Văn mẫu lớp 11

Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh (dàn ý – 10 mẫu)

Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh (dàn ý – 10 mẫu)

Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh (dàn ý – 10 mẫu)

Bài văn Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh gồm dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 10 bài văn phân tích mẫu hay nhất, ngắn gọn được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 11. Hi vọng với
10 bài phân tích Vào phủ Chúa Trịnh này các bạn sẽ yêu thích và viết văn hay hơn.

Đề bài: Phân tích đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh” của Lê Hữu Trác.

Bạn đang xem bài: Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh (dàn ý – 10 mẫu)

Bài giảng: Vào phủ Chúa Trịnh – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Dàn ý kenkenpham

Dàn ý – mẫu 1

1. Mở bài:

– Giới thiệu những nét tiêu biểu về cuộc đời của tác giả Lê Hữu Trác: một tác giả được biết đến không chỉ là một danh y nổi tiếng mà còn là một nhà văn, nhà thơ với những đóng góp đáng ghi nhận cho nền văn học nước nhà

– Đoạn trích Vào phủ chúa trịnh ghi lại một lần được truyền tới phủ chúa chữa bệnh cho thế tử đã trở thành một đoạn trích tiêu biểu trong cuốn Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác

2. Thân bài:

2.1. Quang cảnh và cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa

a. Quang cảnh nơi phủ chúa

– Vào phủ:

Phải qua nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”, ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác, “ai muốn ra vào phải có thẻ”

Vườn hoa: cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương

Khuôn viên: có điếm “Hậu mã quân túc trực” để chúa sai phái đi truyền lệnh

– Trong phủ:

Những nhà: “Đại đường”, “Quyền bổng”, “Gác tía” với kiệu son võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy

Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng, chén bạc

– Nội cung thế tử:

Phải qua năm sáu lần trướng gấm

Trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn là che ngang sân, xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt

→ Lộng lẫy, tráng lệ, thể hiện sự thâm nghiêm và quyền uy tột đỉnh của nhà chúa

b. Cung cách sinh hoạt

– Quyền uy: Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”

– Nhắc đến chúa và thế tử một cách cung kính: “thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến”, “hầu mạch Đông cung thế tử”, “hầu trà”…

– Khuôn phép, lễ nghi: Tác giả không được thấy mặt chúa, chỉ làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới, trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép

– Lắm kẻ hầu người hạ: Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh, Thế tử bị bệnh có đến 7, 8 thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có “mấy người đứng hầu hai bên”

⇒Cao sang, quyền uy tột đỉnh cùng với cuộc sống hưởng thụ xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa

⇒Tác giả không đồng tình với cuộc sống quá no đủ, tiện nghi nhưng thiếu khí trời và tự do

Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh

2.2. Tài năng, y đức của Lê Hữu Trác

– Có sự mâu thuẫn, giằng co:

Hiểu căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc.

Muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm, y đức, sợ phụ lòng cha ông.

– Cuối cùng phẩm chất, lương tâm của người thầy thuốc đã thắng. Ông gạt sang một bên sở thích cá nhân để làm tròn trách nhiệm⇒Là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ

– Khinh thường lợi danh, quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị nơi quê nhà

– Kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn sự chú ý của người đọc, không bỏ sót những chi tiết nhỏ tạo nên cái thần của cảnh và sự việc

2.3. Nét đặc sắc trong bút pháp kí sự của tác giả

– Quan sát tỉ mỉ (Quang cảnh phủ chúa, nơi thế tử Cán ở)

– Ghi chép chân thực

– Tả cảnh sinh động

– Tái hiện diễn biến sự việc một cách khéo léo, thu hút sự chú ý của độc giả, kể tỉ mỉ, chi tiết

3. Kết bài:

– Khái quát, nhấn mạnh nội dung và nghệ thuật đoạn trích

– Mở rộng vấn đề: Đoạn trích ghi chép một cách chân thực cho chúng ta hiểu thêm về cách sống, cách sinh hoạt của vua chúa trong quá khứ dân tộc.

Dàn ý – mẫu 2

1. Mở bài:

– Giời thiệu khái quát về Lê Hữu Trác: là thầy thuốc nổi tiếng với tấm lòng y đức.

– Giới thiệu chung về Thượng kinh kí sự và đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh.

2. Thân bài:

a. Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa Trịnh

* Quang cảnh

– Đường vào phủ: Mấy lần cửa, mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác, ai ra vào phải có thẻ. Con đường đi là những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Vườn hoa trong phủ cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương

– Trong phủ: Nhà Đại Đường, Quyển bổng, Gác tía với đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, sập thếp vàng, võng điều, mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ.

– Nội cung: 5 – 6 lần trướng gấm, trong phòng thắp nến, giữa phòng có một cái sập thếp vàng, ghế rồng, nệm gấm, đèn sáp, hương hoa ngào ngạt.

=> Ấn tượng về phủ chúa là chốn thâm nghiêm, kín cổng cao tường, vô cùng xa hoa tráng lệ. Màu sắc chủ đạo là màu đỏ, vàng, rực rỡ đua nhau lấp lánh. Cuộc sống trong phủ chúa là cuộc sống hưởng lạc của vua chúa với cung tần, mĩ nữ, cảnh đẹp, món ngon. Không khí trong phủ chúa là một không khí ngột ngạt tù đọng, chỉ thấy hơi người, phấn sáp, đèn nến, “hương hoa ngào ngạt” mà thiếu hẳn sự thanh thoát của khí trời.

* Cung cách sinh hoạt

– Đến phủ chúa phải có thánh chỉ, có thẻ mới được vào. Để dẫn người vào phủ có một tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường, lính đem cáng đón người thì chạy như ngựa lồng khiến người ngồi trong cáng dù được đón khám bệnh mà như chịu cực hình bị xóc một mẻ khổ ko nói hết.

– Phủ chúa có cả một guồng máy phục vụ đông đúc, tấp nập. Những người giữ cửa quyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi, vệ sĩ canh giữ cửa cung, quan truyền chỉ chuyên việc truyền mệnh…Các danh y của sáu cung, hai viện được tiến cử từ mọi nơi ngồi chờ đợi, túc trực ở phòng trà, các phi tần chầu chực xung quanh thánh thượng, người hầu đứng xung quanh thế tử, trong màn là che ngang sân là các cung nhân đứng xúm xít.

– Phủ chúa là nơi quyền uy tối thượng, bởi vậy tất cả những lời xưng hô, bẩm tấu đều phải rất kính cẩn, lễ phép. Trong phủ còn có lệ kị húy rất đặc biệt, kiêng nhắc đến từ thuốc,….

– Khám bệnh cho thế tử phải tuân theo một loạt các phép tắc. Bắt đầu là: “Tôi nín thở đứng chờ ở xa.” Rồi thầy thuốc phải quỳ 4 lạy theo lệnh của quan chánh đường. Lại theo lệnh quan, thầy thuốc già yếu được phép ngồi bắt mạch,…

=> Phủ chúa quả thực ko chỉ đẹp lộng lẫy, thâm nghiêm mà còn là chốn uy quyền tối thượng với cung cách sống lễ nghi, khuôn phép tạo nên không khí trang nghiêm, kính cẩn đến ngột ngạt. Tất cả những gì thường chỉ thấy xuất hiện trong cung vua thì nay xuất hiện trong phủ chúa. Chúa được gọi là Thánh thượng, lệnh chúa được gọi là Thánh chỉ,…=> uy quyền lấn lướt vua của chúa Trịnh Sâm.

– Có những chi tiết trong tác phẩm tưởng thoáng qua như ghi chép khách quan đơn thuần song lại bộc lộ một nhãn quan kí sự sâu sắc của tác giả:

+ Chi tiết về nội cung thế tử: đường đi tối om, mấy lần trướng gấm, quang cảnh xung quanh phòng: phòng rộng, giữa là sập thếp vàng,…=> Những chi tiết đó đã nói lên nguồn gốc, căn nguyên của căn bệnh, đồng thời tự nó cũng phơi bày trước mắt người đọc sự hưởng lạc, ăn chơi của phủ chúa.

+ Chi tiết thầy thuốc già yếu trước khi khám bệnh được truyền lạy thế tử để nhận lại một lời khen tặng từ một đứa trẻ năm, sáu tuổi: “Ông này lạy khéo.” Chi tiết này cùng lời chú thích về phòng trà của tác giả dường như thoáng chút hài hước. Người ta khoác cho một đứa trẻ con những danh vị, uy quyền của chốn phủ chúa, song câu ban tặng cho thấy mối quan tâm của thế tử chỉ là lạy khéo mà thôi – vì đó chỉ là một đứa trẻ và tất cả biến thành trò hề.

+ Chi tiết Thánh thượng đang ngự, xung quanh có phi tần chầu chực, có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít….tự nó phơi bày hiện thực hưởng lạc nơi phủ chúa mà ko cần thêm một lời bình luận nào.

=> Viết kí mà chân thực như viết sử.

b. Thái độ và tâm trạng tác giả khi vào phủ chúa Trịnh

* Cách nhìn, thái độ của tác giả đối với cuộc sống chốn phủ chúa:

– Thể hiện gián tiếp qua việc miêu tả, ghi chép đầy đủ, tỉ mỉ con đường vào phủ, từ lúc được lệnh truyền cho đến khi y lệnh về chờ thánh chỉ. Sự xa hoa trong bức tranh hiện thực được miêu tả tự nó phơi bày ra trước mắt người đọc.

