasures, and soon the story of his good fortune was known to everybody in the village. Now there were several Woodmen in the village who believed that they could easily win the same good fortune.
They hurried out into the woods, one here, one there, and hiding their axes in the bushes, pretended they had lost them. Then they wept and wailed and called on Mercury to help them.
And indeed, Mercury did appear, first to this one, then to that. To each one he showed an axe of gold, and each one eagerly claimed it to be the one he had lost. But Mercury did not give them the golden axe. Oh no!
Instead he gave them each a hard whack over the head with it and sent them home.
And when they returned next day to look for their own axes, they were nowhere to be found.
Tiếng Việt
Có một gã tiều phu đang tuyệt vọng. Có một cái rìu là tất cả tài sản có được để kiếm sống, anh ấy không có đủ tiền để mua một cái mới. Anh ấy đứng khóc ướt sũng quần áo, vua thủy tề bất ngờ xuất hiện và hỏi tại sao lại khóc. Người tiều phu nói chuyện đã xảy ra và ngay lập tức thủy tề biến xuống hồ.
Khi ông ấy trở lại đem theo một cái rìu vàng đẹp tuyệt.
Thủy tề hỏi người tiều phu “Có phải rìu của con không?”
Người tiều phu trung thực trả lời “Không, đó không phải cái rìu của con”
Thủy tề ném cái rìu xuống hồ và biến mất xuống hồ. Sau đó ông ấy mang lên một cái rìu bạc, nhưng người tiều phu vẫn thừa nhận cái rìu của anh ấy rất bình thường có cán bằng gỗ.
Thủy tề lặn xuống lần thứ ba, và khi trở lên ông ấy cầm cái rìu đã bị mất trước đó.
Người tiều phu nghèo khó rất vui vì tìm lại cái rìu và không biết cám ơn ông ấy sao cho đủ. Thủy tề rất hài lòng với lòng trung thực của người tiều phu.
Ông ấy nói “Ta rất ngưỡng mộ lòng trung thực của con và phần thưởng là cả ba cây rìu, rìu vàng rìu bạc đều là của con”
Người tiều phu rất vui trở về nhà với những báu vật của mình, và câu chuyện về vận may của anh ấy trong làng ai cũng biết. Có một vài người tiều phu khác trong làng tin rằng họ có thể dễ dàng có được may mắn giống như vậy.
Họ vội vàng đi vào rừng, một người chỗ này, một người chỗ kia và giấu rìu của họ trong các bụi rậm, giả vờ họ làm mất chúng. Sau đó họ khóc và than vãn cầu xin Vua Thủy tề giúp họ.
Và thực vậy, thủy tề xuất hiện, đầu tiên cái này, sau đó cái kia, cứ mỗi lần ông ấy đưa một cái rìu vàng ra là họ tha thiết xác nhận nó là cái họ đã mất. Nhưng thủy tề không đưa cho họ cái rìu vàng. Oh Không! Thay vào đó ông ấy đánh mỗi người cái mạnh vào đầu và đuổi họ về nhà.
Hôm sau họ quay lại tìm cái rìu của họ nhưng họ không biết tìm ở đâu.
…………………………
Tải tài liệu để xem thêm các mẫu truyện ngắn song ngữ khác!
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Tiếng Anh