Văn mẫu lớp 11

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo (dàn ý – 5 mẫu)

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo (dàn ý – 5 mẫu)

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo (dàn ý – 5 mẫu)

Bài văn Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo gồm dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 5 bài văn phân tích mẫu hay nhất, ngắn gọn được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 11. Hi vọng với
5 bài phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo này các bạn sẽ yêu thích và viết văn hay hơn.

Đề bài: Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.

Bạn đang xem bài: Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo (dàn ý – 5 mẫu)

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – Cô Lê Minh Nguyệt (Giáo viên VietJack)

Dàn ý kenkenpham

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo: Đại diện cho khuynh hướng hiện thực. Chí Phèo là một đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng này

– Bằng ngòi bút hiện thực, Nam Cao đã khắc họa thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

II. Thân bài

1. Thế nào là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người?

– Bi kịch: Sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực đời sống với khát vọng con người

– Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Sự mâu thuẫn giữa khát vọng quay trở lại làm một con người, khát khao được đối xử như một con người nhưng không được của Chí Phèo

2. Bi kịch được thể hiện ngay trong tiếng chửi của Chí đầu truyện

– “Hắn vừa đi vừa chửi..”.: sự xuất hiện tự nhiên

– Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên:

+ Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi

+ Đằng sau đó thấy Chí Phèo là nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi là người bình thường

⇒Chí Phèo mong muốn được giao cảm với cuộc đời, nhưng không ai đáp lại, không ai coi hắn như một con người

3. Bi kịch bị khước từ “quyền làm người” ngay từ khi sinh ra

– Ngay từ khi sinh ra, Chí Phèo đã không được đối xử như một con người :

+ Không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dúi cũng không có

+ Bị bỏ rơi tại lò gạch cũ giữa cánh đồng mùa đông

+ Tuổi thơ sống trong bất hạnh

+ Đã từng ước mơ lương thiện nhưng xã hội bóp chết ước mơ lương thiện ấy

⇒Chí Phèo đáng thương đã không được đối xử như một đứa trẻ bình thường ngay từ khi mới sinh ra đã bị chối bỏ

4. Bi kịch tha hóa là cơ sở dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

– Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:

+ Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.

+ Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”

– Hậu quả của những ngày ở tù:

+ Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm”⇒Chí Phèo đánh mất nhân hình.

+ Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến⇒Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.

– Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù⇒Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến

⇒Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông dân bị đè nén đến cùng cực

5. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

– Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội .

– Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:

+ Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở

+ Sau Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.

– Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí:

+ Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống.

+ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người

⇒Chí Phèo là tiêu biểu cho số phận người nông dân trong xã hội cũ bị chèn ép, đẩy vào bước đường cùng

– Khái quát lại những nét đặc sắc nghệ thuật góp phần thể hiện thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

– Khẳng định đây là bi kịch chung cho những người nông dân trong xã hội cũ

III. Kết bài

– Khái quát lại bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.

– Nêu cảm nhận, đánh giá của em về bi kịch.

Sơ đồ kenkenpham

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – mẫu 1

Khi Đôi lứa xứng đôi (tức Chí Phèo) xuất hiện trên văn đàn (1941) thì văn học hiện thực phê phán đã qua một thời kỳ phát triển rực rỡ. Là người đến muộn, nhưng Nam Cao đã tự khẳng định mình bằng những khám phá nghệ thuật mới mẻ, đem đến cho văn học đương thời một tiếng nói riêng đặc sắc.

Hơn năm mươi năm đã trôi qua, tác phẩm Chí Phèo ngày thêm được khẳng định, được khám phá từ những góc độ mới mẻ và chắc chắn sẽ tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử văn học Việt Nam như một tác phẩm ưu tú.

Dưới một ngọn bút tài hoa, linh hoạt, giàu biến hoá: khi kể, khi tả, khi sắc lạnh tàn nhẫn, lúc hài hòa bỡn cợt, lúc trữ tình thắm thiết, khi triết lý sắc bén, khi quằn quại đau đớn. cuộc sống cứ hiện lên với biết bao tình huống, bao cảnh ngộ, bao chi tiết sống động. Đôi khi, chỉ một cử chỉ, một lời nói, một phác thảo đơn sơ. mà hiện lên một chân dung, lộ nguyên hình một tính cách. Cứ thế, tác phẩm tạo nên một sức lôi cuốn hấp dẫn từ dòng đầu tiên cho đến dòng kết thúc. Gấp sách lại rồi, ta vẫn bị ám ảnh không thôi bởi tiếng kêu cứu của một con người bị tước mất quyền làm người. Một tiếng nói khát khao muốn trở về lương thiện nhưng bị chặn đứng ở mọi nẻo, và một kết thúc bi thảm đắng cay.

“Bi kịch của một con người bị khước từ quyền làm người” đó là chủ đề xuyên suốt toàn bộ hình tượng của tác phẩm, được nhà văn đặt ra như một tiếng kêu cứu thảm thiết, bức xúc, tạo nên giá trị nhân đạo đặc sắc của tác phẩm Chí Phèo.

Khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ. của người nông dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nam Cao trăn trở, băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc, bức xúc hơn cả đói rét bần cùng, đó là hiện thực về sự tha hóa, một mối đe dọa thảm khốc trong xã hội đương thời; về nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp bởi cả một guồng máy thống trị bạo tàn. Vấn đề nhân phẩm, vấn đề quyền con người được đặt ra, chi phối cảm hứng sáng tạo trong nhiều sáng tạo của Nam Cao, trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện trực tiếp, tập trung và mãnh liệt hơn cả.