– Thể hiện trực tiếp qua cách quan sát, lời bình, những suy nghĩ của tác giả. Từng là con quan, biết đến chốn phồn hoa, đô hội, vậy mà tác giả ko thể tưởng tượng được mức độ của sự tráng lệ, xa hoa nơi phủ chúa. Ông nhận xét: “Cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường.” Tác giả còn làm một bài thơ miêu tả sự rực rỡ sang trọng với lời khái quát cuối bài: “Cả trời Nam sang nhất là đây.” Quan Chánh Đường mời ăn cơm ở điếm Hậu mã là dịp để tác giả mục sở thị sự ăn nơi phủ chúa – toàn của ngon vật lạ, mâm vàng chén bạc lấp lánh sáng: “Tôi bây giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia.”

=> Nhận xét:

+ Ngạc nhiên trước vẻ đẹp cao sang quyền quý.

+ Thờ ơ, dửng dưng với những quyến rũ vật chất, ko đồng tình với cuộc sống no đủ nhưng thiếu khí trời và tự do

* Tâm trạng của tác giả khi kê đơn cho thế tử:

– Hiểu rõ căn bệnh của thế tử

– Bắt được bệnh rồi nhưng chữa thế nào đây lại là một cuộc đấu tranh giằng co bên trong con người Hải Thượng Lãn Ông:

+ Người thầy thuốc hiểu rõ bệnh của thế tử và tìm cách chữa từ cội nguồn gốc rễ. Nhưng nếu chữa khỏi sẽ bị danh lợi ràng buộc, ko thể về núi.

+ Ông nghĩ đến phương thuốc hòa hoãn, chữa bệnh cầm chừng vô thưởng vô phạt.

+ Song y đức, trách nhiệm nghề nghiệp, lương tâm, tấm lòng đối với ông cha và phẩm chất trung thực của người thầy thuốc đã lên tiếng => Ông dám nói thẳng và chữa thật căn bệnh của thế tử => Ông kiên quyết bảo vệ quan điểm của chính mình mặc dù ko thuận với số đông.

– Những phẩm chất tốt đẹp của Lê Hữu Trác

+ Đó là một người thầy thuốc giỏi, già dặn kinh nghiệm, có lương tâm và đức độ.

+ Một nhân cách cao đẹp, khinh thường lợi danh, yêu thích tự do.

3. Kết bài:

Cảm nhận chung về ý nghĩa của đoạn trích.

Sơ đồ kenkenpham

Phân tích đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh của Lê Hữu Trác

Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh – mẫu 1

Lê Hữu Trác (1720-1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, một đại danh y của Đại Việt. Ngoài những trước tác về y học trong bộ “Y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển, ông còn để lại nhiều thơ văn, trong đó có tác phẩm độc đáo “Thượng kinh kí sự”. Thơ văn của Lãn Ông nhẹ nhàng, hóm hỉnh, giàu tính hiện thực, phản ánh một nhân cách cao đẹp: coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn.

“Thượng kinh kí sự” ghi lại hành trình của ông lên kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” trích trong cuốn kí sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà, tài hoa.

Lần đầu, Lê Hữu Trác được vào Trịnh phủ. Ông ngẫm nghĩ và quan sát rất kĩ càng. Cửa sau vào phủ chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”.

Nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp”, người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiêm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, “truyền báo rộn ràng”.

Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi ông làm thơ nói lên sự ngạc ngạc nhiên, xúc động của mình tựa như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”:

“Cả trời Nam sang nhất là đây!

Lầu từng gác vẽ tung mây,

Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.

Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,

Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen!”

Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thơ, ta tưởng như ông đang đi thăm thú cảnh đẹp. Cách viết kí sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì thế!

Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga tráng lệ. Mỗi lâu đài, cung điện có một cái tên riêng. Đó là “Điếm Hậu mã quân túc trực” làm bên một cái hồ, cột và bao lơn “lượn vòng kiểu cách thật là xinh đẹp”, phía ngoài có những cây “lạ lùng”, có những hòn đá “kì lạ”. Nhà “Đại đường” còn gọi là “Quyển bồng”. Là cái lầu cao và rộng, “cột đều sơn son thiếp vàng” gọi là “Gác tía”, nơi Thế tử dùng “chè thuốc”, nên gọi là “Phòng trà”.

Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi “chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía là những công trình văn hoá nghệ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên, vì thế Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nhìn. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ được miêu tả còn mang ý nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê – Trịnh, cảnh giàu sang “khác hẳn người thường”.

Phương tiện đi lại của vua chúa là hai cái kiệu; đồ nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Thứ để ngồi và nằm là một cái sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ông thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.

Thế tử – con bệnh – là con Trời, mới lên 5, 6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng gấm mới đến được nơi thế tử ngồi để “lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng, sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, “mặt phấn, màu áo đỏ”. Cả một không gian “lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Thật đúng “Cả trời Nam sang nhất là đây!”

Vua chúa và bọn quan lại trong phủ chúa ăn uống như thế nào? Tại điếm “Hậu mã” lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị đại danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuy chỉ được quan Chánh đường “san mâm cơm cho ăn” nhưng “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”. Ông thầy thuốc mà danh tiếng “như sấm động” đã suy nghĩ và nói: “Tôi bây giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.

Chốn đế đô cung cấm là nơi “lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt”. Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân tới một vài cung điện, mới tiếp xúc một vài cảnh, một số ít người, nhưng ông đã nêu bật được cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa thời Lê – Trịnh. Cuộc sống đế vương được xây dựng trên mồ hôi xương máu của nhân dân, mọi thứ của ngon vật lạ do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt cho một số ít người hưởng thụ. “Cơm ngự thiện bữa nghìn quan” xưa nay đều thế! Tác giả “Thượng kinh kí sự” có một lối viết rất hiện thực và ấn tượng, mọi chi tiết được ông nói đến rất sống động.

Lê Hữu Trác vốn dòng dõi thế tộc thời Lê, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết, nhưng Trịnh phủ thì “ông mới nghe nói thôi”, lần đầu đi vào ông choáng ngợp như bước vào cảnh thần tiên:

“Quê mùa cung cấm chưa quen,

Khác gì ngư phủ Đào nguyên thuở nào!”.

Coi thường danh lợi, ông đã vào tận Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống, chuyên tâm nghề y, lấy chữa bệnh cứu người làm lẽ sống. Vì có tài, tiếng tăm như sấm động nên có thánh chỉ triệu vào cung chữa bệnh cho thế tử. Ông viết một cách hóm hỉnh về cái bả công danh: “Cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”. Nửa thế kỉ sau, Cao Bá Quát chua chát viết: “ơn vua kèm theo sấm sét!”.

Tiếp xúc với cảnh và người nơi Trịnh phủ, Lê Hữu Trác có lúc mất tự nhiên, có lúc sợ sệt, hoặc “cúi đầu” hoặc “liếc mắt nhìn”. Lúc xem mạch thì “khúm núm” phải hai lần vái lạy một đứa bé độ 5,6 tuổi, mỗi lần bốn lạy!

Lúc kê đơn là một cuộc tự đấu tranh tư tưởng diễn ra vô cùng gay gắt xung quanh vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ: “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được”, về núi để được sống tự do, thảnh thơi, chan hoà với thiên nhiên. “Lưng không uốn, lộc nên từ là thế!”

Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của ông cha mình mới được”. Cái lòng thành mà ông nói đến là lương y như từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp. Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợi ý nên dùng những vị thuốc “phát tán mới xong”, mặc dù có năm, sáu vị lương y của sáu cung, hai viện đang ngày đêm chầu chực xung quanh con bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình:

“Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên…”. Qua đó, ta thấy tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đạt lên trên hết, lên trước hết. Biệt hiệu “Lãn Ông” thật giàu ý nghĩa: ông già lười, lười làm quan và biếng danh lợi.

Đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” thật hay và thú vị, ta cảm thấy như được tác giả dẫn đi xem cung điện Thăng Long thời Lê – Trịnh. Đoạn văn cũng như toàn tác phẩm “Thượng kinh kí sự” vừa có giá trị văn chương vừa giàu giá trị lịch sử. Đoạn văn rất giàu tính hiện thực, phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống xa hoa, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê – Trịnh. Cách viết của Lãn Ông rất đặc sắc hấp dẫn. Vừa tả, vừa kể, vừa lồng ý nghĩ cảm xúc, rất chân thực, hóm hỉnh. Ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ cung đình, ngôn ngữ chuyên môn về y học được tác giả sử dụng rất sáng tạo, biến hoá.

“Vào phủ chúa Trịnh”, đoạn kí sự giàu chất thơ đã phản chiếu vào một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý.

Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh

Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh – mẫu 2

Lê Hữu Trác là nhà y học, nhà văn nhà thơ lớn cuối thế kỉ XVIII. Trong sự nghiệp sáng tác văn học, tác phẩm “Thượng kinh kí sự” là tác phẩm nổi bật nhất của ông. Tác phẩm đã phơi bày hiện thực đời sống xã hội cuối thế kỉ XVIII, đặc biệt là đời sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những nét vẽ đó đã phác họa đầy đủ qua đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”.

Mở đầu tác phẩm, tác giả thuật lại nguyên nhân phải vào phủ Chúa, thời gian được ghi lại hết sức chi tiết, tỉ mỉ: “Mồng 1 tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở…. Có thánh chỉ triệu cụ vào….”. Và tiếp đó là khung cảnh trong phủ chúa lần lượt hiện ra dưới sự quan sát tỉ mỉ, kĩ lưỡng của tác giả.

Con đường vào phủ phải đi qua nhiều lần cửa, những hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, ở mỗi cửa đều có người canh gác, khi ra vào phải có thẻ, khung cảnh hết sức nghiêm trang, được bảo mật kĩ càng. Không chỉ vậy dưới con mắt của Lê Hữu Trác ông còn tinh mắt nhận ra “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm; gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Trước khung cảnh đó tác giả đã nhận xét: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Lời nhận xét hết sức bình thản của tác giả nhưng đã phần nào bộc lộ thái độ phê phán trước cuộc sống xa hoa, hưởng lạc nơi đây.

