Văn mẫu lớp 12

[Năm 2022] Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích xem nhiều nhất

[Năm 2022] Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích xem nhiều nhất

[Năm 2022] Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích xem nhiều nhất

Bài văn Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích gồm dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 4 bài văn phân tích mẫu hay nhất, ngắn gọn được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 12. Hi vọng với
4 bài Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích này các bạn sẽ yêu thích và viết văn hay hơn.

Đề bài: Về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà anh chị yêu thích.

Bạn đang xem bài: [Năm 2022] Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích xem nhiều nhất

Dàn ý Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích

1. Mở bài

Giới thiệu khái quát về truyện ngắn yêu thích nhất đó là truyện nào? Ai là tác giả.

2. Thân bài

a. Tình huống truyện độc đáo

b. Nhân vật

c. Nghệ thuật

3. Kết bài

Khái quát những đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm và cảm nghĩ của bản thân.

[Năm 2022] Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích xem nhiều nhất

Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích – mẫu 1

Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích – mẫu 1

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam có nhiều tác giả, tác phẩm xuất sắc, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc và Nguyễn Tuân là một trong số những tác giả đó. Nguyễn Tuân được mệnh danh là “người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp” với phong cách tài hoa, uyên bác cùng vốn từ vựng phong phú và truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một trong số những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ của ông. Tác phẩm đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng độc đáo, không bao giờ có thể quên được.

Trước hết, truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo, mới lạ. Tình huống truyện trong tác phẩm chính là cuộc gặp gỡ giữa nhân vật Huấn Cao – người tử tù có tài viết chữ đẹp và viên quản ngục – người say mê cái đẹp, say mê chữ của Huấn Cao trong một hoàn cảnh rất đặc biệt đó chính là những ngày cuối cùng của án tử trong một trại giam. Đó là một cuộc gặp gỡ, một tình huống đầy éo le, trớ trêu và kịch tính bởi lẽ mối quan hệ của hai nhân vật rất đặc biệt. Xét trên bình diện nghệ thuật, Huấn Cao và viên quản ngục chính là tri âm, tri kỷ, một người sáng tạo cái đẹp còn một người say mê cái đẹp. Thế nhưng trên bình diện xã hội thì hoàn toàn ngược lại, họ lại là những kẻ đối nghịch nhau giữa một bên là tử tù – người chống lại triều đình và một bên là quản ngục – người làm việc cho tử tù. Và để rồi, chính tình huống đầy kịch tính ấy không những đã làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn, thú vị mà hơn thế nữa còn giúp nhân vật bộc lộ những vẻ đẹp, tấm lòng của các nhân vật, đúng như Nguyễn Minh Châu từng nói “Tình huống truyện như một thứ nước rửa hình, rửa ảnh mà qua đó làm nổi hình, nổi sắc nhân vật”.

Thêm vào đó, truyện ngắn “Chữ người tử tù” còn xây dựng được các nhân vật với nhiều vẻ đẹp đáng trân quý. Điều đó được thể hiện trước hơn hết ở nhân vật Huấn Cao. Đầu tiên, nhân vật Huấn Cao hiện lên là một người tài hoa – người có tài viết chữ đẹp, một thứ chơi tao nhã trong truyền thống của dân tộc từ ngàn đời nay. Đọc tác phẩm, chắc hẳn người đọc sẽ không thể nào quên được lời của viên quản ngục khi Huấn Cao vừa được đưa tới trại giam nơi đây “Huấn Cao ! hay là người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn ca tụng cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?” Lời khen ấy của viên quản ngục đã cho thấy tài viết chữ đẹp của Huấn Cao được nhiều người biết đến, được đồn đại, truyền tụng rộng rãi trong thiên hạ. Đồng thời, tài viết chữ đẹp ấy còn được thể hiện qua ước mơ, khát vọng cháy bỏng của viên quản ngục là một ngày kia có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà của mình. Như vậy, tài viết chữ đẹp của Huấn Cao đã được tác giả miêu tả một cách gián tiếp, làm tăng tính khách quan, tạo nên sự thuyết phục với bạn đọc, đồng thời, tài năng ấy cũng được tác giả miêu tả trực tiếp qua cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục nơi chốn ngục tù. Dẫu trong tư thế “cổ đeo gông, vai vướng xiềng” những chữ của Huấn Cao vẫn thật đẹp – những “nét chữ vuông tươi tắn như hoài bão tung hoành của một đời người”. Thêm vào đó, Huấn Cao còn là người có khí phách hiên ngang trước cường quyền, bạo lực. Có thể nói thái độ, cách ứng xử của Huấn Cao khi đến trại giam – thái độ dỗ gông, chúc mũi gông đã cho thấy sự phản kháng, trêu ngươi, thách thức của ông. Đồng thời, lời đáp của Huấn Cao với viên quản ngục khi được viên quản ngục quan tâm cũng đã thể hiện rõ điều đó. “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người đừng có tới quấy rầy ta.” Câu nói đầy khảng khái ấy của Huấn Cao đã cho thấy thái độ hiên ngang, không sợ cường quyền của ông. Cuối cùng, ở nhân vật Huấn Cao, chúng ta còn thấy hiện lên là một người có thiên lương trong sáng. Huấn Cao đã từng nói với viên quản ngục “ta không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết bao giờ”. Lời nói ấy của Huấn Cao đã cho thấy vẻ đẹp tâm hồn trong sáng của ông, ông không cho chữ vì tiền bạc, quyền lực mà chỉ cho chữ những người ông coi là tri âm, tri kỷ, cho những người biết trân trọng và thưởng thức cái đẹp. Và đặc biệt, vẻ đẹp thiên lương trong sáng của ông còn được thể hiện rõ nét qua hành động cho chữ, lời nói của ông khi biết được sở thích cao quý của viên quản ngục “Ta rất cảm kích tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.” Hành động, tấm lòng ấy của Huấn Cao là sự đền đáp một tấm lòng tri âm tri kỷ, đồng thời, nó cũng thể hiện quan điểm của Nguyễn Tuân về cái Đẹp – cái Đẹp phải đi liền với cái tài và cái tâm.

