Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện Rừng xà nu (dàn ý – 6 mẫu)
Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện Rừng xà nu (dàn ý – 6 mẫu)
Bài văn Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện Rừng xà nu gồm dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 5 bài văn phân tích mẫu hay nhất, ngắn gọn được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 12. Hi vọng với
5 bài phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện Rừng xà nu này các bạn sẽ yêu thích và viết văn hay hơn.
Đề bài: Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
Bạn đang xem bài: Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện Rừng xà nu (dàn ý – 6 mẫu)
Bài giảng: Rừng Xà Nu – Cô Vũ Phương Thảo (Giáo viên cmm.edu.vn)
Dàn ý Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện Rừng xà nu
a) Mở bài
– Trong truyện ngắn Rừng xà nu, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã thể hiện rất thành công phẩm chất anh hùng của các nhân vật như cụ Mết, anh Quyết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng…
b) Thân bài
* Chủ đề tác phẩm và bối cảnh trong truyện
– Chủ đề: Nỗi đau riêng đến xé lòng của cá nhân và nỗi đau chung lớn lao của bản làng, dân tộc đã thôi thúc Tnú và dân làng Xô Man đồng khởi tiêu diệt quân cướp nước để tự cứu mình đồng thời cũng là góp phần giải phóng quê hương.
– Bối cảnh lịch sử: Cuộc chiến tranh cục bộ bắt đầu ở miền Nam nước ta (1965). Thủy quân lục chiến Mĩ ồ ạt đổ vào bãi biển Chu Lai (Quảng Nam). Kẻ thù quyết tiêu diệt bằng được lực lượng cách mạng. Dó đó, muôn người như một, thà chết chứ không chịu làm nô lệ, nhân dân miền Nam đứng dậy dủng bạo lực trả lời bạo lực. Tại một làng nhỏ ở Tây Nguyên, toàn thể dân làng “tức nước vỡ bờ” nên đồng tâm hiệp lực nổi dậy tiêu diệt kẻ thù.
* Tình cảm quê hương đất nước sâu nặng qua thiên truyện “Rừng xà nu”
– Tình cảm yêu thương, gắn bó với bản làng, với núi rừng Tây Nguyên của dân làng Xô Man.
– Lòng căm thù giặc sâu sắc, không khuất phục trước kẻ thù.
– Trung thành với cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.
* Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện
– Cụ Mết
– Cụ Mết đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ cha anh đã trải nghiệm nhiều trong đấu tranh, giàu kinh nghiệm khi đối diện với quân thù (từ thời kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mĩ).
+Cụ như một nhân vật huyền thoại từ hình dáng cho đến tính cách: quắc thước, râu dài tới ngực và đen bóng, mắt sáng xếch ngược, ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn.
+ Cụ là một con người trầm tĩnh, sáng suốt, bền bỉ và vững chãi.
+ Cách nói khác lạ : không bao giờ khen tốt, lúc vừa ý nhất cũng chỉ nói được.
+ Tấm lòng của cụ với buôn làng, với Tnú, với cách mạng là tấm lòng thuỷ chung, cưumang đùm bọc, tình nghĩa.
=> Cụ Mết là khuôn mẫu của người già Tây Nguyên, yêu buôn làng, yêu nước, yêu cách mạng, tuổi cao chí càng cao. Hình ảnh cụ còn sống mãi với câu nói bất hủ: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
– Anh Quyết
– Anh Quyết là đại diện của Đảng, là linh hồn của cuộc chiến đấu. Anh đã đến dìu dắt, hướng dẫn dân làng Xô Man giác ngộ cách mạng.
– Tnú: Tnú tiêu biểu cho số phận và ý chí của dản làng. Anh hăng hái đi đầu trong phong trào đồng khởi, hiên ngang đối diện với kẻ thù, với cái chết.
+ Cuộc đời Tnú đã trải qua bao thử thách khốc liệt từ thuở ấu thơ, được hoàn cảnh hun đúc thành một con người có nhiều phẩm chất đáng quý.
+ Tnú có chữ, có văn hoá, lại sớm được giác ngộ cách mạng, một con người gan góc, trung thực, dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng.
+ Ngoài tình thương vợ con, Tnú còn là người nặng tình với buôn làng.
+ Tnú cũng chịu bao đau thương dưới bàn tay tội ác của kẻ thù.
=> Cuộc đời Tnú là một minh chứng hùng hồn rằng: “phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng”.
– Mai: Mai là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ thanh niên.
+ Sớm giác ngộ cách mạng, tình yêu đối với cách mạng: cùng với Tnú che giấu cán bộ, giúp đỡ cán bộ…
+ Từ nhỏ đã là một cô bé thông minh, khéo léo: cùng với Tnú học chữ, lên rừng bảo vệ các chiến sĩ cách mạng.
+ Lớn lên là một người mẹ yêu thương con, sẵn sàng hi sinh thân mình để che chở đứa con thơ.
+ Một người phụ nữ kiên cường, bản lĩnh, giàu tinh thần cách mạng: Sẵn sàng chịu đòn roi kẻ thù nhưng không kêu lên một tiếng, không khai ra chỗ ở của Tnú. Đặc biệt ánh mắt khi nhìn kẻ thù: bình tĩnh mà đầy sức mạnh…
– Dít: Dít tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng.
+ Dít nhỏ, lanh lẹn, có vẻ đẹp trẻ trung, trong sáng, gan góc, dũng cảm.
+ Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắn dọa, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ (…) nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng…
+ Khi Mai chết, Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh
=> Tính cách kiên cường, sức chịu đựng phi thường, biết dồn nén đau thương để nung nấu lòng căm thù.
+Một cán bộ Đảng trẻ, có năng lực, nghiêm túc, tình cảm trong sáng, cao đẹp.
– Bé Heng: Bé Heng là một tiểu anh hùng, là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ mới lớn của núi rừng Tây Nguyên.
+ Trưởng thành với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính, một chiến sĩ du kích của bản làng.
+Góp phần không nhỏ vào việc thiết lập những công sự (hầm chông, hố chông) trên con đường vào làng.
c) Kết bài
– Mỗi nhân vật trong truyện đều có mỗi vẻ đẹp anh hùng khác nhau nhưng họ đều là những người đại diện cho nhân dân, cho cộng đồng. Họ là những hình mẫu tiêu biểu của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
* Sau khi đã xây dựng được một dàn ý phân tích phẩm chất anh hùng trongRừng xà nuthật chi tiết, hoàn chỉnh, trước khi bắt tay vào viết bài, các em hãy đọc trước một số bài văn mẫu sau đây để mở rộng vốn từ, cách trình bày.
Sơ đồ Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện Rừng xà nu
Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện Rừng xà nu – mẫu 1
“Tây Nguyên ơi! Hoa rừng bao nhiêu thứ
Cánh hoa đẹp nhất rừng
Tây Nguyên ơi! Anh có nhớ buôn làng
Nhớ người con gái…
… Nhớ cánh hoa Pơ-lang đẹp nhất rừng Tây Nguyên…”
(Ca khúc “Em là hoa Pơ-lang” – Đức Minh)
Ai đã từng lắng nghe tiếng hát ấy trong những tháng ngày sôi sục thời đánh Mĩ? Ai đã từng biết hoa Pơ-lang báu vật của Trời có hàng ngàn cánh, nở tươi thơm ngát hàng vạn năm được nói đến trong “Bài ca chàng Đam Săn”? Tiếng hát ấy còn đem đến cho ta bao xúc động bồi hồi khi nghĩ tới những phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, một kiệt tác viết về đề tài Tây Nguyên thời đánh Mĩ.
Nguyễn Trung Thành là bút danh của nhà văn Nguyên Ngọc thời đánh Mĩ. Truyện “Rừng xà nu” của ông lần đầu tiên được đăng trên tạp chí Văn Nghệ Quân giải phóng miền Trung. Trung Trung bộ, số 2 năm 1965. Truyện mang đậm tính sử thi, gợi lên một không khí núi rừng thiêng liêng huyền thoại. Cuộc đấu tranh vũ trang của dân làng Xô man chống Mĩ – Diệm diễn ra vô cùng ác liệt đầy máu và nước mắt, sáng bừng ngọn lửa và chiến công. Những con đường, dốc núi, bờ suối chằng chịt hầm chỏng, hố chông, giàn thò lưỡi “sắc lạnh”. Nhà ưng nơi tụ hội của người Strá đã có lúc biến thành pháp trường, chiến trường dữ dội, bi tráng.