Mở đầu tác phẩm là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng trên đường say, đập vào ý thức người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Hãy nghe nhà văn miêu tả: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”.

Đây là tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi trong vô thức, con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh.

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – mẫu 2

Soi vào cuộc đời nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao, ta chỉ thấy một bức tranh u tối mà người họa sĩ vẽ ra nó mang tên bi kịch. Có thể nói, con số không đã gói trùm lên lá số tử vi của cuộc đời Chí. Bi kịch về cuộc đời Chí đã xuyên suốt toàn tác phẩm và nếu như phải chọn một nhan đề khác, có lẽ Nam Cao đã đặt tên tác phẩm của mình là “Bi kịch”. Và đỉnh điểm bi kịch mà Chí Phèo phải chịu đựng ấy là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.

Trước tiên, ta cần hiểu bi kịch là gì? Bi kịch là mâu thuẫn giữa hiện tại và khát vọng. Hiện tại không có khả năng giúp cá nhân thực hiện khát vọng từ đó đẩy những cá nhân đến hoàn cảnh bi đát. Chí Phèo muốn được trở thành người lương thiện nhưng sau khi ra tù, hắn đã bị gạt phăng ra khỏi cuộc đời bằng phẳng. Đau đớn hơn, cuộc đời ấy có những người đã từng cưu mang Chí. Cái tên “Chí Phèo” chứa đầy sự coi thường, khinh bỉ. Trong con mắt ghê sợ của dân làng Vũ Đại, Chí Phèo quái đản với người, lạc loài với vật, hắn không phải là một con người. Trong tiếng chửi mở đầu tác phẩm, đối tượng tiếng chửi ngày càng thu hẹp dần. Như vậy có thể thấy, con người triền miên say ấy vẫn ý thức rõ về sự đơn độc của mình. Hắn thèm được ai đó chửi vì chửi hắn có nghĩa là vẫn có người còn công nhận hắn là con người. Ta có thể hình dung ra một kẻ cô đơn, một kẻ khốn khổ cứ đi giữa cuộc đời để mà chửi, để mà kêu gào, để mà được công nhận. Nhưng cuộc đời tuyệt nhiên vẫn im lặng với hắn. Sự im lặng ấy thật đáng sợ vì đó là sự im lặng của đoạn tuyệt và ruồng bỏ. Nhưng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người chỉ được đẩy đến đỉnh điểm khi Thị Nở cũng ruồng bỏ Chí.

Có thể nói, nguyên nhân của sự ruồng bỏ ấy là do bà cô. Nhân vật đại diện cho định kiến. Cuộc đời bằng phẳng mà Chí muốn quay về chứa đựng đầy rẫy những định kiến và chính những định kiến ấy đã chặn đứng con đường về của Chí. Qua những lời chửi mắng Thị Nở, bà cô đã cự tuyệt lại khao khát hoàn lương của Chí Phèo. Như vậy, nếu cái ác đã đẩy Chí Phèo vào con đường lưu manh hóa, thì nay định kiến đã đẩy Chí Phèo vào bi kịch thứ hai của cuộc đời.

Nếu như muốn tìm hiểu về bi kịch bị cự tuyệt, ta không thể không tìm hiểu về Thị Nở. Thị là một người xấu, nghèo, vô duyên, lại có mả hủi. Nhiều người đã nhận xét rằng Nam Cao đã xây dựng một hàng rào dây thép và rắc vôi xung quanh nhân vật này. Nam Cao gọi Thị Nở là “con vật rất tởm”. Thế nhưng, con vật ấy cũng ruồng bỏ Chí. Đây chính là bi kịch. Nhiều người từng nói Nam Cao đã quá tay trong việc miêu tả Thị Nở xấu như vậy. Nhưng Thị Nở càng xấu, tính bi kịch càng tăng. Vốn dĩ Nam Cao xây dựng nhân vật Thị Nở không phải để cười cợt mà là để cảm thông.

Khi Chí Phèo hiểu những gì Thị Nở nói với mình, hắn ngây người choáng choáng. Cái cảm giác của một người đang bay bổng trong hạnh phúc tình yêu bỗng bị rơi xuống đáy sâu tuyệt vọng. Điều đó khiến Chí bị tê liệt mọi cảm giác. Qua đây, người đọc cũng phần nào thấy được sự am hiểu của Nam Cao trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Khi Thị Nở bỏ đi, Chí Phèo đuổi theo, gọi lại, thậm chí còn cầm tay Thị Nở. Điều này làm dâng lên trong người đọc nỗi xót xa. Chí Phèo ý thức được mình giống như một người sắp chết đuối trên dòng sông tuyệt vọng. Hắn luôn khao khát được trở về cuộc đời bằng phẳng. Và đối với Chí, Thị Nở đóng vai trò như chiếc phao cứu sinh, như một cây cầu, một cánh cửa để đưa hắn về với cộng đồng – nơi mà hắn đã từng bước chân ra đi. Nhưng phao cứu sinh đã bị cướp mất, cây cầu đã bị rút lại, cánh cửa đã bị đóng sầm trước mặt Chí. Mọi sự như đã được đặt một dấu chấm hết. Chí Phèo uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh, càng uống càng đau và càng uống thì hơi cháo hành càng hiện ra. Hơi cháo hành đại diện cho tình thương, nó cứ hiện lên trong lòng Chí một nỗi day dứt không nguôi. Và như thể có điều gì đau đớn không chịu nổi khi nhà văn miêu tả một người đàn ông mà trước đó được biết đến như một con quỷ nay lại bơ vơ, cô độc trên con sông tuyệt vọng mà ôm lấy mặt mình khóc rưng rức.