Nhưng khung cảnh càng trở nên choáng ngợp khi bước vào sâu trong phủ chúa, “những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ” mà ông chưa từng thấy lần lượt hiện ra trước mặt. Đồ vật sử dụng trong phủ chúa cũng hết sức đẹp đẽ, xa hoa: đồ nghi trượng đều được sơn son thếp vàng, trướng gấm, quyển bồng,… đây đều là những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy, khiến Lê Hữu Trác “chỉ dám ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cảnh phủ chúa vô cùng tráng lệ, lộng lẫy, không đâu sánh bằng, đây chính là biểu hiện của cuộc sống xa hoa, cầu kì khác với cuộc sống đời thường. Song khung cảnh vàng son này lại tù hãm thiếu sinh khí và ngột ngạt. Khung cảnh khiến ta liên tưởng đến Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ với câu nhận xét: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”. Khung cảnh đó cũng là sự báo hiệu của đời sống trụy lạc của xã hội, triều đại đã đi vào mạt vận và chẳng bao lâu nữa sẽ đến hồi diệt vong.

Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa cũng hết sức khác thường. Khi vào phủ chúa phải có thánh chỉ, qua mỗi lần cửa cần phải có thẻ, phủ chúa được bảo vệ rất nghiêm ngặt. Kẻ hầu người hạ đông đúc, nhộn nhịp, khi tác giả lên cáng vào phủ chúa có “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường” và “cáng chạy như ngựa lồng”, còn trong phủ chúa “người giữ cửa truyền bá rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Cách xưng hô hết sức kính cẩn, lễ phép “thánh thượng”, “đông cung thế tử” với một cậu bé chỉ hơn sáu tuổi, tôn ti trật tự được thiết lập hết sức rõ ràng, chặt chẽ. Bầu không khí khám bệnh hết sức trang nghiêm, khẩn trương, trước khi vào khám, Lê Hữu Trác phải quỳ lạy một đứa trẻ mặc dù tuổi đã cao. Muốn xem thân hình thế tử phải có một viên quan đến xin phép cởi áo. Thủ tục vô cùng rườm rà, rắc rối. Qua đó ta thấy được quyền uy tột đỉnh cùng với cuộc sống xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa.

Trước cuộc sống xa hoa, nhưng yếm khí đó ngay lập tức tác giả đã chuẩn đoán được chính xác căn nguyên căn bệnh mà Thế tử mắc phải: “ở trong trốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”. Quả thật lời chuẩn đoán của ông vô cùng chính xác, do cuộc sống thừa thãi về vật chất mà lại thiếu đi sự vận động, sống trong không gian tăm tối, ngột ngạt, thiếu khí trời khiến cho phủ tạng ngày càng yếu, người ngày một gầy mòn. Nhưng khi bắt bệnh xong ông rơi vào tình thế khó xử, tin vào khả năng chữa bệnh của mình nhưng sợ bị danh lợi ràng buộc, không tiếp tục cuộc sống tự do tự tại, ẩn dật mà ông yêu thích nữa; nếu không chữa sẽ không đúng với lương tâm người thầy thuốc. Và cuối cùng ông đã quyết định làm theo đúng lương y của người thầy thuốc, khám và chữa bệnh cẩn thận cho thế tử. Qua đó ta thấy người Lê Hữu Trác là một lương y có tay nghề cao và tâm sáng luôn hết lòng vì người bệnh, đồng thời ông cũng là một người coi thường danh lợi.

Đoạn trích đã cho thấy tài năng nghệ thuật đặc sắc trong ngòi bút kí sự của Lê Hữu Trác. Nghệ thuật miêu tả, ghi chép rõ nét, trung thực, tạo sự tin cậy nơi người đọc. Lựa chọn chi tiết tiêu biểu, ấn tượng qua quang cảnh phủ chúa, hình ảnh thế tử,… tất cả đều ngầm lên án, phê phán cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. Kết hợp hài hòa giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm tạo nên sự cuốn hút và tăng giá trị hiện thực cho tác phẩm. Giọng điệu châm biếm, hài hước nhẹ nhàng kín đáo cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, Lê Hữu Trác không chỉ vẽ nên cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa với cung cách sinh hoạt hết sức rườm rà, cuộc sống đầy yếm khí ở nơi đây. Nhưng đồng thời sau những dòng chữ ấy còn cho thấy những nỗi niềm, cảm xúc của tác giả trước lối sống giàu sang, phú quý và tấm lòng, nhân cách cao cả của một bậc lương y.

Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh – mẫu 3

Kí là thể loại văn xuôi tự sự dùng để ghi chép những sự việc có thật và bộc lộ tình cảm, tư tưởng của người viết phản ánh hiện thực cuộc sống theo cách riêng của mình. Nhắc đến thể kí không thể không nhắc đến Lê Hữu Trác một danh y nổi tiếng với bộ Hải Thượng y tông lĩnh cuốn bách khoa toàn thư về y học, đồng thời cũng là một nhà văn với tác phẩm “Thượng kinh kí sự” được nhiều người biết đến. Tác phẩm đánh dấu sự trưởng thành của thể kí với nội dung kể về cuộc sống xa hoa cùng với quyền uy thế lực trong phủ chúa. Tiêu biểu là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần đầu đã ghi chép trung thực về sự giàu sang, thâm nghiêm trong Trịnh phủ, qua đó cho thấy nhân cách và tâm hồn của một nhà y học, nhà văn học.

Mở đầu đoạn trích là sự kiện được ghi chép lại “Mùng 1 tháng 2” có thánh chỉ triều tác giả vào phủ chữa bệnh cho Đông Cung Thế tử Trịnh Cán. Mặc dù là con nhà quan vốn “sinh trưởng ở chỗ phồn hoa” chỗ nào trong cấm thành cũng đã từng biết nhưng đây là lần đầu tiên ông được vào phủ chúa.

Quang cảnh Trịnh phủ tráng lệ, nguy nga được tác giả quan sát và cảm nhận qua cái nhìn đầu tiên “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương” cảnh vật nơi đây như chốn bồng lai tiên cảnh, thơ mộng, hữu tình làm đắm say lòng người. Tiếp đó là “Dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp” những người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan thì qua lại như cửi. Một cái nhìn bao quát từ cận cảnh đến viễn cảnh đâu đâu cũng thể hiện sự giàu sang đến ngỡ ngàng. Tác giả như bất ngờ mà thốt lên những vần thơ ghi lại cảm xúc của mình trước cái đẹp lộng lẫy:

“Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây
Lầu từng gác vẽ tung mây
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào
Hoa cung tháng ngạt đưa tới
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen”

Vốn là một con người “lánh đục tìm trong” nhưng đứng trước cảnh đẹp nơi đây tác giả không hề miệt thị mà ngược lại còn ngợi ca, còn rung động trước non nước hữu tình tuy nhiên cái ngợi ca ấy không được trọn vẹn. Dường như còn ẩn chứa một tâm trạng u hoài

“Quê mùa cung cấm chưa quen
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào”

Điển cố Đào Uyên Minh đã được tác giả sử dụng thật tài tình. Ông tự coi mình là người quê mùa chẳng quen chốn cung cấm xa hoa, nhộn nhịp cũng giống như Đào Tiềm ngày ấy lạc vào chốn thần tiên. Cảnh đẹp thì đẹp nhưng lòng người lại không ham. Sự nguy nga, hoành tráng nơi Trịnh phủ được tác giả miêu tả chi tiết, tỉ mỉ qua từng bước đi, từng cái nhìn ấy là “Đi mấy trăm bước, qua mấy lần cửa đi đến cái điếm hậu mã quân túc trực” rồi những cái cây, những hòn đá lạ… mọi thứ cứ dần dần hiện ra trước mắt đến choáng ngợp nhưng Lê Hữu Trác không hề tỏ ra thảng thốt, bất ngờ đến tột cùng mà vẫn giữ cho mình sự điềm tĩnh, trầm ngâm của một ẩn sĩ.

Đồ dùng vật dụng mọi thứ rất sang trọng “Đồ nghi trượng đều được sơn son thếp vàng”, rồi cả những cái “sập thếp vàng” những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy, cột cũng được sơn son thếp vàng. Cái màu vàng chủ đạo ấy cho thấy sự xa hoa, tráng lệ nơi Trịnh phủ nó đối lập hoàn toàn với cuộc sống cơ cực, bần hàn của những người dân nghèo, cũng chính công trình kiến trúc ấy được xây dựng bằng mồ hôi, công sức, tiền của của nhân dân.

Sự sang trọng nơi đây còn được thể hiện ở tên gọi nào nhà “Đại đường”, “Quyển bồng” rồi “Phòng trà”, mọi người ở trong đó đều là các quan Chánh đường người nhà vua nhà chúa. Ai muốn vào phải có thẻ lính canh nghiêm ngặt vô cùng. Bữa cơm trong ấy là “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ” lần đầu tiên tác giả được nhìn, được biết đến cái phong vị của nhà đại gia. Tuy nhiên chẳng phải cái giàu sang, cái của ngon vật lạ ấy làm cho con người ta khỏe mạnh, hưng cường mà ngược lại khiến cho Thế tử là con trời lại thành con bệnh.

Thế tử là “một người ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi mặc cái áo lụa đỏ” muốn vào được đến đây ông đã phải đi qua độ năm, sáu lần. Trước khi vào bắt mạch, khám bệnh cho thế tử ông phải hành lễ lạy tạ. Gian phòng của thế tử được tác giả quan sát miêu tả thật kĩ lưỡng “một cây nến to cắm trên một cái giá bằng đồng. Bên sập đặt một cái chiếu rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm… xung quanh lấp lánh hương hoa ngào ngạt.” Chính không khí ngào ngạt mùi hương nhưng tù đọng, bí bách là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh của thế tử chữa trị mãi mà không khỏi với biết bao thầy y và những vị thuốc. Ở phủ chúa tác giả không quen với những khuôn phép, luật lệ thâm nghiêm như có phần e ngại, mất tự nhiên khi thì chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu”, khi thì nín thở rồi lại khúm núm.