Cả dân làng Xô Man, từ già tới trẻ, từ đàn ông tới đàn bà, ai cũng có trong tay một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, cậy rựa sáng loáng mài bằng đá mài núi Ngọc Linh do anh Tnú gùi về, ai không có giáo mác thì có 500 cây chông. Mỗi người dân là một chiến sĩ, một dũng sĩ nhen nhóm bằng ngọn lửa cách mạng và niềm tin mà anh Quyết cán bộ Đảng hoạt động bí mật đem lại cho dân làng Xô Man: “Đánh Mĩ phải đánh lâu dài”, “cán bộ là Đảng; Đảng còn, núi nước này còn”,…
Trong những năm dài đen tối khi quân Mĩ – Diệm kéo tới, suốt đêm ngày, chó của nó và súng của nó “sủa vang cả rừng”, thì dân làng Xô Man vẫn thay nhau vào rừng tiếp tế, bảo vệ cán bộ Đảng. Anh Xút bị giặc bắt treo cổ lên cây vả đầu làng, bà Nhan bị giặc chặt đầu, cột tóc treo đầu súng. Nhưng chẳng ai sợ! Người già, trẻ con, Mai và Tnú,… lại thay nhau vào rừng nuôi giấu, bảo vệ cán bộ. Suốt 5 năm trời, chưa hề có một cán bộ nào bị giặc bắt hay bị giặc giết trong rừng của làng Xô Man. Đó là niềm tự hào, và đó là phẩm chất anh hùng, trung dũng của những người Strá.
Mỗi người dân làng Xô Man là một chiến sĩ. Cụ Mết già làng, oai phong lẫm liệt. Mắt sáng và xếch. Râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng. Ông cụ ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn. Đã 60 tuổi mà tiếng nói vẫn ồ ồ vang dội trong lồng ngực! Một lời khen “được” của ông cụ làm cho cả làng ai cũng hả dạ. Bàn tay nặng trịch “như một kìm sắt”. Lúc cụ nói, mọi người đều im bặt, trẻ con im lặng thin thít. Cụ Mết đầy uy tín, là một thủ lĩnh quân sự tài ba, quyết đoán. Để chuẩn bị cho cuộc chiến đâu, cụ Mết lãnh đạo dân làng Xô Man đêm đêm thức mài vũ khí, ban ngày đi phát hết các rẫy cũ, trồng pom-chu và sắn xanh mượt cả núi rừng. Trong những giờ phút nghiêm trọng nhất giữa cái sống và cái chết, cụ Mết đã chỉ huy đội du kích từ trong rừng bất ngờ xông lên nhà ưng tiêu diệt lũ ác ôn. Tiếng hô của cụ Mết vang lên: “Chém! Chém hết!”. Những cây rựa sáng loáng vung lên. Dưới lưỡi mác của cụ Mết, thằng Dục chỉ huy nằm gục trên vũng máu. Mười tên giặc bị giết chết, xác ngổn ngang quanh đống lửa xà nu giữa nhà ưng. Chính ” đêm ấy”, tiếng chiêng nổi lên, lửa cháy khắp rừng. Và “cả rừng Xô Man ào ào rung động”. Chính đêm ấy, cụ Mết già làng, người anh hùng bộ tộc trong tư thế lẫm liệt của người chiến thắng đã truyền hịch đánh Mĩ – Diệm vang vọng núi rừng: “Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”.
Cụ Mết trong truyện “Rừng xà nu” được miêu tả và ngưỡng mộ như một vị anh hùng dân tộc. Cụ đã thắp sáng ngọn lửa chiến đấu và chiến thắng vì chân lí lịch sử: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Cụ đã nhắc nhở mọi người Strá phải giữ lấy truyền thống “thương núi, thương nước” kể lại cho con cháu nghe sau này. Nhân vật cụ Mết, một già làng, một lão du kích phi thường là một thành công đặc sắc của Nguyễn Trung Thành trong nghệ thuật khắc họa tính cách anh hùng sử thi huyền thoại. Tnú là một trai làng dũng mãnh, là niềm tự hào của bà con dân làng Xô Man. Cụ Mết đã nói về anh với tất cả tình yêu thương, tự hào: “Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Cuộc đời Tnú đầy máu và nước mắt như bao cuộc đời của người dân làng Xô Man dưới súng đạn của Mĩ – Diệm. Con đường chiến đấu của Tnú là con đường quật khởi của quê hương anh. Hai lần Tnú đi bộ 3 ngày lên núi Ngọc Linh để lấy một xà lét đá trắng về làm phấn, lấy một gùi đá mài đem vềmài vũkhí, hành động ấy nói lên lòng khao khát ánh sáng cách mạng và tự do của anh. Phẩm chất anh hùng của Tnú được tôi rèn trong máu lửa chiến tranh. Thuở nhỏ, Tnú vào rừng tiếp tế và bảo vệ anh Quyết, cán bộ “nằm vùng” để học chữ, với niềm tin sắt đá: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Đi giao liên, lúc thì Tnú “xé rừng mà đi” lọt qua các vòng vây của giặc, lúc thì anh cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình, tạo nên sự bất ngờ. Bị giặc bắt, Tnú nuốt ngay thư bí mật. Bị giặc tra tấn dã man, bắt khai ai là cộng sản, Tnú đặt tay lên bụng mình và nói: “Ở đây này!”. Lưng anh đầy vết chém, anh vẫn bất khuất, hiên ngang giữ vững lòng trung thành với cách mạng.
Khi làng Xô Man quật khởi đứng lên mài vũ khí chống Mĩ – Diệm thì Tnú trở thành chỉ huy đội du kích. Với bọn giặc ở đồn Đắc Hà, anh là “con cọp… làm loạn rừng núi”… Tnú căm thù sôi sục quân giặc khát máu. Mắt anh trở thành “hai cò lửa lớn” khi lũ ác ôn giáng “trận mưa cây sắt” xuống vợ con anh. Anh coi bọn thằng Dục là “đồ ăn thịt người!”. Tnú đã nhảy xổ vào lũ giặc để cứu vợ con, “hai cánh tay rộng lớn như hơi cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Hình ảnh Tnú bị giặc tra tấn, đốt cháy mười ngón tay thành mười ngọn đuốc, mắt anh trừng trừng, răng anh cắn nát môi, nghe lửa cháy trong lồng ngực… “anh không thèm kêu van”, đã làm cho chúng ta vô cùng cảm phục. Anh đã nêu cao một tư thế lẫm liệt hiên ngang. Con người anh tưởng như được đúc bằng thép! Khí phách của Tnú là khí phách của người anh hùng sử thi. Tình tiết Tnú xông xuống hầm ngầm giặc, không dùng súng, không dùng dao mà chỉ giết thằng chỉ huy ác ôn bằng mười ngón tay, ngón nào cũng bị cháy mất một đốt – đã nói lên ý chí căm thù giặc không bao giờ nguôi trong lòng anh. Lòng căm thù đã cho Tnú sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.
Nguyễn Trung Thành đã khắc hoạ đôi bàn tay Tnú để tô đậm phẩm chất anh hùng của đứa con yêu làng Xô Man. Nếu ngọn lửa thần A-nhi đã soi sáng lòng kiên trinh của nàng Si-ta trong sử thi Ra-ma-ya-na, thì ngọn lửa xà nu trên mưòi ngón tay đã làm sáng bừng lên dũng khí và tinh thần bất khuất của nhân vật Tnú anh hùng. Dưới ngòi bút Nguyễn Trung Thành, nhân vật Tnú mang vẻ đẹp huyền thoại.