Và từ tuyệt vọng, Chí đã cầm dao giết Bá Kiến bởi hắn biết cả bà cô và Thị Nở đều không có lỗi. Ta vẫn nhớ rằng Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia xuất phát từ cuộc sống lầm than”. Vậy phải chăng “tiếng đau khổ” ấy lại chính là câu hỏi “Ai cho tao lương thiện” của Chí Phèo. Câu hỏi ấy là câu hỏi mang tính thời đại, gieo vào lòng người biết bao xót xa, đau đớn, day dứt và ám ảnh vô cùng. Cái chết của Chí Phèo là cái chết đầy bi thảm. Chí Phèo sinh ra không ai vui vẻ, khi chết đi không ai khóc thương. Đây chính là bi kịch. Và bi kịch lại chồng lên bi kịch khi Chí Phèo phải chết trên ngưỡng cửa trở thành con người lương thiện. Đây là bi kịch lớn nhất trong cuộc đời của Chí. Qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao đã tố cáo xã hội tàn ác bất công khi không chỉ cướp đi những điều Chí Phèo có mà còn cướp đi những gì Chí Phèo muốn. Cùng với đó, ta cũng có thể thấy được khát vọng của tác giả về việc nhân dân có thể vùng dậy đấu tranh và niềm tin vào bản chất lương thiện của con người.

Với tất cả những điều trên, người đọc dù có gấp lại trang sách thì những xót xa, những day dứt về một con người khốn khổ khi bị cự tuyệt quyền làm người vẫn không thể nguôi ngoai. Bằng tài năng của mình, Nam Cao đã tạo ra một kiệt tác không chỉ trong văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 mà còn là kiệt tác của văn học Việt Nam hiện đại.

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – mẫu 3

Trong giai đoạn văn học 1930- 1945, chủ yếu các tác giả đều viết về số phận những người nông dân, nhưng mỗi người đều có lối viết, lối khai thác các nhân vật của riêng mình. Còn riêng Nam Cao, ông lại muốn tìm tòi, khai thác về nỗi khổ của những người nông dân lương thiện. Nam Cao sinh ra trong 1 gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, cả cuộc đời ông vất vả lận đận, ông là người giàu tình yêu thương, nặng ân tình đặc biệt là đối với những người nông dân nghèo khổ bị áp bức. Năm 1951, Nam Cao hy sinh, ông xứng đáng là 1 nhà văn- chiến sĩ, có thể coi là ngòi bút đại thụ của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm “Chí Phèo” đã trải qua 3 lần đổi tên, nhan đề đầu tiên là “Cái lò gạch cũ”, sau khi được in thành sách nhà xuất bản đã tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này, Nam Cao mới đổi lại tên thành “Chí Phèo”, tác phẩm được coi là kiệt tác của nhà văn

Để hiểu rõ được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí phèo, người đọc phải hiểu được bi kịch là gì? Bi kịch là nỗi buồn, các nhà văn thường khai thác từ những mâu thuẫn xung đột gay gắt và thường kết thúc bằng cái chết của nhân vật chính. Trong truyện ngắn “Chí phèo”, tác giả không chỉ đi sâu vào khai thác mâu thuẫn giai cấp mà còn khai thác cả mâu thuẫn trong chính nhân vật. Chí phèo được sinh ra là con người với đầy đủ các bản chất của 1 người bình thường, có dự định, ước mơ, là 1 người nông dân hiền lành lương thiện, biết phân biệt tốt xấu đúng sai. Nhưng rồi sau đó, Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, tha hóa, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loài người. Để rồi sau đó, khi hắn muốn quay trở lại làm 1 con người lương thiện thì lại bị từ chối phũ phàng và cuối cùng hắn chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời

Ngay từ khi sinh ra, Chí đã bị bỏ rơi, được 1 anh thả ống lươn nhặt được trong buổi sáng sớm tinh sương ở lò gạch bị bỏ không ngoài đồng vắng. Con người đến với cuộc đời như bị quăng ra đấy, bơ vơ, trơ trọi. May thay, nhờ sự cưu mang, đùm bọc của người dân làng Vũ Đại mà hắn đã được sống, được trở thành người nông dân hiền lành lương thiện, giàu tự trọng. Nhưng vì ghen tuông vu vơ mà lí Kiến đã đẩy hắn đi tù, nhà tù thực dân đã biến hắn trở thành kẻ “trông đặc như 1 thằng săng đá” rồi sau đó bá Kiến thực hiện tốt công đoạn cuối cùng là biến Chí trở thành tay sai của mình. Chí Phèo bị lợi dụng, trở thành kẻ chuyên đi đâm thuê chém mướn, mỗi ngày hẳn bán rẻ linh hồn mình cho quỷ bằng vài đồng vài hào để rồi cuối cùng hắn biến mình thành 1 con quỷ thật sự “Nhìn mặt hắn người ta không đoán được là bao nhiêu tuổi, nó vàng vàng mà lại sạm màu gio, nó lằn ngang lằn dọc không biết bao nhiêu là vết sẹo “rồi hắn còn suốt ngày sau rượu” cứ rượu vào là hắn chửi”. Trong tiếng chửi lảm nhảm của Chí còn lã nỗi cô độc, hắn khao khát được giao tiếp với mọi người dù chỉ là tiếng chửi, nhưng chẳng ai đáp lại hẳn, chẳng đi chấp nhận hẳn, bởi vì “hắn đã đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát biết bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu con người lương thiện” Nhưng hắn làm nhiều điều ác như vậy bởi vì hắn lúc nào cũng say. Cũng viết về những người nông dân nhưng Nam Cao không khai thác theo lối mòn cũ là khổ vì sưu cao thuế nặng, khổ vì nghèo đói mà Nam Cao khai thác nỗi đau tinh thần của con người. Bị tàn phá mất nhân hình, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loài người.