Lê Hữu Trác là một vị danh y nổi tiếng, bằng tài năng y thuật và con mắt tinh tường ông đã sớm nhận ra khuyết tật nơi phủ chúa đồng thời cũng bắt trúng bệnh của thế tử. Khoảnh khắc kê đơn cắt thuốc là lúc mà ông do dự, đắn đo cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra cam go, quyết liệt. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa. Chi bằng ta dùng chữ phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”. Xưa nay ta chỉ thấy con người ta hám danh hám lợi, vì tiền bạc, danh vọng mà sẵn sàng chà đạp, chém giết lẫn nhau để mong được như ý muốn. Nhưng Lê Hữu Trác kế thừa tư tưởng của các vị tiền nhân như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”

một lòng giữ khí tiết trong sạch không màng danh lợi. Tuy nhiên ông không thể vì bản thân mà lại quên đi chữ “trung” “cha ông mình đời đời chịu ơn của nước, ta phải dốc hết cả lòng thành để nối tiếp cái trung của cha ông mình mới được”. Chính điều đó đã thôi thúc ông làm tròn chữ “đức” của một vị lương y cho xứng danh“lương y như từ mẫu”. Mặc dù sống trong thời loạn lạc, vựa lúa là những kẻ chỉ biết hưởng thụ với cuộc sống xa hoa nhưng ông không đã bỏ qua tất cả để làm tròn trách nhiệm của người thầy thuốc “Cứu một mạng người hơn xây bảy tòa tháp”. Tác giả phải là một con người có tâm có tầm có nhân cách cao đẹp mới có thể làm được điều đó.

Nơi Trịnh phủ được quan sát thật tỉ mỉ, được miêu tả thật sinh động, trung thực bởi con mắt tinh tế, nhạy bén với những chi tiết đặc sắc của một cây bút kí tài năng, sắc sảo Lê Hữu Trác đã cho người nghe, người đọc thấy được cảnh vật tráng lệ , nguy nga nơi phủ chúa đồng thời cho thấy hiện thực xã hội phong kiến thối nát lúc bấy giờ. Cách viết của ông thật hấp dẫn độc giả vừa miêu tả vừa đan xen cảm xúc, suy nghĩ tâm trạng của một cái tôi cá nhân. Nếu như đặc trưng của văn học trung đại là con người cá nhân bị lu mờ, ít thấy tác giả xuất hiện trực tiếp do người trung đại không coi mình là trung tâm mà chỉ là một bộ phận trong chỉnh thể lớn.Nhưng ở đây tác giả đã tự tin thể hiện cái tôi của mình bằng cách sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng tôi mang đậm dấu ấn cá nhân.

Qua đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” giàu tính hiện thực một mặt phê phán lối sống vinh hoa, quyền quý nơi phủ chúa một mặt ngợi ca nhân cách y đức của tác giả. Lê Hữu Trác vừa để lại một kiến thức về y học cổ truyền cho dân tộc vừa là tấm gương sáng về đạo đức người thầy thuốc cho hậu thế muôn đời.

Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh – mẫu 4

Lê Hữu Trác là một nhà y học tài năng đã để lại cho đời sau một sự nghiệp y học đồ sộ. Người ta còn biết đến ông với tư cách là một nhà văn nhà thơ xuất sắc, ông đã đóng góp vào kho tàng văn học dân tộc những tác phẩm văn chương rất quý giá, trong đó phải kể đến đoạn trích vào phủ chúa Trịnh trong tập kí Thượng kinh kí sự của ông.

Thượng kinh kí sự là tập kí viết bằng chữ hán của Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh), nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo “thánh chỉ” để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà chúa và cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, đồng thời cũng cho thấy tâm hồn, nhân cách của một vị danh y tài cao, đức trọng. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn văn thể hiện tập trung tư tưởng này.

Đoạn trích đã miêu tả tỉ mỉ quá trình cũng như khung cảnh tác giả được triệu vào khám bệnh cho thế tử. Thời gian được ghi rõ là ngày “mồng một tháng hai”, “sáng tinh mơ”; và nói rõ nguyên cớ sự việc “có Thánh chỉ triệu vào cung: – đó là đặc điểm của thể kí sự. Ở kinh đô được nhìn thấy cảnh giàu sang, xa hoa, Lê Hữu Trác đã tả lại cảnh ấy một cách chân thực bằng cái nhìn khách quan và tâm hồn giàu cảm xúc. Điều đáng lưu ý là cảnh vàng son nơi phủ chúa hiện lên như một thiên đường: “Tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương.

Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ của truyền báo rộn ràng”… Tâm hồn tác giả nhảy cảm, giàu tình yêu thiên nhiên, nhưng với cảnh giàu sang, xa hoa nơi phủ chúa, Hải Thượng Lãn Ông vẫn có một giọng trào lộng. Tất cả tâm hồn, tình yêu thiên nhiên, cùng thái độ trào lộng ấy đều được thể hiện rõ nét trong việc miêu tả và tự thuật. Hải Thượng viết: “Tôi nghĩ: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa…. mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Đứng trước cảnh cung vua trang hoàng xa hoa lộng lẫy, tác giả đã phải thốt lên thành thơ, và miêu tả lại cảnh đẹp nơi chốn cung đình này:

“Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Quê mùa, cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”

Mới đọc những lời thơ trên, người đọc dễ nhầm tưởng rằng tác giả đang cảm động trước vẻ đẹp của cảnh vật, nhưng thực chất, trong việc ca ngợi cảnh vật là sự mỉa mai châm biếm đối với vua quan nơi phủ chúa mà tác giả không thể bộc lộ thẳng thắn được.

Cảnh cung đình thật tráng lệ và đẹp mắt, hiện lên như ở cõi tiên với những “lầu son, gác tía”, “hiên ngọc, rèm châu”. Tác giả nói mình là “ngư phủ” lạc vào chốn “đào nguyên” theo tích trong Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm. Nói như vậy không rõ là để ngợi ca phủ Chúa hay là để mỉa mai? Rồi tác giả còn miêu tả cặn kẽ hơn các ngôi điếm và cảnh quan cũng theo cái giọng điệu nửa khen nửa chê ấy: “Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong đếm, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp. Bằng những ngôn ngữ miêu tả hết sức chính xác và chân thực, tác giả đã khéo léo ngụ ý phê phán. Ông lên ác cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa một cách kín đáo.

Hải Thượng Lãn Ông nhận thấy cuộc sống của muôn dân thì khổ cực, đói rách, nhưng trong phủ chúa thì sống xa hoa, sung túc. Đó là sản phẩm của sự bóc lột, trái ngược với đời sống của nhân dân. Ông diễn đạt điều này một cách khéo léo là “cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”.

Hải Thượng Lãn Ông là một thầy thuốc tài giỏi của dân tộc, việc ông được tiến cử chữa bệnh cho thế tử là một cơ hội để tiếng tăm càng nổi hơn, và quan tước sẽ là điều chắc chắn. Song, với Hải Thượng Lãn Ông tất cả những thứ danh lợi ấy chỉ là phù phiếm. Ông không muốn vướng vào vòng danh lợi, cũng như những bậc ẩn sĩ thời xưa mà Đào Tiềm là một tấm gương.

Ông không màng danh lợi, không ham muốn cuộc sống xa hoa nơi cung điện mà tìm các tránh được việc phải ở lại làm quan. Thực ra thì sự đấu tranh tư tưởng đã diễn ra trong tâm trạng của Hải Thượng Lãn Ông. Nhưng đó không phải là sự đấu tranh của cái danh lợi với sự trong sạch của tâm hồn, mà là giữa đạo “trung” của kẻ bề tôi với lòng ham “về núi” của kẻ sĩ thời loạn. Và cuối cùng ta thấy lòng ham “về núi” của kẻ sĩ thanh cao đã thắng: ông đã thật sự thoát được khỏi vòng danh lợi, dũng cảm và thông minh để từ chối việc chữa bệnh cho Trịnh Cán, một thế tử trẻ con, ốm yếu, bệnh hoạn…

Khi vào đến phủ chúa, tài năng của ông đã làm cho thái y và quần thần kính nể. Song ông tự nhận thấy rằng, tài năng của ông không được sử dụng để phục vụ cho chốn vua chúa xa hoa, càng không phải để phục vụ việc mưu cầu lợi ích riêng cho mình, mà là để phục vụ cho nhân dân, những người lam lũ và nghèo khổ.

Với tấm lòng vì nước vì dân và tài năng phi thường, qua ngòi bút của mình, Lê Hữu Trác đã tái hiện lại cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa và qua đó, ta thấy hiện lên tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông: đó là một tâm hồn trong sạch, một nhân cách lớn của một nhà y thuật tài ba và giàu y đức.

Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh – mẫu 5

Thượng kinh kí sự là một tập bút ký rất hiếm và quý trong văn học cổ Việt Nam thế kỉ XVIII. Tác phẩm viết bằng chữ Hán kể lại tỉ mỉ một chuyến đi của Lê Hữu Trác được triệu từ quê hương Hà Tĩnh ra kinh đô chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm và cho thế tử Trịnh Cán.