Mai và Dít là hình ảnh người phụ nữ mới của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mĩ. Thuở bé, Mai đã vào rừng tiếp tế và bảo vệ cán bộ. Mai học chữ rất giỏi, ba tháng đọc được chữ, sáu tháng làm được toán hai con số. Khi đã trở thành người vợ, người mẹ, Mai đã dũng cảm lấy thân mình để bảo vệ đứa con thơ, và chị đã bất khuất hi sinh trước trận mưa cây sắt của thằng giặc khát máu. Dít là em gái của Mai. Cái mũi hơi tròn, đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt. Lớn lên, Dít càng giống Mai. Dít cũng bị giặc bắt khi Dít đi vào rừng tiếp tế cho đội du kích. Lũ giặc đã biến Dít thành “tấm bia sống”, bắn sượt qua tai, sém tóc, váy rách tượt từng mảnh. Từ viên đạn thứ mười trở đi, Dít chùi nước mắt, im bặt, “nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng!”. Thật là gan dạ, lẫm liệt. Chỉ 3 năm sau, Dít đã trở thành Bí thư chi bộ kiêm Chính trị viên xã hội, linh hồn cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Có thể nói Mai và Dít tiêu biểu cho những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, đã gắn bó cuộc đời mình với sự sống còn, với đau thương và uất hận, với nhục và vinh của dân tộc trong thời đánh Mĩ.
Đọc truyện “Rừng xà nu”, ta không thể nào quên được bé Heng, mặc dù tác giả chỉ phác họamột vài nét. Đó là một chú bé nhanh nhẹn, thông minh, thuộc mọi con đường, những hầm chông, những giàn thò, những ác chiến điểm của làng mình như thuộc lòng bàn tay mình. Người nhỏ bé, đóng khố, áo bà ba dài phết đít, đầu đội một cái mũ sụp xin được của anh Giải phóng quân nào đó. Một khẩu súng trường mát đeo chéo ngang lưng “ra vẻ một người lính thực sự”. Khi thì Heng nhắc Tnú không được uống nước lã. Khi thì Heng giới thiệu về chị Dít. Heng giục Tnú đi nhanh, “sắp tối rồi!”. Nó hất hàm ra hiệu, thân mật nói với Tnú: “Lâu ngày về, chân không leo nổi cái dốc nữa à!”. Em báo cho Tnú biết: “Chông đấy! Có chông đấy!…”. Heng tháo cây súng chống xuống đất và gọi to; “Người già ơi, có khách đấy!”. Heng chỉ là người dẫn đường, chỉ là người dẫn chuyện, xuất hiện trong khoảnh khắc. Thế mà đầy ấn tượng, đó là cái tài của Nguyền Trung Thành trong miêu tả nhân vật. Bé Heng đã trưởng thành cùng cuộc chiến đấu vũ trang của dân làng Xô Man. Con người em đã hình thành bao phẩm chất anh hùng. Em là một cây xà nu, một cây con mới mọc “vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã…” trong bom đạn giặc!
Thời kháng chiến, cây tre, cây dừa, cây đước đã được một số nhà văn, nhà thơ dành cho một địa vị sang trọng: “Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín.Tre hi sinh để bảo vệ con người” (“Cây tre Việt Nam” – Thép Mới). Với Nguyễn Trung Thành, cây xà nu, một loại cây “man dại mà cao quý đáng yêu” đã trở thành một biểu tượng, một nhân vật mang bao phẩm chất tốt đẹp, anh hùng. Trong truyện, cây xà nu, đồi xà nu, rừng xà nu, cành lá xà nu, ngọn xà nu, nhựa xà nu, lửa xà nu,… được nhắc đến rất nhiều lần, đầy ấn tượng. Cây xà nu là cảnh quan, là vẻ đẹp hùng vĩ của làng Xô Man: “… trông ra xa, hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Đồi xà nu trùng điệp ấy gợi cho ta liên tưởng về người người lớp lớp trong thế trận chiến tranh nhân dân, trong cuộc diễu binh hùng vĩ. Mưa đại bác của giặc giội xuống suốt đêm ngày đãhơn ba năm nay, cây xà nu cùng chung số phận đau thương tang tóc với người Strá. Hàng vạn cây xà nu không có cây nào không bị thương. Đại bác giặc chặt đứt ngang nửa thân mình, cây xà nu “đổ ào ào như một trận bão”. Một cảnh tượng dữ dội, một tư thế lẫm liệt hiên ngang. Cây xà nu bị thương, nhựa ứa ra tràn trề “đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Cũng như những em bé – những nạn nhân trong chiến tranh, những cây xà nu vừa lớn ngang tầm ngực, nhựa còn trong, dầu còn loãng, bị trúng đạn, vết thương cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Cây xà nu được nhân hóa; nỗi đau của rừng xà nu mãi mãi là vết thương lòng của con người trong nhiều năm tháng. Cây xà nu cómột sức sống phi thường, vôcùng mãnh liệt. Nó là loại cây ham ánh sáng mặt trời nhất trong rừng. Ở một gốc cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Một so sánh rất đẹp thể hiện một tư thế hiên ngang dũng mãnh trong lửa đạn. Nhựa xà nu “thơm mỡ màng”, “thơm ngào ngạt”, đó là phẩm chất cao quý để lại cho đời. Rừng xà nu, đồi xà nu mang tầm vóc dũng sĩ. Nếu cây tùng trong thơ Ức Trai có tài đống lương “nhà cả đòi phen chống khỏe thay”, để lại hổ phách, phục linh “dành còn để trợ dân này”, thì rừng xà nu đã hai ba năm nay, “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Qua đó, ta thấy thời chiến tranh, cây cỏ đã cùng con người chung sức, chung lòng đánh giặc để giữ làng giữ nước. Đọc truyện “Rừng xà nu”, một ấn tượng sâu sắc đối với mỗi chúng ta là đống lửa xà nu rực cháy trên nhà ưng đãlàm cho lưỡi mác của cụ Mết, mũi giáo của đội du kích thêm sáng loáng, đã soi tỏ xác lũ ác ôn ngổn ngang trên những vũng máu. Cây xà nu, lửa xà nu đã cùng dân làng Xô Man chan hòa trong niềm vui thắng trận.
Cụ Mết đã nói với Tnú: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!”. Đó là lời thách thức! Đó là niềm tự hào của già làng, của người dân làng Xô Man về rừng xà nu yêu quý. Nguyễn Trung Thành đã viết nên những trang văn xuôi tráng lệ nhất, mang âm hưởng anh hùng ca về cây xà nu. Cây xà nu là một hình tượng kì vĩ, cũng là một nhân vật sử thi thần kì.
Truyện “Rừng xà nu” là một kiệt tác văn chương. Cảm xúc dồn nén, sự kiện dồn nén, đúng là “truyện của một đời người được kể trong một đêm, đó là cái đêm dài như cả một đời người”. Từ cây xà nu đến con người, tất cả đều phi thường, đều mang theo bao phẩm chất anh hùng. Tất cả đều tượng trưng cho khí phách và sự sống phi thường của con người, của thiênnhiên núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. Có người đã ca ngợi thiên truyện “Rừng xà nu” là “khúc tráng ca về tự do” thời đánh Mĩ.
Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện Rừng xà nu – mẫu 2
Nguyễn Trung Thành là nhà văn quân đội, quê ở Quảng Nam. Năm 1950, đang học bậc trung học phổ thông, ông gia nhập quân đội và lên hoạt động ở chiến trường chính của Liên khu V (Tây Nguyên). Sau một thời gian ở đơn vị chiến đấu, ông làm phóng viên báo Quân nhân dân Liên khu V và lấy bút danh Nguyên Ngọc. Trong cả hai cuộc kháng chiến, ông gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên. Đó cũng chính là lí do dẫn đến thành công của tiểu thuyết đầu tay Đất nước đứng lên và truyện ngắn Rừng xà nu (Giải thưởng văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu, 1965). Đặc biệt, ở truyện ngắn Rừng xà nu, nhà văn thể hiện rất thành công phẩm chất anh hùng của các nhân vật như cụ Mết, anh Quyết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng…
Cuộc chiến tranh cục bộ bắt đầu ở miền Nam nước ta (1965). Thủy quân lục chiến Mĩ ồ ạt đổ vào bãi biển Chu Lai (Quảng Nam). Kẻ thù quyết tiêu diệt bằng được lực lượng cách mạng. Chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn – nhất là chém giết không thương tiếc – để gây đau đớn, tổn thất nặng nề cho đồng bào miền Nam. Do đó, muôn người như một, thà chết chứ không chịu làm nô lệ, nhân dân miền Nam đứng dậy dùng bạo lực trả lời bạo lực. Tại một làng nhỏ ở Tây Nguyên, toàn thể dân làng “tức nước vỡ bờ” nên đồng tâm hiệp lực nổi dậy tiêu diệt kẻ thù: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” (lời nhân vật cụ Mết trong truyện). Trong cuộc dấu tranh đó, những phẩm chất cao quý nhất của dân làng Xô Man đã được thể hiện qua từng nhân vật khác nhau.