Và có lẽ, cuộc đời hắn sẽ cứ như vậy nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở đã đến với hắn, cho hắn cảm nhận được tình yêu thương, cho hắn biết yêu và được yêu, lần đầu tiên hắn được “1 người đàn bà cho”. Hắn yêu thị, muốn làm nũng với thị như với mẹ, và lúc này hắn đã hoàn toàn tỉnh táo, phần linh hồn người của hắn đã trở về nhờ có thị Nở. “Chao ôi! Muốn làm hòa với mọi người biết bao “hắn lập luận rất đơn giản là lại chặt chẽ, hắn hi vọng Thị sẽ là cầu nối cho hắn trở về với cuộc đời bằng phẳng lương thiện. “Thị Nở có thể sống yên ổn với hẳn thì tại sao mọi người lại không thể, rồi mọi người sẽ thấy hắn chả làm hại ai rồi sẽ từ từ tiếp nhận hắn trở về với cuộc sống bằng phẳng”. Hắn lại hy vọng, lại ước mơ về 1 gia đình hạnh mà có thị Nở. Nhưng hy vọng chẳng kéo dài được lâu, thị chợt nhớ ra ở nhà còn có 1 bà cô và thị muốn quay trở về để hỏi ý kiến bà cô. Nhưng bà cô đã không chấp nhận Chí bởi nghĩ hắn là thằng không cha không mẹ, suốt ngày chỉ đi ăn vạ, đâm thuê chém mướn. Cầu nối đưa hắn đến với cuộc đời đã gãy, cánh của cuộc đời đóng sầm lại ngay trước mặt hắn. Ở đây, Nam Cao đã khéo léo lồng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người vào bi kịch bị cự tuyệt tình yêu. Nếu như lúc trước hắn khổ nhưng ít nhất lúc đó hẳn cũng say, không nhận thức được. Còn bây giờ hắn đã tỉnh, nỗi khổ nhân lên thành niềm thống khổ, chẳng còn 1 ai có thể đón hắn đến với cuộc đời nữa rồi

Tác giả đã sử dụng ngòi bút diễn tả tâm lí nhân vật bậc thầy, tác giả còn đưa cả ngòi bút của mình cho chính nhân vật, để nhân vật có thể tự nói lên được sự đau khổ. Lúc nghe thị trút hết tức giận lên đầu hắn, hẳn từ từ hiểu rồi “ngẩn người”, hắn hụt hẫng bàng hoàng, thoáng thấy 1 hương cháo hành thoảng qua mũi. Rồi khi thị đi, hắn đã nắm tay níu kéo thị, hắn níu kéo sợi dây cuối cùng cứu vớt cuộc đời hắn nhưng thị Nở lại dứt khoát tuyệt tình, hắn rơi vào tình trạng tuyệt vọng, hắn đau đớn mà khóc lóc. Rồi hắn lại tìm tới rượu, nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh, hương rượu hòa lẫn mới mùi thơm cháo hành khiến hắn càng đau đớn. Rồi hắn quyết định vác dao ra đi, hăn lảm nhảm là sẽ đi tới nhà thị để giết bà cô nhưng cuối cùng hắn lại đi tới nhà bá Kiến, có lẽ bởi vì hắn ý thức được ai mới là người đẩy hắn tới nước này. Trước mặt tên cáo già bá Kiến, Chí đã nói những lời hoàn toàn tỉnh táo, dõng dạc “Tao muốn làm người lương thiện”, câu nói thể hiện được khát vọng muốn hoàn lương, trở về với xã hội loài người. Tuy nhiên, chính lúc này, Chí đã thấm thía được bi kịch của cuộc đời mình rằng hắn sẽ không bao giờ có thể quay trở về cuộc đời lương thiện được nữa rồi. Ai sẽ cho hắn lương thiện? Ai sẽ giúp hắn làm người lương thiện? Đau đớn căm thù kẻ đã hại mình, Chí rút dao ra, “chém túi bụi vào người bá Kiến” rồi hắn cũng tự tử, Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời

Có thể nói, Nam Cao đã rất thành công trong việc khai thác nỗi khổ về mặt tinh thần, nỗi đau về thể xác của những người nông dân xưa. Kết hợp với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên mà sống động càng làm tôn lên tài năng của Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả muốn gửi gắm lòng đồng cảm sâu sắc với bi kịch của nhân vật, niềm tin về bản chất hiền lành lương thiện của con người sẽ luôn còn đó. Hơn nữa, tác phẩm được viết lên như 1 lời kêu cứu, cứu lấy quyền làm người, cứu lấy quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc lứa đôi của con người.