Đoạn trích kể lại một chuyến đi, theo trình tự không gian như ta thường gặp trong các du kí, từ không gian vòng ngoài là phù chúa đến không gian bên trong là cung chúa. Từ nhà trọ đến cửa phủ chúa, tác giả đã thấy gì? Nét nổi bật là người đầy tớ của quan đầu triều Hoàng Đình Bảo: anh ta gõ cửa rất gấp, thở hổn hển báo tin có thánh chỉ triệu Lê Hữu Trác vào chầu ngay, rồi chạy đằng trước cáng hét đường, cáng chạy như ngựa lồng… Tại sao? Vì có lệnh chúa, để thực hiện lệnh chúa, đủ biết uy quyền của chúa Trịnh ghê gớm đến mức như thế nào.

Từ cửa phủ đi sâu vào bên trong, quang cảnh ra sao? Tác giả miêu tả khách quan bằng những chi tiết chính xác, tinh tế, kèm đôi nhận xét kín đáo, có vẻ không phê phán gì cả, nhưng tự nó bức tranh khách quan ấy lại có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Lê Hữu Trác được dẫn từ cửa phủ vào điếm Hậu Mã đến Phòng Chè, rồi lại từ Phòng Chè ra điếm Hậu Mã, chờ có lệnh mới được vào cung chúa. Dọc đường đi vào đi ra, Lê Hữu Trác đã có những cảm nhận gì về cái Phủ Chúa thâm nghiêm kín cổng này?

Một nơi thâm nghiêm đầy uy quyền với nhiều cửa và nhiều vệ sĩ canh gác, đi một bước phải có người dẫn đường, qua mỗi cửa đểu có người giữ thẻ. Một cảnh giàu sang xa hoà khác thường, tột độ với những vườn cảnh ríu rít chim kêu, rực rỡ hoà quý, ngào ngạt hương thơm, những lâu đài to lớn cao rộng lộng lẫy màu sắc, chói lọi sơn son thiếp vàng. Tác giả đặc tả điếm Hậu Mã, nhà Đại Đường và Phòng Chè để phơi bày tất cả cái xa hoà, cầu kỳ, kiểu cách trong Phủ Chúa: điếm Hậu Mã chỉ là nơi ghi tạm của quan Chánh đường đứng đầu triều mà cũng xây dựng cầu kỳ, bao lơn lượn vòng, toàn cây lạ đá quý, bữa cơm ở đây toàn mâm vàng chén ngọc, của ngon vật lạ.

Nhà Đại Đường là ngôi nhà lớn cao rộng, đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng, có kiệu để chúa đi, sập để chúa ngồi, cả võng điểu để chúa nằm. Phòng Chè là một lầu son gác tía, dành riêng để chúa con ốm o bệnh tật ra uống thuốc. Miêu tả khách quan là chính, đôi chỗ tác giả thoáng kín đáo nhận xét: ‘Tôi nghĩ bụng… cánh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thưởng!… Trước sập và hai bên bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy… Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bây giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia’. Quả là một cuộc sống đế vương xa lìa, xa cách nhân dân một trời một vực.

Một cảm nhận sâu sắc khác nữa của Lê Hữu Trác, ngoài cảnh vàng son kiêu sa tột độ, quyền uy ghê gớm của vua chúa, là cảnh luồn cúi của những ai đem thân vào đây hầu hạ. Tác giả không nói ra, để sự việc tự nó nói lấy. ở Phòng Chè bảy tám lương y của sáu cung, hai viện, ngày đêm chầu chực để hầu thuốc cho chú bé con ốm yêu gọi là Thế tử Trịnh Cán, tất cả đểu khúm núm kính sợ quan Chánh đường, quan có ngồi thì mọi người mới dám ngồi theo thứ tự. Bản thân tác giả là một danh y được triệu vào chữa bệnh cho chúa mà vẫn chưa được phép gập ngay bệnh nhân, phải tạm quay ra điếm Hậu Mã. Vì một lí do vừa khôi hài vừa xúc phạm con người: Trịnh Sâm đang mải vui vầy với cung tần mĩ nữ, chưa cho phép danh y vào chầu. Uy quyền của vua chúa to lớn quá, con người vào đây hầu hạ thành bé nhỏ quá.

Đến khi được dẫn vào cung chúa, Lê Hữu Trác có dịp mắt thấy tai nghe nhiều điều bí ẩn trong thâm cung, nghĩ đời không thể biết được. Ông kể tỉ mỉ, khách quan, không một lời bình luận,chọn những chi tiết tự nó nói được nhiều nhất cảnh và người nơi đây. Cảnh thật lạ: lối đi tối om, không có cửa ngõ, qua đến năm sáu lần màn gấm che cách thì tới một phòng rộng có ánh sáng nhưng không phải ánh sáng mặt trời mà toàn ánh nến và đèn sáp, ngồi trên sập thếp vàng là một chú bé áo đỏ, một lá màn che ngang phía sau, thấp thoáng cung nữ và to nhỏ tiếng người – cảnh xa hoa tột độ nhưng kì quái, thâm cung mà như một âm cung cách biệt trần thế.

Người cũng thật lạ: tác giả tập trung miêu tả Thế tử Trịnh Cán, người được Trịnh Sâm chọn nối nghiệp cai quản đất nước trị vì thiên hạ. Lê Hữu Trác kể lại giọng rất nghiêm trang, có phần kính cẩn (tôi nín thở đứng chờ ở xa… tôi khúm núm đến trước của sập xem mạch,…) nhưng tự bản thân người và cảnh, dưới ngòi bút của ông, vẫn toát ra một cái gì vừa ngộ nghĩnh vừa tức cười, vừa bệnh hoạn. Ngộ nghĩnh với ông chúa tí hon mặc áo đỏ ngồi trên sập vàng, giữa một thế giới gấm vóc vàng son, kẻ hầu người hạ. Tức cười với hình ảnh ông chúa trẻ con, thấy Lê Hữu Trác cúi lạy ‘ông’ bốn lạy theo lệnh của quan Chánh Đường, khoái chí cười ‘han’ một lời khen rất con nít: ‘Ông này lạy khéo’. Bệnh hoạn với hình ảnh ông chúa nhỏ ‘da mặt khô, rốn lồi to, gân xanh, chân tay gầy gò’ – chưa kể chúa cha là Trịnh Sâm hoang dâm vô độ, sức tàn lực kiệt, sợ nắng sợ gió, sợ cả ánh sáng mặt trời – cha con sống trong thâm cung, gấm vóc phủ kín, thắp sáng toàn bằng nến và đèn sáp.

Tóm lại, Lê Hữu Trác với tài quan sát, biết chọn những chi tiết đặc sắc, miêu tả khách quan và tỉ mỉ, đã vẽ ra một bức tranh hiện thực rất chân thực, kín đáo phê phán một triều chính suy đồi:

– Người cầm quyền sống xa hoà, xa cách, xa lìa nhân dân quần chúng.

– Người cầm quyền không còn khả năng cầm quyền.

– Cuộc sống luồn cúi, mất tự do của những kẻ ham danh lợi đem thân vào hầu hạ trong phủ chúa.

Đoạn văn ‘Vào Trịnh phủ’ không chỉ vẽ ra một bức tranh hiện thực có ý nghĩa phê phán sâu sắc, nó còn bước đầu ghi lại một cuộc đấu tranh nôi tâm trong con người Lê Hữu Trác quanh vấn đề tự do và danh lợi. Là một danh y, ông đã tìm ra nguyên nhân bệnh tật và cách chữa bệnh cho Trịnh Cán. Điểu lạ là ông không mừng mà lại lo (nếu mình làm có kết quả thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được). Ông lo bệnh khỏi, chúa sẽ thưởng danh lợi, giữ ông lại kinh đô, không thể trở về cuộc đời tự do dân dã trong núi. Vấn để ông lo lắng là vấn để tự do và danh lợi. Giải quyết vấn đề thế nào cho đúng?

Lúc đầu, ông định bốc một thứ thuốc không trúng bệnh nhưng không có hại cho bệnh nhân, bệnh không khỏi, chúa sẽ không dùng nữa và ông sẽ được tự do (‘chị hằng ta dùng phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì không sai bao nhiêu’). Với lương tâm người thầy thuốc ông đã phải trải qua một cuộc đấu tranh tư tưởng gay go, phức tạp, cuối cùng ông đã thay đổi ý kiến. Sau đơn thuốc đầu tiên chúa Trịnh hiểu rõ tài năng của ông, ban thưởng và giao cho ông thẻ đi đêm để có thể đi lại túc trực trong Phủ chúa thì ông cáo ốm không vào nữa. Ông xin phép ra khỏi nhà quan Chánh Đường, tìm chỗ ở ngoài làm thuốc sinh sống, thay đổi chỗ ở nhiều lần, che tên dấu tiếng để khỏi phải tiếp xúc với các quan to chức lớn. Ông làm nhiều thơ gửi quan Chánh Đường để bày tỏ ý chí của mình, kì cho quan Chánh Đường phải nản, biết rằng không ép buộc được ông, đành phải xin với chúa Trịnh, cho ông được trở về quê quán sống cuộc đời tự do.

Tóm lại ‘Thượng kinh kí sự’ của Lê Hữu Trác là một tác phẩm văn xuôi cổ Việt Nam có giá trị lịch sử và giá trị văn học đáng quý. Tác phẩm viết theo thể kí với người thật việc thật, nó có giá trị đặc biệt ở những trang miêu tả khách quan, để sự việc tự nó nói lấy, đoạn trích ‘Vào Trịnh phủ’ có giá trị ở chỗ:

– Giúp ta một tài liệu quý về thời vua Lê – chúa Trịnh.

– Phản ánh chi tiết và phê phán kín đáo cảnh giàu sang xa hoà, uy quyền ghê gớm của chúa Trịnh sống xa rời nhân dân, người cầm quyền không còn khả năng cầm quyền.

– Thể hiện một tâm hồn cao thượng, khao khát cuộc sống tự do ngoài vòng danh lợi.

Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh – mẫu 6

Lê Hữu Trác là một danh y nổi tiếng không chỉ chữa bệnh mà còn soạn sách. Tác phẩm ” Thượng kinh kí sự” (kí sự đến kinh đô) là một trong những tác phẩm lớn của ông-được viết bằng chữ Hán, hoàn thành 1783. Đoạn trích “vào phủ chúa trịnh” trích từ bài kí sự sẽ giúp ta thấy rõ sự cao sang quyền uy cùng cuộc sống hưởng thụ cực điểm của nhà vua, qua đó thể hiện thái độ của tác giả.

Mở đầu đoạn trích, tác giả thể hiện sự cao sang quyền uy cùng cuộc sống hưởng thụ cực điểm của nhà vua. Bắt đầu từ quang cảnh tráng lệ trang nghiêm, lộng lẫy, tôn nghiêm với bên ngoài phủ chúa. Đường vào phủ chúa phải qua nhiều lần cửa với ” những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”. Ở mỗi cửa đều có lính canh gác ” ai muốn ra vào phải có thẻ”. Vườn hoa trong phủ chúa có ” cây cối um tùm, trăm hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. trong khuôn viên phủ chúa có điếm” hậu mã quân túc trực”.

Quang cảnh bên trong phủ chúa được tác giả miêu tả hết sức tỉ mĩ. Kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy. Có những nhà ” Đại Đường”, “Quyển Bồng”, “Gác Tía”. Còn đồ dùng để ăn uống toàn “mâm vàng chén bạc”. Đi sâu vào nội cung thế tử, phải qua năm sáu lần trướng gấm. Ở trong phủ tối như mực. trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng. Trên ghế bày nệm gấm bàn là che sân, còn xung quanh thì lấp lánh hương hoa ngào ngạt. Vì vậy, quang cảnh trong phủ chúa cực kì tráng lệ lộng lẫy, không đâu sánh bằng.

Kế đến là cung cách sinh hoạt lễ nghi khuôn phép. Khi tác giả lên cáng vào phủ chúa theo lệnh của chúa Trịnh Sâm, “có tên đầy tớ chạy đằng trước hết đường”, “cáng chạy như ngựa lồng”.Trong phủ chúa, ” người giữ cửa truyền báo rộn ràng”, “người có việc quan qua lại như mắc cửi”.Từ đó, thấy được chúa có vị trí trọng yếu và quyền uy tối thượng trong triều. Vì vậy, tác giả đã làm bài thơ làm rõ thêm uy quyền nơi phủ chúa:

“Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”

Tác giả dùng lời lẽ hết sức cung kính và lễ độ khi nhắc đến chúa Trịnh và thái tử:”Thánh thượng ngự ở đấy”,”hầu mạch cho đông cung thế tử”,”chầu trà, hầu trà”. Xung quanh chúa Trịnh luôn có phi tần chầu chực, người hầu kẻ hạ đến nỗi tác giả không thấy được mặt của chúa. Khi xem mạch cho chúa xong, ông phải viết tờ khai để quan chánh đường dâng lên chúa. Cảnh tác giả khám bệnh cho Trịnh Cán được coi là một chi tiết đắt. Nội cung thế tử trang nghiêm khiến ông phải nín thở đứng chờ ở xa. Lúc đầu, khi thế tử bệnh, có bảy, tám người thầy thuốc đứng phục dịch, lúc nào cũng có người hầu hai bên.

Thế tử chỉ mới năm sáu tuổi, nhưng khi xem mạch cho Người, tác giả là người già phải quỳ lại còn được khen:”Ông này lạy khéo”. Điều đó nói lên sự hài hước của phủ chú như mọi trò hề. Nội cung thế tử được miêu tả hết sức tỉ mĩ “bên trong tối om, màn che trướng phủ”,” ăn quá no mặc quá ấm”, đó cũng là nguồn gốc nguyên nhân dẫn đến căn bệnh của thế tử. Với hình ảnh của chúa Trịnh” đang ngự ở trong, có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít, đèn sáp chiếu sáng làm nổi bật màu mặt phấn và màu áo đỏ” đã tự phơi bày cuộc sống hưởng lạc của phủ chúa không cần lời bình.

Đứng trước sự cao sang quyền uy cùng cuộc sống hưởng thụ cực điểm của nhà chúa, tác giả đã bộc lộ, tâm trạng và suy nghĩ của mình. Ông dửng dưng trước những quyến rũ vật chất, không đồng tình trước cuộc sống quá no đủ tiện nghi nhưng thiếu khí trời và tự do. Đứng trước cảnh phủ chúa xa hoa lộng lẫy tác giả nhận xét:” Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Còn khi được mời ăn sáng, tác giả nhận xét:”mâm vàng chén bạc, ăn toàn của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới hay cái phong vị đại gia.

Trên đường vào nội cung thế tử, ông thấy ” ở trong tối om, không thấy cửa ngõ gì cả”. Khi tác giả chữa bệnh cho thế tử, tâm trạng của ông diễn biến rất phức tạp. Tác giả đã nghĩ ra căn bệnh cụ thể, nguyên nhân của nó và ngầm phê phán” vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”. Ông hiểu rõ căn bệnh đưa ra cách chữa hợp lí và thuyết phục người khác. Nhưng ông sợ chữa có hiệu quả ngay thì sẽ được chúa tin dùng rồi bị công danh trói buộc. ” Nhưng sợ mình không ở lâu, nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được nữa”.

Ông từng nghỉ” chi bằng ta dùng thứ thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu, nhưng như thế là làm trái với y đức”. Vì thế, ông mang tâm trạng giằng co, xung đột nhưng cuối cùng phẩm chất lương y trung thực của người thầy thuốc đã chiến thắng. Ông đã gạt bỏ sở thích riêng qua một bên để làm tròn trách nhiệm của người thầy thuốc. Qua đó ta thấy ông là người thầy thuốc giỏi, kiến thức rộng, giàu kinh nghiệm và có lương tâm đức độ, xem thường danh lợi thích cuộc sống đạm bạc.

Bằng tái quan sát tỉ mĩ, ghi chép trung thực, miêu tả cụ thể, sống động, chọn lựa những chi tiết đắc và gây nhiều ấn tượng. Kết hợp giữa lối kể chuyện hấp dẫn, chân thật, hài hước với văn xuôi và thơ làm tăng chất trữ tình cho tác phẩm, góp phần thể hiện một cách kín đáo thái độ của người viết. Bên cạnh đó, ngôn ngữ giản dị mộc mạc đằng sau bức tranh và con người ấy chứa đựng bao tâm sự dồn nén của tác giả.

Tóm lại, đoạn trích vào phủ chúa Trịnh đã phản ánh quyền lực to lớn của Chúa Trịnh Sâm với sự cao sang quyền uy cùng cuộc sống hưởng thụ cực điểm của nhà Chúa. Đồng thời bày tỏ thái độ coi thường danh lợi, quyền uy của tác giả và cũng để lại cho ta nhiều bài học về y đức mà người thầy thuốc cần có.

Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh – mẫu 7

Bên cạnh tài năng y thuật khiến người đời phải nể phục thì Lê Hữu Trác còn có một nhân cách thanh cao, trong sạch. Gia sản ông để lại cho hậu thế không chỉ là những kinh nghiệm y thuật quý báu mà còn có những thước phim chân thực về xã hội phong kiến lúc bấy giờ. “Thượng kinh ký sự” chính là tác phẩm mà Lê Hữu Trác kể lại những gì ông tai nghe mắt thấy vào thời ấy. Qua đó, ông giúp chúng ta hiểu hơn phần nào về cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa, đồng thời khẳng định tấm lòng đức độ và nhân cách đáng trọng của vị danh y kỳ tài.

“Vào phủ chúa Trịnh” là đoạn trích được rút ra từ tác phẩm “Thượng kinh ký sự” của Hải Thượng Lãn Ông. Đoạn trích ghi lại hiện thực cuộc sống xa hoa, quyền thế trong phủ chúa Trịnh khi tác giả được triệu vào cung để chữa bệnh cho thái tử Trịnh Cán.

Những lời miêu tả chi tiết, chân thực giúp người đọc theo chân tác giả để chiêm ngưỡng khung cảnh của “nơi xa hoa, giàu có bậc nhất nước Nam”. Quang cảnh trong phủ chúa đúng là khiến người khác phải trầm trồ thán phục. Để vào được bên trong phải đi qua mấy lần cửa, có “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”, mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác, “ai muốn ra vào phải có thẻ”. Sự xa hoa, lộng lẫy còn được thể hiện ở những vật dụng chỉ chuyên dành cho người quyền quý, từ “đại đường”, “quyền bổng”, “gác tía” với kiệu son, võng nghi lộng lẫy đến những chiếc cột hay mâm bát chén cũng đều được dát vàng. Nội cung nơi phủ chúa được trang hoàng bởi “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”. Để vào được cung của thái tử, tác giả phải bước qua mấy lần trướng gấm. Bên cạnh đó là sự tấp nập của bọn kẻ hầu người hạ: “đầy tớ chạy trước hết đường”,“người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Cung cách xem bệnh cho bậc quyền quý là phải “nín thở đứng chờ ở xa”, “khúm núm đến trước sập xem mạch”. Có lẽ một đôi câu thì khó lòng lột tả hết quang cảnh xa hoa cùng nếp sống hưởng thụ của gia đình chúa Trịnh Sâm. Ẩn sau những lời miêu tả sinh động, chân thực ấy có lẽ còn là tiếng nói tố cáo gay gắt bởi sự ăn chơi, hưởng thụ của chúa hoàn toàn đối lập với cuộc sống nghèo khổ, lầm than của nhân dân.