Trước hết là nhân vật cụ Mết. Cụ Mết là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ cha anh đã trải nghiệm nhiều trong đấu tranh, giàu kinh nghiệm khi đối diện với quân thù (từ thời kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mĩ). Cụ là người mưu trí, sáng suốt. Cụ là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống và cội nguồn của làng Xô Man, của cộng đồng. Chính cụ đã tìm ra chân lí dùng bạo lực để đấu tranh tiêu diệt quân cướp nước: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Cụ là cái gạch nối giữa Đảng và đồng bào dân tộc. Cụ đã thôi thúc, lãnh đạo dân làng đứng lên quật khởi: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”.
Kế đến là nhân vật anh Quyết. Anh là đại diện của Đảng, là linh hồn của cuộc chiến đấu. Anh đã đến, dìu dắt, hướng dẫn dân làng Xô Man giác ngộ cách mạng. Sống ở rừng sâu nước độc nhưng anh không ngại khổ nhọc. Anh hết lòng dạy Tnú và Mai học chữ… Anh có quan niệm rất đúng đắn: “Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi”. Chính anh đã góp phần đào tạo, giác ngộ được một anh hùng bất khuất Tnú trong tương lai.
Sau đó là nhân vật Tnú. Anh tiêu biểu cho số phận và ý chí của dân làng. Anh hăng hái đi đầu trong phong trào đồng khởi, hiên ngang đối diện với kẻ thù, với cái chết. Khi bị giặc bắt, lấy ra một nhúm giẻ đã tẩm dầu xà nu, quấn giẻ lên mười đầu ngón tay Tnú, lấy cây lửa đốt, Tnú không kêu lên một tiếng nào mà còn trợn mắt nhìn kẻ thù trừng trừng: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu lên (…). Tnú không thèm, không thèm kêu van”. Hành động chịu đựng ấy rất dũng cảm, ngoan cường, gan góc. Mặc dù mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt nhưng Tnú vẫn vượt lên đau đớn, bi kịch cá nhân, hăng hái gia nhập bộ đội Giải phóng để trả thù cho quê hương và những người thân.
Nhân vật Mai đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ thanh niên. Tuy là nữ giới nhưng sớm giác ngộ lí tưởng cách mạng của Đảng. Phút lâm nguy, khi giáp mặt với bầy lang sói hung tợn, cô chẳng chút run sợ. Cô “ngẩng đôi mắt lớn nhìn thằng Dục” để tỏ rõ thái độ căm thù. Thằng Dục xem cô là “con mọi cộng sản”, “con cọp cái”, là cơ sở để “dụ được cọp đực trở về”. Nó cầm một cây sắt dài tra tấn đánh đập mẹ con Mai. “Trận mưa cây sắt mỗi lúc một dồn dập”. Đến khi trút hơi thở cuối cùng dưới bàn tay đẫm máu của bọn mật người dạ thú cô vẫn một mực trung thành với cách mạng, không khai báo nửa lời.
Nhân vật Dit cũng như Mai, là đại diện cho thế hệ chủ lực đánh Mĩ ở Tây Nguyên. Là cô bí thư chi bộ cũng dũng cảm, gan góc không kém gì Tnú. Khi cả làng bị giặc ở đồn Bắc Hà bao vây, không ai lọt ra được, ngoại trừ lúc ấy Dit còn nhỏ, lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Dit bị giặc bắt khi ở ngoài rừng về. Bọn giặc để Dit giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ. Cái váy của Dit rách tượt từng mảng. Dit khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười thì chùi nước mắt, từ đó im bặt. Dit đứng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ lại giật lên một cái nhưng đôi mắt vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng. Vậy là, không khủng bố được tinh thần Dit, bọn giặc đành chịu! Còn khi chị Mai và đứa con bị giặc giết chết một cách dã man, mọi người, kể cả cụ Mết đều chứa chan nước mắt nhưng Dit vẫn “lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh”. Không phải là cô không thương chị, thương cháu nhưng đó là cử chỉ nuốt hận vào lòng, nuôi khôi hận ngày một khôn lớn theo lứa tuổi của cô để một ngày kia, có cơ hội sẽ rửa thù! Khi lớn lên, cô trở thành bí thư chi bộ xã kiên cường.
Nhân vật bé Heng dại diện cho vẻ đẹp của thế hệ măng non của núi rừng Tây Nguyên. Bé Heng “cũng ít nói như những người dân làng Xô Man” nhưng bên trong chắc gì không âm ỉ mối thù giặc Mĩ như thế hệ đàn anh? Nó không hề sợ hiểm nguy. Nó là người dẫn đường cho Tnú trở về thăm làng mà nếu không có nó, Tnú chẳng dám đi một mình. “Con đường ấy chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút gặp một giàn thò (một loại bẫy) chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chặt gãy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. Khí tới chỗ “ác chiến điểm”, nó nhìn Tnú “cười một cách rất liếng”, “mắt lóe lên một tia sáng nhỏ” bày tỏ niềm tự hào mãnh liệt về công cuộc cách mạng của dân làng. Mai này trưởng thành, chắc chắn bé Heng sẽ tiếp nối thế hệ cha anh.
Như vậy, mỗi nhân vật trên đây đều có mỗi vẻ đẹp anh hùng khác nhau nhưng họ đều là những người đại diện cho nhân dân, cho cộng đồng. Họ là những hình mẫu tiêu biểu của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện Rừng xà nu – mẫu 3
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành đã tái hiện một giai đoạn đấu tranh của cách mạng Miền Nam rất quyết liệt trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Trong khuôn khổ của một truyện ngắn tác giả đã khái quát được tinh thần của thời đại một cách thật ấn tượng. Rừng xà nu là truyện của một thời đại được kể trong một đêm, nói đến rừng xà nu trước hết phải nói đến những phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện.
Năm 1965, đế quốc Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ ở miền nam Việt Nam. Quân Mĩ ồ ạt đổ vào bãi biển Chu Lai (Quảng Nam), nhân dân thà chết chứ nhất định không chịu làm nô lệ. Tại một làng ở Tây Nguyên, toàn thể dân làng nổi dậy tiêu diệt kẻ thù. Trong cuộc đấu tranh đó, những phẩm chất cao quí nhất của làng Xô Man đã được thể hiện qua từng nhân vật như cụ Mết, anh Quyết, T-nú, Mai, Dít, bé Heng.
Nhân vật cụ Mết, Cụ Mết không xuất hiện ở ngay đầu tác phẩm nhưng sự xuất hiện của cụ qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành cũng thực sự để lại những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc. “Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một kìm sắt… Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng!.. ngực căng như một cây xà nu lớn…”. Nhưng không chỉ dừng lại đó nhà văn còn miêu tả về giọng nói của cụ Mết với một giọng nói “ồ ồ, dội vang trong lồng ngực” không chỉ minh chứng cho sức ngân vang của cụ mà còn khẳng định sự lãnh đạo và chỉ huy được đám đông làng Xô-man. Cụ là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống và cội nguồn của làng Xô Man, của cộng đồng. Cụ là cái gạch nối giữa Đảng và đồng bào dân tộc. Cụ đã thôi thúc, lãnh đạo dân làng đứng lên quật khởi.
Nhân vật anh Quyết là đại diện của Đảng, anh dìu dắt, hướng dẫn dân làng Xô man giác ngộ cách mạng. Anh hết lòng dạy T-nú và Mai học chữ. Chính anh đã góp phần đào tạo, giác ngộ được một anh hùng bất khuất và dũng cảm như T-nú. T-nú là người mồ côi cha mẹ từ nhỏ, anh lớn lên trong vòng tay yêu thương bao bọc của người dân làng Xô man. Với anh, dân làng Xô man và cụ Mết đã trở thành gia đình thứ hai của anh. T-nú là người mang số phận đau thương, có cả những nỗi đau thương riêng và nỗi đau chung của dân làng Xô Man. Khi người dân làng Xô Man chịu mất mát đi anh Quyết, anh Xút, bà Nhan… thì T-nú cũng mang nỗi đau chứng kiến người thân, gia đình bị giết hại. “T-nú không cứu được vợ con”, cụ Mết nhấn mạnh nhiều lần nỗi đau ấy. Cuối cùng, T-nú còn mang nỗi đau quê hương. Do đó, anh là hội tụ của tất cả nỗi đau thương của mảnh đất Tây Nguyên. Anh hăng hái gia nhập bộ đội giải phóng để trả thù cho quê hương và những người thân.