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – mẫu 4

Còn điều gì đau đớn và xót xa hơn khi ta vẫn hiện hữu trong cộng đồng, nhưng lại bị chính cộng đồng đó ruồng rẫy, bỏ mặc, đó là bi kịch đau xót nhất của con người – bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Bằng ngòi bút sắc sảo của một nhà văn hiểu đời và hiểu người, Nam Cao đã tái hiện chân thực, đầy xúc động bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên.

Mở đầu ta không thấy chân dung bất cứ ai, chỉ có tiếng chửi là văng vẳng vang lên ngay từ đầu tác phẩm. Vì sao mà người đó phải chửi ? Vì sao tiếng chửi lại cay nghiệt, phẫn uất đến vậy ? Đó chính là tiếng chửi của Chí Phèo sau khi đi uống rượu say về, hắn chửi trời, chửi đời, rồi chửi làng Vũ Đại, chửi những đứa không chửi nhau với hắn, ngay cả người đẻ ra hắn hắn cũng không ngần ngại chửi. Nhưng chỉ có một mình Chí độc thoại, không có bất cứ ai đáp lại vì nghĩ Chắc nó trừ mình ra. Thành thử ra chỉ có tiếng chó sủa hòa với tiếng một kẻ say đang chửi. Bi kịch của Chí ngay từ đầu đã được tác giả khơi mở. Để rồi sau đó ngược về quá khứ, thấy được những bi kịch nối dài cuộc đời Chí Phèo, mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn, khổ sở hơn bi kịch trước.

Chí Phèo ra đời ở một cái lò gạch cũ cũ hoang, được một anh thả ống lươn mang về nuôi. Ngay từ khi sinh ra Chí đã bị người mẹ đẻ của mình cự tuyệt quyền sống, quyền được làm người. Dù được cứu nhưng Chí cũng phải sống lang thang hết nhà này đến nhà khác. Cuộc đời Chí không nhà không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không tấc đất cắm dùi. (Nguyễn Hoàng Khung ). Từ khi sinh ra cuộc đời Chí đã là một bi kịch.

Khi lớn lên, là một anh nông dân khỏe mạnh, Chí đi làm thuê cho gia đình Bá Kiến, Chí hiền như đất, nhưng lại liên tục bị bà ba gọi lên bóp chân, trong lòng Chí chỉ thấy nhục, người ta không thích những thứ người ta khinh. Nhưng Chí lại bị con quỷ dâm đãng Bá Kiến bắt gặp, hắn ta đã tống Chí vào nhà tù thực dân cho thỏa nỗi ghen tuông. Bi kịch thứ hai đổ ập xuống đầu Chí. Nhà tù thực dân với những ngón đòn độc ác, dã man đã biến Chí thành người khác hẳn, từ một người lương thiện Chí biến thành kẻ lưu manh: cái răng cạo trắng hớn, cái mắt gờm gớm,. khiến ai cũng phải sợ hãi. Hắn uống rượu say, đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ và cuối cùng trở thành tay sai cho Bá Kiến. Hắn làm mọi việc mà Bá Kiến sai khiến, hắn đã phá vỡ hạnh phúc biết bao gia đình làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện. Chí Phèo chìm sâu vào hơi men, nhân tính và nhân hình ngày càng bị dìm xuống đáy. Chẳng ai còn nhận ra anh Chí Phèo hiền lành như đất của ngày xưa. Cuộc đời Chí trải qua hết cơn say này đến cơn say khác : Từ đấy, hắn bao giờ cũng say. Những cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác [. ] thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt [. ] Chưa bao giờ hắn tỉnh [. ] Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại đã tác quái cho bao nhiêu dân làng. Đời Chí Phèo trượt dài trên vũng lầy ấy. Giá thử Chí Phèo vẫn tiếp tục say, vẫn tiếp tục rạch mặt ăn vạ thì có lẽ Chí cũng tự quên đi bi kịch của chính mình. Nhưng không, Chí Phèo đã gặp ánh sáng của đời mình – Thị Nở, người đã khiến Chí nhận ra bi kịch của chính mình mà bấy lâu nay hắn cố tình không nhận ra hoặc hơi men đã khiến hắn quên mất.

Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo không ý thức được bi kịch của đời mình. Nhưng khi gặp thị Nở, nhận được sự quan tâm, chăm sóc đầy ân tình mà rất đỗi giản dị, đã làm thức dậy bản chất lương thiện trong Chí Phèo. Buổi sáng sau hôm gặp Thị Nở, lần đầu tiên trong suốt bao năm Chí nghe thấy những âm thanh quen thuộc của sự sống: tiếng chim hót, tiếng người ta đi chợ,. âm thanh thân thương và ấm áp quá. Âm thanh ấy gợi về trong Chí những ngày xưa bình dị, khi Chí còn là một người bình thường, với những mong ước giản đơn. Chí giật mình trở về hiện tại nhận thấy hiện tại và tương lai cô độc, đói rét. Chí rùng mình sợ hãi. Đặc biệt khi thị Nở mang bát cháo hành sang cho chỉ, bằng những cử chỉ ân cần mà hết sức tự nhiên, Chí Phèo thực sự xúc động, hắn thấy mắt mình ươn ướt. Tình yêu thương ấy đã giúp phục sinh con người vốn tưởng đã trở thành con quỷ, đã trở nên tha hóa nay phần nhân tính đã trở về. Trong Chí cũng thức dậy khao khát được làm hòa với mọi người, được làm người lương thiện. Bằng ngòi bút phân tích tâm lí đặc sắc, độc đáo Nam Cao đã nhận ra phần bản chất đẹp đẽ nhất của người nông dân sẽ không bị hủy diệt dù họ có bị vùi dập, tàn phá về thể xác.