Nếu như ở phía trên, Lê Hữu Trác tỏ ra là một người kể chuyện tài ba thì đến đây, ông lại cho ta thấy cái tài và đức của một bậc danh y đáng trọng. Khác với những người khác, ông thẳng thắn chỉ ra căn bệnh của thế tử: “ở trong chốn màn che trướng rủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”. Chốn cung gấm xa hoa nơi cung đình lại là tác nhân gây ra sự mệt mỏi, thiếu sinh khí. Đó là căn bệnh của kẻ giàu, là sản phẩm của một cuộc sống hưởng thụ, thiếu quan tâm đến “dân đen con đỏ”. Vì vậy, tác phẩm không chỉ phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời mà còn cho thấy tấm lòng vì dân, vì nước của bậc danh y.

Nếu như những người khác mải mê theo đuổi những thứ phù phiếm, xa hoa của tiền tài, danh lợi thì Lê Hữu Trác lại chọn cho mình lối sống thanh cao của bậc ẩn sĩ thời xưa. Giữa những rối ren của bối cảnh xã hội, thời đại, đó cũng chính là lựa chọn của nhiều nhà nho chân chính:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chỗ lao xao”.

Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh – mẫu 8

Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y nổi tiếng, mà còn là một tác giả có nhiều tác phẩm văn học có giá trị thời trung đại. Lê Hữu Trác để lại cho đời một sự nghiệp y học đồ sộ, nổi bật hơn cả là bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh được coi là bách khoa toàn thư về y học thế kỉ XVIII. Các tác phẩm của ông không chỉ có giá trị về y học mà còn mang nhiều giá trị văn học sâu sắc vì đã ghi lại cảm xúc chân thật cùng như bộc lộ tâm huyết, đức độ của người thầy thuốc. Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào Trịnh phủ không chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ này.

Vào Trịnh phủ là đoạn trích kể lại sự việc tác giả được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh cho Đông Cung Thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, tác giả đã thể hiện chân thực bức tranh sinh động về cuộc sống kiêu sa, vương giả và hiện thực cuộc sông nơi phủ chúa. Vào Trịnh phủ là một phần của tập Thượng kinh kí sự, là tác phẩm thuộc thế kỉ. Vì vậy đoạn trích là lời kể mộc mạc và chân thực, có ghi rõ thời gian Mồng 1 tháng 2, sáng tinh mơ và có sự việc: Có thánh chỉ triệu vào cung. Song điều làm cho chúng ta chú ý đó là cảnh vàng son nơi phủ chúa hiện lẽn vô cùng rực rờ qua cái nhìn của tác giả. Ban đầu Lê Hữu Trác được hò chìm trong khung cảnh vườn phủ chúa: Tôi ngẩng đầu lên, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương. Cảnh vật ấy khiến cho ta có cảm giác, nơi đây là một khu vườn địa đàng nào đó trên tiên giới trong các truyện cổ tích dân gian, chứ không phải cảnh ở hiện thực mà tác giả nhìn thấy. Tiếp đến tác giả ghi lại những sự việc minh nhìn thấy: Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, người qua lại như mắc cửi. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ những nét suy nghĩ chân thành khi có việc liên quan được đặt chân vào một nơi mà chính tác giả cũng nghĩ mình đang ở trong mơ: Tôi nghĩ bụng: mình vốn con quan… Bước chân đến đây mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường. Điều này chứng tó thái độ ngỡ ngàng đến bất ngờ của tác giả. Khung cảnh giàu sang đó là ngoài sức tưởng tượng của ông. Đứng trước cảnh đẹp đệ nhất trời Nam ấy, tâm hồn người thầy thuốc tràn ngập một cảm xúc chân thành cứa một tâm hồn nhạy cảm:

Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt

Cả trời Nam sang nhất là đây…

… Khác gì ngư phủ đào nguyên thủa nào.

Bản thân vốn là một con người không màng danh lợi, nhưng đứng trước khung cảnh hoành tráng này, Lê Hữu Trác không tỏ ra miệt thị, phản diện trong cách nhìn nơi mà ông không hề muốn đến này. Trái lại ông vẫn ngợi ca, vẫn ngập tràn xúc cảm trước vẻ đẹp tuyệt vời nơi đây, có được điều này là do Lê Hữu Trác là nhà thơ có tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên, tạo vật, thế sự. Có một điều chúng ta nhận thấy rằng ông nhìn và cảm nhận bằng con mắt khách quan, đứng trước cảnh đẹp thì ông ngợi ca, nhưng không hoàn toán ngợi ca tất cả, dường như đằng sau những dòng thơ này vẫn ẩn chứa một nỗi niềm u hoài của tác giả:

Quê mùa cung cẩm chưa quen

Ông tự coi mình là kẻ quê mùa lạc vào chốn cung đình, có khác gì Đào nguyên lạc vào chốn thần tiên. Cảnh thì đẹp đấy, nhưng lòng người nào có vui gì.

Đoạn trích là những trang kí sự giàu cảm xúc về cảnh giàu sang nơi phủ chúa và bệnh tình của thế tử. Nhưng bên cạnh những dòng hiện thực ấy, người đọc vẫn thấy toát lên trên tất cả là một tâm hồn, một nhân cách cao đẹp của danh y Hải Thượng Lãn Ông. Vốn bản thân không màng công danh, ông đã chọn nơi rừng núi yên tĩnh để sống cuộc sống ẩn dật, lấy chim muông làm bầu bạn, hoa cỏ làm niềm vui. Bởi thế mà Lê Hữu Trác dường như xa lạ trước cuộc sống cung đình. Tuy xa lạ nhưng ông không hề ngơ ngác mà vẫn giữ được cái uy nghi, trầm tĩnh của một ẩn sĩ. Trước hàng ngũ quan lại không hề tỏ ra khúm núm, hay kiêu ngạo khi danh tiếng của mình được nhiều người biết đến. Ngôn ngữ ông dùng thật khiêm nhường: Tôi là kẻ nơi quê mùa, làm sao biết được các vị ở nơi triều đình đông đúc như thế này. Ông còn dũng cảm chỉ ra sự ngu dốt của các quan thái y trong triều, đó là việc ông không nghe theo lời ngụ ý của quan chánh đường mà vẫn hành động theo lương tâm nghề nghiệp của mình, trình đơn thuốc lên thánh thượng. Ông cũng là người thấy được căn bệnh thừa mứa, ngu dốt của bọn ở phù chúa một cách chính xác: Vì Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ… nên phủ tạng yếu đi. Chốn lầu son gác ngọc ấy đã làm cho con người trở nên hao mòn, mất hết nhuệ khí, lại chứa toàn bọn ngu dốt như quan chánh đường và các quan thái y chỉ lo dùng thuốc công phạt theo ý mình. Tỏ ta đây là hiểu biết nhưng chỉ làm cho thế tử ngày càng yếu đi. Thế tử chính là nạn nhân của sự ngu dốt, của sự thừa thãi quá mức nơi phủ chúa. Đó cũng chính là những biểu hiện rõ nét nhất của một triều đại suy đồi đã đến lúc mạt vận, diệt vong, là sản phẩm của một chôn chỉ biết xu nịnh, ăn chơi phè phỡn không lo cho cuộc sống của nhân dân lao động.

Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh

Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh – mẫu 9

Chúng ta không chỉ biết đến Lê Hữu Trác không chỉ là một nhà nghiên cứu y học nổi tiếng mà chúng ta còn biết đến ông với tư cách là một vị quan triều đình giỏi binh thư võ lược và là một nhà văn tài ba. Ông có biệt danh là Hải thượng lãn ông. Các tác phẩm của ông mang đậm màu sắc của y học nhưng đồng thời nó cũng mang những giá trị văn học tiêu biểu. Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào phủ chúa Trịnh không chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ này.

Tác phẩm viết theo thể kí sự. Kí là một thể văn xuôi tự sự khá phát triển từ thời kì văn học trung đại. Tác phẩm kí thường có cốt truyện là sự thực cuộc sống. Người viết kí trung thành với sự thật, khai thác sự thật theo quan điểm cá nhân. Kí là thể văn xuôi tự sự có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự thực lịch sử và cảm xúc của người viết.Đoạn trích được viết bằng chữ Hán miêu tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa và quyền uy thế lực của nhà chúa qua những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp là Lê Hữu Trác được chúa Trịnh sâm triệu về kinh đô chữa bệnh cho chúa và thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm còn thể hiện thái độ kinh thường danh lợi của tác giả.

Đoạn văn đầu tiên tác giả miêu tả lên một bức tranh quang cảnh bên ngoài phủ chúa Trịnh. Quang cảnh ấy được tác giả đi miêu tả từ bao quát đến cụ thể từ ngoài vào trong. Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian. Và cứ thế hình ảnh phủ chúa Trịnh hiện lên qua cái nhìn của tác giả thật sa hoa,tráng lệ. Nào là ngẩng đầu lên, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương. Cảnh vật ấy khiến cho ta có cảm giác, nơi đây là một khu vườn địa đàng nào đó trên tiên giới trong các truyện cổ tích dân gian. Rồi lại đến những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, người qua lại như mắc cửi. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ những nét suy nghĩ chân thành khi có việc liên quan được đặt chân vào một nơi mà chính tác giả cũng nghĩ mình đang ở trong mơ. Tác giả cứ ngẫm mình như một tên nhà quê nghèo nàn lạc hậu lạc vào một chốn bồng lai tiên cảnh như thế này. Vốn không màng đến danh lợi nhưng tác giả vẫn không thể không thốt lên lời khen cho vẻ đẹp nơi đây. Đến hậu hậu mã thì lại càng đẹp hơn nào là cột và bao lươn lượn vàng, nào là nhà đại đường cũng vàng nốt, tất cả các cột đều vàng hết, nhìn vừa trang trọng cổ kính lại vừa đẹp nên thơ. Vào nội cung cảnh càng xa hoa tráng lệ: trường gấm, màn là, xập vàng, ghế rồng, hương hoa ngào ngạt…tất thảy những thứ ấy làm cho phủ chúa thêm lung linh huyền ảo biết bao nhiêu. Tác giả ngẫu hứng làm nên mấy câu thơ về phủ chúa Trịnh:

“Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt

Cả trời Nam sang nhất là đây…

… Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào.”