Nhân vật Mai, một cô gái sớm giác ngộ lí tưởng cách mạng của Đảng. Khi bị rơi vào tay giặc và bị tra tấn dã man, cô vẫn môt mực trung thành với cách mạng, trung thành với Đảng. Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, một cô bí thư chi bộ dũng cảm, gan góc không kém gì T-nú. Dít bị giặc bắt khi ở ngoài rừng về. Bọn giặc để Dít giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ. Cái váy của Dít rách tượt từng mảng. Dít khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười thì chùi nước mắt, từ đó im bặt. Dít đứng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ lại giật lên một cái nhưng đôi mắt vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng. Vậy là, không khủng bố được tinh thần Dít, bọn giặc đành chịu.
Bé Heng, nhân vật đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ măng non của núi rừng Tây Nguyên. Nó không hề sợ hiểm nguy, là người dẫn đường cho T-nú trở về thăm làng mà nếu không có nó, T-nú chẳng dám đi một mình. Khi tới chỗ “ác chiến điểm”, nó nhìn T-nú “cười một cách rất liếng”, “mắt lóe lên một tia sáng nhỏ” bày tỏ niềm tự hào mãnh liệt về công cuộc cách mạng của dân làng. Mai này trưởng thành, chắc chắn bé Heng sẽ tiếp nối thế hệ cha anh. Chiến tranh đã cướp đi sự sống của bao người, khiến bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Nhưng không vì thế mà những con người làng Xô man nhụt chí. Càng bị tra tấn, bị kìm kẹp thì ở họ lại càng sáng lên tinh thần bất khuất, kiên cường không cam chịu làm nô lệ.
Với những nhân vật trong truyện, tác giả đã cho người đọc thấy được những hình mẫu tiêu biểu của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam trong thời kì kháng chiến, họ là những người yêu quê hương, đất nước, sẵn sàng hi sinh để đòi lại hòa bình cho dân tộc.
Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện Rừng xà nu – mẫu 4
Miền đất Tây Nguyên đi vào văn học đương đại Việt Nam bằng ngòi bút của Nguyễn Trung Thành và những tác phẩm thành công nhất của ông là những tác phẩm viết về đề tài Tây Nguyên. Tây Nguyên của thời kì kháng chiến chống Pháp hào hùng đi vào trang văn của Nguyên Ngọc bằng “tiểu thuyết đất nước đứng lên” và hơn một lần, Tây Nguyên trong những ngày sôi sục đánh Mỹ lại sống dậy với ngòi bút của ông bằng truyện ngắn “rừng xà nu” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành bởi chất sử thi mà tác phẩm đạt tới. Được viết vào mùa hè năm 1965, trong những ngày bắt đầu cuộc đấu tranh cục bộ của Mĩ ở miền nam nước ta. Một điểm cơ bản tạo nên chất sử thi của tác phẩm chính là chân dung tập thể anh hùng khắc họa đậm nét.
Quả thực nội dung cơ bản của Rừng xà nu là chuyện đánh giặc của một làng ở Tây Nguyên, làng Xô Man bất khuất. Cả làng Xô Man đã kết thành một khối, từ trong máu lửa đứng lên làm cách mạng, bảo vệ cuộc sống tự do. Già, trẻ, trai, gái, thế hệ nào, lớp nào cũng có những đóng góp xứng đáng cho cuộc đấu tranh chung.
Anh Quyết là một nhà văn cách mạng, Nguyễn Trung Thành có nhận thức rất sâu sắc về tính chất toàn diện của cuộc chiến tranh nhân dân. Sự tàn bạo của kẻ thù đã không chừa ai thì hiển nhiên không có ai đứng ngoài cuộc chiến đấu, không ai không muốn đánh giặc lập công. Mỗi sự việc tích anh hùng đều có tính chất tập thể và ngược lại, trong chiến công chung, có đóng góp độc đáo, đáng ghi nhận mỗi cá nhân anh hùng. Nói về phong trào cách mạng người miền núi, có thể nào quên được hình ảnh những người cán bộ của Đảng được giao nhiệm vụ giữ gìn và khơi lên ngọn lửa đấu tranh vì độc lập tự do. Trong Rừng xà nu cán bộ Quyết là một hình ảnh đẹp, có nét tương đồng với hình ảnh anh Thế anh Cầm trong trong “đất nước đứng lên”, Anh Châu trong “ Vợ chồng A Phủ” trước đây trong những ngày đen tối anh đã bám trụ lại ở làng Xô Man nhen nhúm xây dựng phong trào. Anh đã duy trì niềm tin vào Đảng trong lòng đồng bào dân tộc, đã công phu bồi dưỡng giáo dục thế hệ kế tiếp. Những lời anh rủ rí với Tnú trong hốc đá giữa rừng đã trở thành lời nguyện thiêng liêng của chính Tnú: “ Sau này nếu Mỹ – Diệm giết anh Tnú phải làm cán bộ thay anh”. Khi anh Quyết hy sinh lời dặn dò của anh đã được Tnú và đồng bào Xô Man ghi lòng tạc dạ. Anh chính là người lãnh đạo tinh thần cuộc khởi nghĩa sau này của làng Xô Man.
Tây Nguyên là mọt miền đất giàu truyền thống. Hạt giống cách mạng sở dĩ được nảy mầm và phát triển tươi tốt ở đây chính là nhờ truyền thống đó. Sức mạnh của truyền thống đã được biểu hiện qua hình tượng rất sinh động là cụ Mết. Trong một bài hồi ức chính của Nguyễn Trung Thành đã viết “ ông là cội nguồn. Là Tây Nguyên của thời đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay ông như lịch sử bao trùm, như không che lấp đi sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt,ngày càng mãnh liệt lớn, sành sỏi và tự giác lớn của các thế hệ sau”. Đúng là không thể hình dung mọi cuộc sống chiến đấu của các đồng bào dân tộc Tây Nguyên mà lại thiếu đi hình ảnh như cụ Mết. Cụ là người chỉ huy trực tiếp cuộc kháng chiến ở làng Xô Man, một người chỉ huy sáng suốt giàu uy lực. Mỗi lời cụ Mết nói đều mang âm vang của sự từng trải, không phải là sự âm vang cua một cuộc đời người mà còn của cả một dân tộc. Chúng mạnh mẽ và dứt khoát như “ dao chém xuống đá, rạ chém xuống đất”; “Đảng còn núi nở này còn”, “nhớ lấy ghi lấy. Sau này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu, chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo” cụ rất có ý thức về giáo dục cho lũ con cháu. Đã nhiều đêm bên bếp lửa nhà ưng, cụ kể cho đám thiếu nhi, lũ con nít nghe chuyện anh Tnú niềm tự hào của nàng Xô Man và thổi vạo họ lòng yêu nước, lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng.
Những lời khen tặng của cụ tuy rất tiết kiệm nhưng có ý nghĩ động viên rất lớn. Những khi vừa ý cụ chỉ nói “được” mà không bao giờ khen tốt, giỏi, xong cũng chính cụ không giấu che niềm kiêu hãnh chính đáng về miền đất quê hương: “ không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này”. Hình ảnh cụ Mết cầm giáo chỉ huy đám thiếu niên diệt ngọn bọn lính ngụy để cứu Tnú và bắt đầu cuộc khởi nghĩa, đẹp một cách lẫm liệt cụ xứng đáng là trụ cột của cả làng Xô Man trong những thử thách ghê gớm nhất. Do hiểu sâu sắc điều đó khi cụ tả cụ Mết, tác giả thường mượn những đạo tính của cây xà nu biểu tượng của Tây Nguyên bất khuất làm đối tượng so sánh: “ ngực cụ căng như một cây xà nu lớn còn bàn tay nặng như sắt của cụ thì sằn sùi như vỏ cây xà nu. Tiếng nói của cụ cũng thật đặc biệt; nặng trịch, ồ ồ, dội vang trong lòng ngực tưởng như âm vọng của cả núi rừng. Hình ảnh cụ Mết thực tế đã tạo thành một cơ sở quan trọng cho cái giọng trầm hùng vang vọng nhất sử thi mà tác phẩm đã có được.