Nhưng còn gì đau đớn hơn, khi Chí đã sẵn sàng quay trở lại ngưỡng cửa của một con người bình thường, làm người lương thiện thì định kiến tàn nhẫn đã đóng sầm cánh cửa hi vọng của Chí. Chí bị cự tuyệt quyền làm người một cách đau đớn, phũ phàng. Lời bà cô chính là điển hình cho cực định kiến, đẩy Chí vào con đường tuyệt vọng : đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chi biết rạch mặt ăn vạ. Hạnh phúc mong manh vừa hé mở thì đã bị xã hội độc đoán bóp nghẹt. Bi kịch lần này đau đớn hơn, khổ sở hơn bởi Chí đã ý thức được bi kịch của chính mình, Chí tỉnh táo để nhận ra rằng ngay cả khi bản thân sẵn sàng thay đổi để hòa nhập với cộng đồng thì họ vẫn chặn đứng Chí. Bởi vậy, Chí chỉ còn một cách duy nhất đó là giết tên đã gây nên bi kịch cho mình và tự giết chính mình. Chí chết đi, để giết chết nhân hình tha hóa, để giữ lại phần nhân tính đã thức tỉnh.

Bi kịch cuộc đời Chí là do nhà tù thực dân, là do xã hội với những định kiến lỗi thời và cũng là do chính bản thân Chí. Với bi kịch bị cự tuyệt làm người một lần nữa Nam Cao khắc sâu hơn nỗi đau của người nông dân khi bị đẩy đến bước đường cùng. Đồng thời cũng cho thấy niềm tin của tác giả vào sự cảm hóa và bản chất người trong mỗi chúng ta. Qua đây cũng cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nam Cao.

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – mẫu 5

Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng. Sau Cách mạng, ông hăng hái tham gia làm báo kháng chiến. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.

Chí Phèo là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam trước Cách mạng. Bằng ngòi bút sắc sảo, nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc, Nam Cao đã làm nổi bậc tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo.

Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã lí giải thành công nguyên nhân vì sao người nông dân hiền lành bị tha hóa từ nhân tính đến nhân hình một cách tàn tệ đến vậy.

Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo trải qua hai giai đoạn. Mỗi giai đoạn là một bước chuyển biến mạnh mẽ sức sống trong nhân vật.

Thứ nhất, từ một anh nông dân hiền lành như cục đất Chí Phèo bị đẩy vào tù. Không tội lỗi gì, bất ngờ Chí bị đẩy vào vòng lao lí, bị tước đoạt quyền sống. Bước ra khỏi nhà tù, Chí Phèo trở thành một “con quỷ” gớm ghiếc, côn đồ và tàn bạo.

Thứ hai, khi Thị Nở đánh thức khát vọng sống lương thiện và mong muốn trở lại với mọi người, Chí Phèo lại hiền lành như lúc ban đầu. Cánh cửa bước vào cuộc đời rộng mở trước mắt Chí Phèo. Thế nhưng, trớ trêu thay, chỉ vì sự cản trở của bà cô, Thị Nở đã đoạn tuyệt tình nghĩa với Chí sau năm ngày chung sống hạnh phúc. Chí Phèo hụt hẫng, bất lực và bế tắc. Cánh cửa phục thiện đóng sầm trước mặt hắn, lạnh lùng và tàn nhẫn. Một lần nữa, Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người. Bi kịch cuộc đời Chí Phèo bị đẩy đến mức cùng cực.

Khắc họa tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã tỏ ra rất vững vàng và bản lĩnh. Lần đầu tiên trên trang văn, người ta thấy một kẻ dị dạng nhân hình bước ngật ngưỡng trong cơn say. Lần đầu tiên, người ta thấy một nhân vật bị hủy hoại tàn bạo và khủng khiếp đến như vậy. Nhân vật Chí Phèo đã thực sự mất hết tính người, sống bằng kiếp thú vật, hoàn toàn bản năng. Chí Phèo ngập ngụa trong cơn say triền miên từ ngày này qua ngày khác. Không có sự đê hèn và tàn ác nào mà Chí Phèo không dám làm.

Nam Cao đã dũng cảm ghi nhận hiện thực cuộc sống dù biết rằng dó là một hiện thực tàn nhẫn có thể khiến người ta thấy đau lòng và khiếp sợ. Ông không hề lảng tránh hay tô vẽ nó bằng sắc màu giả tạo của nghệ thuật ngôn từ. Ông muốn mỗi trang văn phải là “cái sự thật ở đời” chân thực và chính xác.

Không để nhân vật rơi vào sự tầm thường, dung tục, Nam Cao đã phát hiện vẻ đẹp ẩn sâu bên trong họ. Bên trong cái điên cuồng của Chí Phèo là khát vọng lương thiện bị đè nén khủng khiếp. Nó thôi thúc con người vươn lên tìm kiếm nguồn sống. Nhưng trước những trở lực quá lớn của xã hội thực dân nửa phong kiến, nó không có cách nào khác là phản kháng một cách tiêu cực. Sự phản kháng tự phát ấy không mang lại kết quả tốt đẹp nào. Cuối cùng, nhân vật thực sự rơi vào tuyệt vọng.