Chính vì những sang giàu như thế mà nhân dân phải cực khổ biết bao nhiêu. Điều đã cho thấy chúa Trịnh Sâm không hề mảy may đến cuộc sống của nhân dân chỉ biết bóc lột họ để xây nên những thành quách cột vàng đẹp như thế này. Cây cối chim kêu, cột vàng… mọi thứ ấy không biết là bao nhiêu mồ hôi nước mắt của nhân dân. Những cung cách trong cung cũng cho thấy phủ chúa là nơi tôn kính vô cùng, những người lính ở đó mỗi người một việc, lời lẽ thì hết sức cung kính. Thế tử chỉ là một đứa bé sáu tuổi nhưng muốn thế tử cởi áo để khám bệnh thì ngự y phải lạy bốn cái mới được khám. Đến khi tác giả được mời cơm thì than ôi toàn những món của ngon vật lạ.

Có thể thấy chúa trịnh là nơi rất nguy nga lộng lẫy nhưng tác giả cũng phê phán thói sống quá giàu sang, quá đầy đủ tiện nghi mà thiếu đi sinh khí tự do. Chính đó là nguyên nhân gây ra bệnh của thế tử.

Vì Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ… nên phủ tạng yếu đi. Chốn lầu son gác ngọc ấy đã làm cho con người trở nên hao mòn, mất hết nhuệ khí, lại chứa toàn bọn ngu dốt như quan chánh đường và các quan thái y chỉ lo dùng thuốc công phạt theo ý mình. Tỏ ta đây là hiểu biết nhưng chỉ làm cho thế tử ngày càng yếu đi. Thế tử chính là nạn nhân của sự ngu dốt, của sự thừa thãi quá mức nơi phủ chúa. Đó cũng chính là những biểu hiện rõ nét nhất của một triều đại suy đồi và diệt vong. Ông hiểu rõ căn bệnh thế tử nhưng sợ chữa khỏi ngay sẽ bị giữ lại bên chúa, bị công danh trói buộc, thế nhưng nếu chữa bệnh cầm chừng cho thái tử thì lại không đúng với lương tâm của người thầy thuốc vì thế cho nên ông quyết định chữa bệnh cho thế tử. Mặc cho những ý kiến khác của các ngự y ông vân quyết giữ vững lập trường của mình.

Đoạn trích đã vẽ nên bức tranh sinh động, đầy tính hiện thực về cuộc sống xa hoa, uy quyền của chúa Trịnh qua đó bộc lộ thái độ coi thường danh lợi của tác giả. Qua đó ta càng thấy lối sống xa hoa của những bậc vua chúa ngày xưa và thêm kính trọng người thầy thuốc, nhà kí sự tài ba Hãi Thượng Lãn Ông.

Phân tích Vào phủ Chúa Trịnh – mẫu 10

Thời xưa những người tài giỏi thì thường chúa ghét vòng danh lợi họ chỉ giúp vua một thời gian rồi về ở ẩn với nhân dân giúp đỡ nhân dân trong cuộc sống hàng ngày. Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao”

Có thể nói rằng sự lánh đục tìm trong ấy là cách xuất xử của biết bao nhiêu bậc nho sĩ, người tài. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác cũng vậy, chúng ta được biết đến ông là một người lười làm quan, biếng danh lợi. Về ở ẩn ông không những là một người thầy thuốc giỏi mà còn là một nhà văn. Tác phẩm tiêu biểu của ông được nhiều người biết đến là tác phẩm vào phủ chúa Trịnh. Trong tác phẩm này Lê Hữu Trác đã phê phán những thói ăn chơi sa đọa của bậc vua chúa. Nơi đây không khác gì cho những bậc thánh ở.

Đoạn trích được rút trong tập thượng kinh kí sự, là một quyển cuối cùng trong bộ Hải thượng y tông tâm lĩnh, đánh dấu sự phát triển của văn học ( Văn xuôi tiếng Việt, thể ký). Tác phẩm ghi nhận những điều mắt thấy tai nghe khi tác giả được mời vào kinh chữa bệnh cho Thế tử Cán cho tới khi ông về lại Hương Sơn.

Vào phủ chúa trịnh ghi lại thời điểm: Sau khi ông vào kinh, đang tá túc tại nhà Quận Huy Hoàng Đình Bảo thì ông được mời vào phủ chúa Trịnh để xem bệnh cho Thế tử Cán. Đây là lần đầu tiên ông bước chân vào chốn thâm nghiêm này.

Nhà văn đi vào chữa bệnh cho thái tử Trịnh Cán và thu vào mắt mình cái quang cảnh và cung cách trong phủ chúa Trịnh.

Trước hết là quang cảnh trong phủ chúa Trịnh, thu vào mắt tác giả là những quang cảnh của cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm. quả thật đây là một nơi sang trọng bậc nhất thiên hạ. Vào phủ chúa phải trải qua biết bao nhiêu là cửa sự trang nghiêm nơi đây thật sự khiến cho người ta rụt rè chân bước ” Hậu mã quân thúc trực” để cho chúa sai việc. Bên trong cửa phủ thì có những “đại đường”, “quyền bổng”, “gác tía” với kiệu son, võng nghi lộng lẫy. tất cả mọi thứ đều được mạ vàng. Từ những chiếc cột cho đến những mâm bát chén cũng đều như được dát vàng. Ở đây ta thấy được những cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Không hiểu tại sao sống trong cảnh giàu sang vinh hoa ấy mà Trịnh Cán lại có thể bị bệnh cơ chứ.

Cái sự sang trọng ấy được nhà văn miêu tả và nhận xét là “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”. Đến nội cung của Thế tử thì phải qua biết mấy lần trướng gấm. Trong căn phòng của thế tử cũng có nhiều thứ rất sang trọng mà người đời mấy ai được xem qua. Nào là trướng là gấm rồi lại đến những sập cũng sơn son thiếp vàng, ghế rồng hương hoa bay ngào ngạt. Có thể nói đây chính là thiên đường trên mặt đất không đâu sánh bằng cái vẻ nguy nga lộng lẫy ấy. Thật sự là khiến cho người ta đau lòng vì khi nhân dân thì đang khổ sở với cuộc sống thì chúa cái người mà đứng ra cai quản lại có thể ăn chơi xa đọa trước những vất vả của nhân dân như vậy. Thử hỏi rằng triều đại ấy cái trị được bao nhiêu lâu, ngồi mát ăn bát vàng không lo cho dân chúng thì liệu có bền được không?.

Không chỉ quang cảnh mà đến cung cách trong cung cũng được nhà văn chú ý miêu tả. nào là “đầy tớ chạy trước hết đường”, rồi lại đến “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Quả thật đây đúng là một chốn lao xao mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói. Lời nói của mọi người khi nhắc đến thế chúa và thế tử đều rất cung kính, lễ độ. Riêng chúa Trịnh lúc nào cũng có những cung tần mĩ nữ xung quanh để hầu hạ. Chúa giống như những bậc thánh khiến cho nhà văn cũng không được gặp mặt chúa mà chỉ làm theo chỉ dẫn để vào cung thăm bệnh cho thế tử Trịnh Cán mà thôi. Khi xem bệnh xong thì không được trao đổi với chúa mà phải viết giấy khai đưa lên. Còn riêng phần thế tử thì khi bị bệnh lại có rất nhiều tầm bảy, tám ngự y thúc tục vây quanh. Không những thế nếu muốn khám bệnh cho thế tử thì những ngự y kể cả đã già lắm rồi cũng phải quỳ lạy dưới một đứa trẻ con. Không chỉ vậy mà người gọi chúa Trịnh là thánh thượng, các chữ “thánh” ấy phải chăng chúa Trịnh đang quá lạm dụng quyền hành của mình.

Trước những quang cảnh và cung cách trong phủ chúa ấy khiến cho tác giả thể hiện quan điểm của mình. Tác giả dửng dưng trước những quyến rũ của giàu sang phú quý bởi vì nó được xây đắp bởi xương máu của nhân dân làm ra. Và tác giả dùng những câu văn thể hiện sự không đồng tình của cảnh sống xa hoa nơi đây. Qua cách nói mỉa mai châm biếm của tác giả, ta thấy : Sự lộng quyền của nhà chúa với quyền uy tối thượng và nếp sống hưởng thụ cực kỳ xa hoa của chúa Trịnh cùng gia đình; sự thật bù nhìn của vua Lê khi ấy. Thế tử Trịnh Cán bị bệnh là do nơi đây quá đầy đủ khiến cho con người không thể khỏe mạnh bình thường được. Khi các ngự y không đồng tình với đơn thuốc mà tác giả kê thì ông đã nhất quyết bảo vệ đơn thuốc ấy. Chính vì thế mà các ngự y khác phải khâm phục trước kiến thức và tài năng của nhà văn.

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 11

Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Cách đây 40 năm về trước, mặc dù miền Bắc XHCN khi đó đang nặng hai vai gánh cả non sông vượt dặm dài, vừa là hậu phương lớn chi viện tích cực cho các chiến trường với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, vừa là tiền tuyến đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo vẫn không ngừng phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt và sự nghiệp tái thiết đất nước lâu dài sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu của công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch các vùng kinh tế mới,vùng chuyên canh, xây dựng các nông trường, Bộ Nông trường ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) đã có Quyết định số 115 QĐ/TC ngày 05 th áng 9 năm 1968 về việc mở Lớp công nhân đo dạc - tiền thân của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung ngày nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button