Khi làng Xô Man đã có một cụ Mết thì tất yếu nó sẽ sinh ra những người như Tnú mà hành trình số phận hết sức tiêu biểu cho cuộc sống các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mỹ. Đời Tnú đã trải qua bạo thử thách khốc liệt thưở ấu thơ. Lúc còn là một đứa bé anh đã từng đi liên lạc cho cán bộ, từ xã xuống huyện. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được cụ Mết và dân làng cưu mang đùm bọc, khi lớn lên Tnú rất xứng đáng là một con người của bản. Tnú là cậu bé thông minh gan dạ, tháo vát, cậu bé sẵn sàng lấy đá đập đầu để tự trừng phạt mình vì tội không thuộc chữ. Học chữ không thuộc nhưng đường đi rừng thì đầu nó sáng lạ lùng. Tnú không đi theo đường mòn vì ở đó có giặc phục kích. Tnú leo lên cây cao xác định phương hướng rồi đạp gai, xé rừng mà đi. Qua sông qua suối Tnú tránh chỗ nước êm vì chỗ ấy có Mĩ Diệm hay mai phục; Tnú chọn chỗ nước chảy siết đè lên sóng thác như một con cá kình bị giặc bắt, anh gan dạ không khai nửa lời dù bị tấm lưng non trẻ của anh đã phải hứng chịu sự vùi dập tà bào, phũ phàng nhất. Sau ba năm bị giam cầm, Tnú vượt ngục trở về với dân làng. Lúc ấy anh đã thành trở thành một chàng trai cao nguyên hoàn hảo: rắn chắc, cao lớn, cường tráng như một cây xà nu lớn Tnú chan hòa trong hạnh phúc bên Mai dịu dàng và đứa con trai đầu lòng giống bố như đúc.Nhưng rùi hạnh phúc của Tnú và Mai vừa bùng nở đã bị quân giặc trà đạp vũ phàng. Câu chuyện đau thương về cuộc đời Tnú thật sự bắt đầu khi lũ ác ôn kéo về làng ngăn chạn những bàn tay cầm vũ khí chống lại chúng. Để truy tìm Tnú, bọn giặc dùng ngón đòn độc hiểm cuối cùng: nó bắt Mai và đứa con Tnú không cứu được vợ con. Tận mắt anh phải nhìn cảnh Mai và đứa con chưa đầy tháng chết thê thảm dưới cây gậy sắt của quân giặc. Lúc ấy lòng căm hờn đã biến hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn anh đã lao vào lũ giặc với sức mạnh hùng thiêng anh không biết đã làm gì, chỉ thấy thằng giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng Dục tháo chạy và nhiều người.Thế nhưng Tnú không cứu được Mai kiên cường kiêu hãnh có thừa không bao giờ chịu khuất phục cường quyền trong lồng ngực anh chan chứa yêu thương và sức mạnh quân thù. Nhưng ngần ấy phẩm chất vẫn chưa đủ để bảovệ yêu thương và hòn máu mủ của đời anh. Vì sao vậy? vì anh chỉ có hai bàn tay không giữa mọt lũ giặc ác ôn khát máu đầy vũ khí, chỉ hai bàn tay không anh không cứu được vợ con và bản thân mình, chính cụ Mết đã rút ra kết luận quan trọng ấy. Khi kẻ tù đã cầm vũ khí mà mình tay không sẽ bị hủy diệt. Tấm thảm kịch đã diễn ra: Mười đầu ngón tay của Tnú bị đốt, giữa cao trào đau thương già làng Tây Nguyên đã khắc ghi vào lòng các thế hệ một chân lý “ chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” khi trong tay người già người trẻ, người đàn ông, người đàn bà đã có một cây giáo, một cây mác, một cây rụ, tình hình sẽ khác: lửa xà nu sẽ tắt trên mười đầu ngón tay của Tnú, mười thằng giặc phải đền mạng, lửa đuốc xà nu soi rõ mười cái xác giặc ngổn ngang bên đống lửa lớn trên tràn nhà. Rừng Xô Man ào ào rung động “ tiếng chiêng nổi lên và nổi cháy khắp rừng”.Sự sống hồi sinh từ sự quật khởi đáp trả sự bạo tàn Tnú từ đau thương vụt lớn lên ra nhập vào lực lượng quân giải phóng, chiến đấu dũng cảm để bảo vệ sự sống trên quê hương để trả thù cho những người dân Xô Man đã bị giặc giết, trả thù cho bà Nhan, anh Sút, anh Quyết, cho Mai, cho đứa con của anh, cho mười đầu ngón tay anh. Bằng bàn tay mười đầu ngón cụt của mình anh đã lập được chiến công, đã giết được một thằng ác ôn và thằng Dục. Đối với anh bọn giặc đứa nào cũng là thằng Dục – tên đã giết vợ con anh và làm cho bàn tay anh không còn lành lặn khác họa nhân vật Tnú, tác giả rất chú ý miêu tả hai bàn tay anh, hai bàn tay mà mỗi ngón chỉ còn hai đốt, vẫn biết kể cho chúng ta nghe một người. Đó là bàn tay đau thương, bàn tay căm thù và bàn tay chiến thắng. Đó là bàn tay gan lì tuổi nhỏ, dám cầm cả cục đá đập vào trán khi thấy mình chưa học được chữ để sau này làm cán bộ giỏi. Đó là bàn tay yêu thương – Mai đã cầm trong ngày Tnú vượt ngục con tum trở về. Bàn tay ấy là chiến tích căm hờn về tội ác của kẻ thù và cũng là bàn tay chiến thắng. Nói về cuộc đời và cuộc sống của Tnú. Tác giả đã sử dụng một hình thức kể chuyện rất thích hợp. Lời kể của tác giả đã hoàn lẫn lời kể của cụ Mết và hồi tưởng của Tnú cách tự nhiên khiến cho sự tích của một thời hiện đại được lịch sử hóa, ngân lên hết cung bậc hào hùng, mê say của nó, nó có khả năng kích thích nôi cuốn rất mạnh. Thỉnh thoảng giữa câu chuyện, tác giả nhắc đến hình ảnh rừng xà nu ào ào rung động tạo lên không khí cộng hưởng sôi động và đầy sảng khoái.
Đọc rừng xà nu, ta không thể nào quên được nét mặt cương nghị rắnrỏicủa Dít, đó cũng là một hình ảnh đẹp làm phát triển thêm chân dung tập thể anh hùng Dít có nhiều nét gần gũi với chị là Mai nhưng cũng có nhiều nét …. Phải chăng hoàn cảnh chiến đấu đã khiến chị phải dấu đi những nét dịu dàng đằm thắm nhưng rồi đến viên đạn thứ mười Dít chùi nước mắt, im bặt, bình thản nhìn bọn giặt. Có thể lý giải thế nào là sự cảm biến mau lẹ lạ lùng này. Đó không phải là sự chấn tĩnh bình thường, là sự lớn vượt mau lẹ của người trước thử thách. Dân tộc ta khi trong những ngày đánh Mĩ sôi động cô bé Dít ngày nào đã trưởng thành chị Dít bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội đầy uy tín. Chú bé Heg cũng đã đem chị Dít ra nhắc nhở Tnú “ đừng uống nước lạnh”, còn mọi người trong làng Xô Man thì đợi Dít canh giấy của Tnú sau mới yên tâm. Tnú được phép của chỉ huy cho về thăm nhà. Những chi tiết ấy thoạt đọc qua tưởng không ý nghĩa gì lắm mà kì thực quá sâu sắc, ý thức của một làng đánh giặc có tổ chức, quy củ. Dít đã trở thành một người đáng tin cậy của tập thể rất xứng đáng với miền đất đã có những người như cụ Mết và Tnú.