Trước đây, Chí Phèo là một chàng trai nông dân hiền lành, lương thiện và có lòng tự trọng. Chỉ vì cái thói ghen bóng ghen gió của cụ Bá Kiến, Chí Phèo đã bị cụ thẳng tay đẩy vào nhà tù. Trải qua bảy, tám năm bị đày đọa, chung sống với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hồn Chí Phèo đã bị nhuộm đen. Từ một anh Chí Phèo hiền lành, lương thiện, ra tù biến thành Chí Phèo với bộ mặt gớm ghiếc, linh hồn chất đầy thù hận và tội lỗi. Phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột đi. Từ mặt mũi, nhân cách đều biến tướng thật đáng sợ. Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng cỡn, cái mặt thì đen và rất câng câng, hai mắt gườm gườm gớm ghiếc.

Trong cái xã hội tàn bạo ấy, càng hiền lành,nhẫn nhục bao nhiêu thì lại càng bị chà đạp bấy nhiêu. Hắn muốn sống thì phải cướp giật, ăn vạ, gây gổ với mọi người. Muốn thế thì phải cao, phải mạnh, phải hung bạo. Thế là Chí Phèo tìm đến rượu như một cứu cánh giúp hắn quên đi cuộc đời. Hắn sống trong những cơn say triền miên và làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Cùng với thời gian, Chí Phèo mất đi khả năng nhận thức. Hắn không còn nhận ra nổi cái bóng của mình, không nhớ nổi mình là ai, bao nhiêu tuổi. Mọi người đều cho Chí Phèo là một con vật chứ không phải là con người nữa.

Những chuỗi ngày say sưa vô tận, những tiếng chửi vô lí,những hành động liều lĩnh hung hãn chính là sự giãy giụa tuyệt vọng của một con người muốn tìm về con đường lương thiện mà không được.

Trước những hành động điên cuồng và hình dáng quái dị của Chí Phèo, ta chỉ thấy đáng thương hơn là đáng giận. Bởi lẽ chính nhà tù thực dân, sự áp bức bóc lột nặng nề của giai cấp thống trị, những định kiến tồi tệ và thái độ hắt hủi nhục mạ của những người xung quanh đã đẩy Chí Phèo đến con đường đó. Đẻ ra anh Chí Phèo hiền lành là một bà mẹ tội nghiệp và khốn nạn đã lén lút vứt con mình ở cái lò gạch cũ. Còn đẻ ra thằng lưu manh Chí Phèo , mất hết tính người là cái xã hội thực dân phong kiến đầy rẫy bất công, vô nhân đạo.

Nếu nhân vật chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố đã phải bán con, bán sữa nhưng chị còn được là con người, còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tất cả chỉ để được tồn tại mà thôi.

Nhưng, ở đáy sâu của tâm hồn cằn cỗi và lạnh lẽo ấy vẫn còn có những mầm mống tốt đẹp mà hoàn cảnh phũ phàng của xã hội kia chưa đủ sức làm thui chột hết. Nam Cao đã không bỏ rơi nhân vật của mình. Ông dõi theo từng bước chân của Chí Phèo trong đêm tối, trong cơn say, trong giấc ngủ, nhìn ngắm nhân vật bằng tấm lòng đồng cảm sâu sắc. Trong cái thân xác đáng thương ấy, Nam Cao đã phát hiện ra có một mầm lương thiện hãy còn thổn thức. Nó muốn vực dậy, muốn trào ra nhưng không thể tự mình làm được.

Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở sau cuộc rượu say ở nhà Tư Lãng phải chăng là sắp đặt của tạo hóa? Tình cờ mà như là định mệnh đã sẵn bày. Cái tình mềm mại của Thị Nở và bát cháo hành ấm nóng tình người đã đánh thức dậy những tình cảm tốt đẹp, những khát khao ước mơ khi xưa của Chí Phèo về một gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Nó như một thứ phép màu xoa dịu mọi khổ đau, hàn gắn mọi vết thương và làm rung động mọi tế bào của Chí Phèo. Sau cái đêm hạnh phúc, Chí phèo cứ thấy có cái gì đó lâng lâng khắp người khó lí giải.

Thì ra, đó là cảm giác hạnh phúc. Hắn hạnh phúc vì có một người phụ nữ ở bên canh, dịu dàng và yêu thương. hắn hạnh phúc vì lần đầu tiên có một người không sợ hãi, không chạy trốn khỏi hắn. Cũng là lần đầu tiên có một người cho hắn một bữa ăn ngon lành mà trước đây hắn phải rạch mặt ăn vạ hoặc cướp giật mới có được. Những quyền lợi ấy có gì to tát đối với con người đâu? Nhưng chao ôi, đối với Chí Phèo thì đó là cả một ân huệ lớn lao.

Chút tình thương yêu mộc mạc của Thị Nỡ đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng của Chí Phèo, đánh thức dậy bản chất lương thiện vốn có trong hắn. Con người xấu xí “ma chê quỷ hờn” ấy kì lạ thay lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo. Thức tỉnh, gợi dậy bản tính người ở hắn, thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao tháng ngày bị dập vùi, hắt hủi.

Một thành công nổi bật của Nam Cao trong tác phẩm “Chí Phèo” là đã phát hiện, miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của Chí ngay khi hắn đã bị biến chất, tha hóa.

Ngay khi Chí Phèo điên cuồng như một con thú, tưởng chừng như lòng thương đã cạn kiệt thì vẫn còn có một người biết thương cảm hắn. Ở cái làng Vũ Đại, Thị Nở là người duy nhất hiểu Chí Phèo, đồng cảm với Chí Phèo. Thị vốn là người xấu xí, đã gánh chịu nhiều điều miệt thị, khinh bỉ của con người nên dễ dàng thấu cảm cho nỗi khổ đau đang cuộn xé trong con người của Chí – một kẻ cô đơn, bị người đời ruồng bỏ.

Bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo xúc động và muốn khóc, giúp Chí Phèo nhận ra: cái đau khổ lớn nhất của con người, không phải là sự đói cơm rách áo, mà sự thiếu thốn tình thương. Bát cháo hành chính là liều thuốc thần làm sống dậy sự rung cảm mà bấy lâu tưởng chừng như đã chất trong tim Chí phèo, đánh thức dậy trong hắn khát vọng sống và sống tốt đẹp.

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã thức tỉnh ở Chí Phèo niềm mơ ước của một thuở xa xưa chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, cố dồn vốn để nuôi thêm con lợn. Chí Phèo mong muốn Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối, đưa Chí Phèo trở về, hòa nhập với cộng đồng xã hội.

Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, tâm trạng Chí Phèo hoàn toàn thay đổi. Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao. Nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng cười nói bàn tán của những người đàn bà đi chợ về. bao nhiêu âm thanh quen thuộc của cuộc sống bấy lâu nay vậy mà giờ đây Chí Phèo mới nghe thấy bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say.

Hôm nay, những âm thanh ấy, vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi của sức sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Trái tim tưởng chừng như trái đá của hắn đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong Chí Phèo cũng hồi sinh “hắn thèm lương thiện, hắn khao khát làm hòa hòa với mọi người”. Từ một “con quỷ dữ”, nhờ có tình thương yêu của Thị Nở – dù đó là tình thương của một con người xấu xa, thô kệch, dở hơi cũng đủ để làm sống dậy một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết, sức cảm hóa của tình thương kì diệu đến chừng nào.

Nhưng đau đớn thay, chút tình thương của Thị Nở không đủ mạnh để cứu lấy Chí Phèo. Bởi ngoài Thị Nở ra, không hề có lấy một cơ nào, chẳng hề có một bàn tay thân thiện nào chìa ra dắt Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện. Con đường trở lại làm người của hắn vừa mới hé mở đã bị đóng sầm lại. Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Khắc nghiệt làm sao khi bản tính người trỗi dậy nơi Chí Phèo cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Xã hội đã cướp đi của Chí Phèo quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại.

Những vết dọc ngang trên mặt – kết quả bao cơn say, bao lần đâm thuê chém mướn, rạch mặt ăn vạ,. đã ngăn cản Chí trở về với cuộc đời lương thiện. Những định kiến của xã hội đã không cho phép Chí đặt chân lên nhịp độ hi vọng. Con đường trở về với cuộc sống lương thiện vừa mới kịp lóe lên trong đầu hắn, như một ngọn lửa chỉ kịp le lói đã bị cuộc đời dội gáo nước lạnh làm cho tắt ngầm.

Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi và ruồng bỏ một cách phũ phàng. Chí đã bị chính Thị Nở cự tuyệt, người mà hắn nghĩ sẽ là cây cầu duy nhất đưa hắn về với cuộc sống lương thiện. Thị Nở không phải không yêu hắn, không phải không muốn lấy hắn nhưng vì bà cô và những định kiến xã hội đã níu giữ lấy Thị, không cho Thị được kết duyên với Chí Phèo. Chí Phèo đã cố níu lấy tay Thị Nở lúc Thị vùng vằng ra về nhưng bất lực. Hắn hụt hẫng và rơi vào vực thẳm tuyệt vọng: “ôm mặt khóc rưng rức”.

Một lần nữa, Chí Phèo tìm đến rượu. Nhưng lần này Chí Phèo càng uống lại càng tỉnh Càng tỉnh lại càng thấm thía sâu sắc nỗi đau bi kịch của mình. Trong cơn đau đớn phẫn uất, Chí Phèo quyết định trả thù. Hắn vác dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện. Đau đớn và thống thiết thay, là tiếng phẫn uất của Chí Phèo: “Ta muốn làm người lương thiện, ai cho ta lương thiện. Làm thế nào cho mất được những vết mảnh trại trên mặt này. Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không, chỉ còn một cách. biết không. “. Căm thù cao độ và không còn lối thoát nào khác, Chí Phèo đã giết Bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết bế tắc của số phận.

Qua truyện ngắn Chí Phèo Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.

Chí Phèo chính là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh; là tiếng nói bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện; là mong ước được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ khốn cùng, bế tắc, đầy bi kịch xót xa của lớp người nông dân khốn cùng.

Bài giảng: Chí Phèo (Phần 2: Tác phẩm) – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 11

Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Cách đây 40 năm về trước, mặc dù miền Bắc XHCN khi đó đang nặng hai vai gánh cả non sông vượt dặm dài, vừa là hậu phương lớn chi viện tích cực cho các chiến trường với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, vừa là tiền tuyến đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo vẫn không ngừng phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt và sự nghiệp tái thiết đất nước lâu dài sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu của công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch các vùng kinh tế mới,vùng chuyên canh, xây dựng các nông trường, Bộ Nông trường ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) đã có Quyết định số 115 QĐ/TC ngày 05 th áng 9 năm 1968 về việc mở Lớp công nhân đo dạc - tiền thân của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung ngày nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button