Trong tác phẩm,hình ảnh nhanh nhẹ hoạt bát và ngây thơ cuả chú bé Heg dù xuất hiện thoáng qua cũng đã để lại những ấn tượng tốt đẹp cho người đọc tin tưởng vào cuộc đấu tranh của dân tộc mình khi có những người như thế. Được tắm mình trong máu cách mạng, một lớp thiếu niên đã trưởng thành tiếp bước con đường của cha anh. Chưa ai hình dung nổi chú bé Heg kia lớn lên sẽ lập được nhữngchiến công gì nhưng ta biết chắc chắn những người như chú sẽ không làm hổ mặt làng Xô Man giàu truyền thông, chú sẽ như cây xà nu lớn lên vượt qua bom đạn của kẻ thù, góp phần làm nên màu xanh trường cửu của những rừng Xà Nu tít tắp chạy đến chân trời.
Rừng Xà Nu là câu chuyện của một tập thể anh hùng có những nét riêng thích hợp riêng trong cuộc đời.Tuy nhiên tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực,một lòng đi theo cách mạng.Chiến công của mỗi người tuy đa dạng mà lại thống nhât. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man của Tây Nguyên không phải do riêng một người viết ra mà do tất cả mọi người. Bản trường ca của đại ngàn hùng vĩ không phải chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hòa của nhiều giọng. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú,chị Mai, cô Dít, bé Heg là những nhân vật tiêu biểu; nhưng bê cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa cũng đã chịu “ngủ yên trong đời chật”, tất cả họ đều ti đua lập côn, đều muốn đóng góp phần mình vào sự nghiêp vĩ đại của dân tộc. Làng Xu Man sở dĩ có thể trưởng thành “thiên la địa võng” với quân thù là nhờ có sự góp sức của mọi người. Sau khi đi lực lượng, Tnú ghé về thăm làng. Anh không khỏi ngạc nhiên về cái làng xưa của mình “ đường cũ nay chằng chịt, hầm chông hố chông, cứ mười phút lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căn dây ná, đánh một phát chắc chặt gẫy đôi ống quyển…” Sự ngạc nhiên của anh nói lên rằng: cuộc sống vẫn không ngừng đi lên, cuộc cách mạng của chúng ta không ngừng lớn mạnh. Nụ cười của Tnú trước cái cười “rất liếng” lộ ý khoe khoang rõ rệt của bé Heg về làng Xô Man thật là đẹp. Họ đã không hiểu nhau, sát cánh bên nhau, tiếp bước nhau trong công cuộc ra quân hùng vĩ của núi rừng, đất nước.
Xây dựng sôi động chân dung tập thể anh hùng là thành công, nổi bật của Nguyễn Trung Thành trong Tây Nguyên “ Rừng xà nu” với nó, tác phẩm đã phản ảnh khá sâu sắc khí thế cách mạng của nước ta trong công cuộc đối đầu lịch sử những năm 60. Ngày nay đọc lại tác phẩm vẫn còn sức sống hấp dẫn mạnh mẽ với chúng ta, giúp ta hiểu rõ hơn; vì sao Việt Nam đã trụ vững và chiến thắng trong công cuộc kháng chiến lâu dài gian nan ấy.
Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện Rừng xà nu – mẫu 5
Mảnh đất Tây Nguyên hiện lên với những tiếng đàn Tơ rưng vang vang và những cánh chim Chơ rao chao liệng dưới bầu trời. Một lần nữa Tây Nguyên lại hiện ra với hình ảnh của rừng xà nu và những con người làng Xô Man qua tác phẩm rừng xà nu của nguyễn Trung Thành. Trong truyện, các nhân vật đều hiện với những phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên nói riêng và của người Việt Nam nói chung.
Trước hết là nhân vật cụ Mết. Cụ Mết là một già làng của Xô Man, cụ là cây cổ thụ to lớn chống đỡ cả làng, kêu gọi dân làng đứng dậy đúng thời điểm. Mặc dù tuổi đã xế chiều nhưng sức khỏe của cụ Mết vẫn rất tốt. Lưng cụ vẫn to, ngực cụ vẫn chắc. Đặc biệt, đối với những người tài giỏi cụ chưa bao giờ khen là giỏi hay xuất sắc tuyệt vời. Người nào giỏi lắm thì cụ chỉ khen là tốt và được thôi. Không những thế cụ còn là người truyền lại những truyền thống quý báu của dân tộc và nêu gương những vị anh hùng để dạy dỗ những thế hệ trẻ về trách nhiệm với đất nước và lòng căm thù giặc. Trong đêm Tnú trở về làng, cụ đã mời tất cả các dân làng quây quần lại để kể về cuộc đời đau thương của Tnú và cách Tnú vượt qua đau thương ấy để trở thành một người cán bộ tài giỏi như thế nào. Cụ còn dặn dò mọi người phải kể lại cho con cháu của mình nghe để đặng học tập. Trong đêm Tnú bị đốt tay, mẹ con Mai bị giết chết chính cụ Mết đã nêu cao chân lý “Bọn chúng dùng bạo lực thì chúng ta phải dùng giáo mác”. Đây là chân lý dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực cách mạng. Nó là con đường tất yếu để dành thắng lợi.
Thứ hai là nhân vật Tnú, có thể nói Tnú là nhân vật chính trong truyện. Qua thiên truyện cuộc đời của người anh hùng Tnú được kể lại khá chi tiết và cụ thể. Tnú có số phận vô cùng đau thương. Anh là trẻ mồ côi được dân làng Xô Man nhận nuôi từ bé, lớn lên anh nhận đưa cơm cho cán bộ Quyết cùng với Mai. Sau này lớn lên trở thành cán bộ cách mạng thì giặc giết chết Mai và con của hai người, Tnú cũng bị đốt cụt mười ngón tay. Đau thương là thế nhưng Tnú lại được giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Và ngay từ bé Tnú đã mang trong mình dòng máu anh hùng, gan góc hơn người. Tuy còn rất nhỏ nhưng Tnú đã nhận đi liên lạc, anh không đi được thẳng mà đi đường vòng, đường tắt, xé rừng mà đi, suối sâu mà lội. Có những lần bị giặc bắt, cậu vội vàng nuốt ngay lá thư vào bụng và trả lời rõ ràng từng chữ với giặc “Cộng sản ở đây này”. Tnú học chữ thua Mai, cậu căm ghét bản thân mà tự lấy đá đập vào đầu mình. Sau khi lớn lên, chứng kiến cảnh vợ con mình bị giết chết, anh lao ra cứu nhưng không được, trái lại còn bị giặc đốt cụt mười ngón tay. Thế nhưng, vượt qua nỗi đau để chiến đấu, Tnú đã dùng mười ngón tay cụt ấy bắn chết tên Dục đã giết chết vợ con mình.
Thứ ba là nhân vật Dít. Cô là em gái của Mai, khi Mai chết Dít vẫn còn là một cô bé nhưng sau đó Dít trở thành một cô chính trị viên. Trước đó Dít cũng nhân công việc liên lạc như chị gái mình và cũng đã nhiều lần bị giắc bắt và hăm dọa. Ban đầu cô gái ấy sợ sệt trước làn súng đạn bủa vây mình nhưng về sau, cô nhìn thẳng vào mặt bọn giặc với ánh mắt căm hận. Khi Tnú trở về làng, Dít rất vui mừng nhưng không quên kiểm tra giấy phép anh. Có thể nói Dít chính là thế hệ nối tiếp Mai tiếp tục làm cách mạng
Bé Heng cũng là một nhân vật đáng chú ý, bé Heng chính là bản sao của Tnú, mặc dù tuổi còn nhỏ nhưng đã thông thạo đường rừng nước bước. Ngày Tnú về làng, bé Heng gọi Tnú là đồng chí xưng là tôi và dẫn dắt Tnú đi qua biết bao nhiêu con đường với biết bao nhiêu cạm bẫy. Bé Heng nhanh nhẹn, gan góc anh hùng giống như Tnú ngày xưa vậy. Trong tương lai không xa, bé Heng lại trở thành một Tnú thứ hai, một cán bộ cách mạng tài giỏi.
Các nhân vật đại diện cho từng thế hệ con người Tây Nguyên, họ tuy độ tuổi khác nhau nhưng đều có chung một lòng yêu nước và căm thù giặc. Không những thế, họ đều là những người anh hùng của Tây Nguyên mang những phẩm chất và tính cách gan góc của người Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công các nhân vật của mình và truyền tải tới người đọc nội dung của thiên truyện.
Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện Rừng xà nu – mẫu 6
Mỗi mảnh đất trong cuộc kháng chiến của dân tộc đều gắn liền với hình ảnh riêng của mỗi nhà văn. Nếu như nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với mảnh đất miền Nam ruột thịt, thì Tây Nguyên là nơi ghi dấu nhiều kỉ niệm, nhiều hình ảnh đẹp trong ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Tiêu biểu cho các sáng tác đó là tác phẩm Rừng xà nu (1965) được in trong tập trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, tác phẩm là sự ghi dấu về hiện thực của nhân dân đồng bào Tây Nguyên anh dũng chiến đấu chống đế quốc Mĩ, cuộc chiến không chỉ là của riêng thế hệ trẻ dân làng Xô-man Tnu, Rít, Mai, bét Heeng… Mà còn là sự lãnh đạo của người đứng đầu làng là Cụ Mết. Một hình tượng của cây xà nu đại thụ – môt biểu tượng chung cho sức mạnh và sự bền bỉ trong chiến tranh và là biểu tượng linh hồn riêng của làng Xô-man.
Cụ Mết không xuất hiện ở ngay đầu tác phẩm nhưng sự xuất hiệ của cụ qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành cũng thực sự để lại những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc. “Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một kìm sắt… Ông cụ vẫn quắc thứơc như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng!.. ngực căng như một cây xà nu lớn…” Nhà văn đã tập chung miêu tả ngoại hình từ ngay những dòng văn đâu tiên nói về cụ. Qua đócụ Mết hiện lên với môt thân hình khỏe mạnh, hùng tráng; bộ râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng cho thấy cụ mang dáng dấp đúng của một người già làng; đôi mắt sáng xếch ngược hiện lên một con người có trí tuệ tinh nhanh và uy cường. Với chút miêu tả đó nhà văn cũng đã phần nào chứng tỏ được Cụ Mết là sức mạnh của núi rừng Tây Nguyên. Nhưng không chỉ dừng lại đó nhà văn còn miêu tả về giọng nói của cụ Mết với một giọng nói “ồ ồ, dội vang trong lồng ngực” không chỉ minh chứng cho sức ngân vang của cụ mà còn khẳng định sự lãnh đạo và chỉ huy được đám đông làng Xô-man. Cách nói của cụ như ra lệnh; không bao giờ cụ khen tốt hay giỏi nếu vừa ý thì nói “Được!”. Mệnh lệnh chiến đấu phát ra chắc nịch đó được thể hiện trong đêm T-nú bị giặc đốt mười ngón tay , “Chém! Chém hết!” của cụ như tiếng sấm bên tai không chỉ thúc giục tinh thần trong mỗi người sông lên cứu T-nú, mà còn phần nào đã khiến cho bọn thằng Dục bị đòn bất ngờ và có phầm khiếp sợ. Nhưng giọng nói cụ Mết cũng thật đầm ấm, trang nghiêm, linh thiêng như một huyền thoại – đó là khi cụ Mết kể về câu truyện của T-nú cho dân làng Xô-man. Mọi người vây quanh đống lửa trong không gian của nhà ưng và nghe cụ kể về T-nú với “tiếng nói rất trầm”. Qua đó, bạn đọc có thể thấy cụ Mết hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, biểu tượng cho sức mạnh dân tộc của các đồng bào vùng Tây Nguyên, là niềm tự hào của cộng đồng dân làng Xô-Man. Giọng nói của cụ như là tiếng của cuội nguồn,của núi rừng, của lịch sử, lời nói của cụ là sấm truyền sử thi, đó còn như những phán quyết của lịch sử, là sức mạnh hào hùng của thời đại.
Trong mối quan hệ với Đảng và Cách mạngcụ Mết càng là sợi dây gắn kết dân làng với lí tưởng, chỉ dãn của Đảng, bởi cụ luôn có niềm tin sâu sắc vào những đường lối của Đảng, tinh thần này càng được giáo dục một cách nghiêm khắc cho đám đông làng xô-man để khắc cốt ghi tâm. Đã có lần cụ từng khẳng định niềm tin ấy: “ Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước nfy còn.” Nhưng quan trọng hơn là cụ Mết đã đưa chân lí đó vào thực tiến của cuộc đấu tranh chống bọn đế quốc Mĩ bằng những chân lí thật giản dị: “Nhớ lấy, ghi lấy. sau này tao chết rồi, bay còn sống kể lại cho con cháu: Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo!…” Nhờ vào ý thức luôn giáo dục truyền thống vẻ vang của làng cho các thế hệ tiếp cận đó mà dân làng xô-man giữ được truyền thống kiên cường bất khuất khả năng giữ bí mật tuyệt đối, để làng Xô-man mãi tự hào khi trong suốt 5 năm kháng chiến chưa có cán bộ nào bị giặc bắt hay bị giết trong cánh rừng xà nu này. Nhưng để hiểu vì sao cụ Mết lại có miền tin sâu sắc vào Đảng thì đó chính là nhờ vào sự am hiểu tường tận và giành giot đường lối kháng chiến. Không chỉ là phương châm kháng chiến lấy bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng ( chúng nó đã cầm sung, mình phải cầm giáo). Mà Đặc biệt hơn cụ còn am hiểu về cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc : “ đánh thằng MĨ phải đánh lâu dài”. Ngoài ra, qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành ta còn thấy được tính kỉ luật cao trong con người cụ Mết qua cách chỉ huy dân làng khi trốn vào rừng lánh giặc chờ đợi thời cơ tiến hành khởi nghĩa : “thế là bắt đàu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông”. Chính vì thế, cụ Mết được hà văn miêu tả với hình tượng một cây xà nu đại thụ trong rừng xà nu, luôn là bong lớn cho dân làng Xô-man chống bọn đế quốc Mĩ, góp phần vào sự thành công của cuộc cách mạng trong cr nước.
Khi nói đến nhân vật cụ Mết trong tác phẩm rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung thành t không nói đến phẩm chất cao quý của cụ đối với T-nú đối với dân làng Xô-man. Qua ngòi bút của nhà văn cụ Mết hiện lên là một con người có lòng yêu dân làng, yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Đối với T-nú cụ luôn lấy anh làm tấm gương cho thế hệ trẻ noi theo, để học tập anh mà một long theo cách mạng, tiêu biểu cho sự giáo dục của cụ là bé Heeng – be Heeng đã tiếp thu truyền thống của anh T-nú qua cách giáo dục của cụ Mết. Trong long cụ T-nú hiện lên chân thật vói “đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Cụ thương những người dân làng Xô-man như người thân trong nhà với một sự đùm bọc, lãnh đạo che trở cho tất cả các thành viên. Từ đó, mà cụ trở thành người cha tinh thần, người truyền ngọn lửa tự do, và là linh hồn cuộc khởi nghĩa đồng khởi của dân làng Xô- man.
Cụ mết không phải là nhân vật chính trong ngòi bút của nhà văn nhưng qua tác phẩm ta cũng thấy được vai trò to lớn của cụ Mết trong việc tô thắm hình tượng nhân vật T-nú với lối kể chuyện lồng trong chuyện qua chuyện 1 đêm” của làng Xô-man. Hình ảnh cụ Mết khiên t liên tưởng tới nhân vật chú năm trong tác phẩm “những đữa con trong gia đình” 2 con người ở 2 vùng miền nhưng trong cùng một thời đại, là thế hệ đi trước, là lịch sử, là người giữ lửa và truyền ngọn lửa cho các thế hệ trẻ là tih thần của dân tộc góp phần to lớn vào thắng lợi chung của cả nước vào một ngày giải phóng hoàn toàn đất nước, dân tộc được tự do.
Hình ảnh cụ Mết tuy xuất hiện ít qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành, nhưng những gì nhà văn miêu tả về người già làng với một long theo Đảng, tin tưởng cách mạng càng làm them giá trị cho tác phẩm Rừng xà nu có sức âm vang tơi hôm nay và mai sau. Trong long bại đọc cụ Mết mãi là hình tượng bất tử cua cây xà nu đại thu vươn sức bảo vệ cho thế hệ trẻ phát triển để thực hiện thắng lợi thành công cuộc cách mạng dân tộc này.
Bài giảng: Rừng Xà Nu – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên cmm.edu.vn)
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 12