Cùng với nhân vật Huấn Cao, hình tượng nhân vật viên quản ngục cũng là một nhân vật hiện lên với tấm lòng đáng trân trọng. Dẫu sống nơi chốn nhà tù tăm tối với biết bao điều xấu xa, ấy vẫn mà viên quản ngục vẫn giữ được nhân cách sống cao quý của mình. Ông là một người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” – biết quý trọng người có tài. Tấm lòng này của ông được thể hiện chân thực và rõ nét qua thái độ, cách ứng xử của viên quản ngục với Huấn Cao. Đồng thời, ông cũng là một người say mê cái đẹp, có sở thích cao quý – thú chơi chữ. Suốt cả cuộc đời mình, viên quản ngục luôn có một ước mơ, một khao khát cháy bỏng là có được câu đối do chính tay Huấn Cao viết để treo trong nhà. Và để rồi, chính niềm khao khát cháy bỏng ấy cùng niềm say mê cái đẹp của mình đã khiến ông bất chấp mọi hiểm nguy, mọi nỗi sợ hãi để xin chữ Huấn Cao ngay chốn ngục tù.

Đặc biệt, đọc truyện ngắn “Chữ người tử tù”, người đọc sẽ không thôi ám ảnh về cảnh cho chữ trong phần cuối của tác phẩm. Cảnh cho chữ vốn diễn ra ở những nơi thanh tao, cao quý, nay lại diễn ra ngay chốn ngục tù, trong “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện” giữa đêm khuya yên tĩnh – đêm cuối cùng của người từ tù. Và để rồi, trong hoàn cảnh đặc biệt ấy, dưới ánh sáng của bó đuốc, cảnh cho chữ đã diễn ra. Người tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván” còn viên quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” và thầy thơ lại thì “run run bưng chậu mực”. Ở đây, dường như đã có sự đảo lộn về vị thế của các nhân vật, đáng lẽ ra người phải khúm núm, run sợ chính là tên tử tù nhưng người tử tù này lại hiên ngang, đĩnh đạc. Còn thầy thơ lại và viên quản ngục đáng ra ở trong tư thế hiên ngang thì lại khúm rúm, run sợ trước tên tử tù. Đó phải chăng là sự chiến thắng của cái đẹp của cái thiên lương. Và để rồi, cảnh cho chữ này đã thể hiện rõ nét quan niệm của Nguyễn Tuân về cái Đẹp. Với Nguyễn Tuân, cái Đẹp sẽ luôn chiến thắng cái ác, cái xấu xa, cái bẩn thỉu và nó có thể nảy sinh từ trong cái ác, cái xấu nhưng chúng không thể lẫn lộn. Đồng thời, cái đẹp luôn có sức mạnh cảm hóa con người, luôn hướng con người tới thiên lương.

Tóm lại, truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân là một tác phẩm đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật. Đồng thời, qua tác phẩm cũng giúp chúng ta hiểu hơn về nhà văn Nguyễn Tuân cũng như quan niệm độc đáo của ông về cái Đẹp.

[Năm 2022] Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích xem nhiều nhất

Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích – mẫu 2

Kim Lân là nhà văn hiện đại Việt Nam. Ông có một vốn sống vô cùng sâu sắc về nông thôn Việt Nam. Những thú chơi dân dã mang cốt cách “phong lưu đồng ruộng” như thả diều, chọi gà, nuôi chó săn, thả chim bồ câu, chơi núi non bộ, gánh hát chèo, trẩy hội mùa xuân, v.v… được ông viết rất hay và cho ta nhiều thú vị. Ông là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc mang hương đồng gió nội qua 2 tác phẩm: Con chó xấu xí và Nên vợ nên chồng.

Viết về đề tài nông dân và kháng chiến, truyện Làng của Kim Lân thành công hơn cả. Nhân vật chính của truyện là ông Hai đã để lại trong lòng em nhiều ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ.

Ông Hai là một lão nông, cần cù chất phác, giàu lòng yêu quê hương đất nước. Ông gắn bó với cách mạng, quyết tâm đi theo kháng chiến, trung thành tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của Cụ Hồ Chí Minh.

Cũng như hàng triệu người nông dân khác, ông Hai là một con người cần cù chất phác rất đáng yêu. Ông hay lam hay làm “ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay”. Đi cày, đi cuốc, gánh phân, tát nước, đan rổ, đan rá,… ông đều làm khéo, làm giỏi.

Ông Hai đã sống qua hai chế độ, trước kia ông mù chữ, sau nhờ cách mạng mà ông được học “bình dân học vụ”, biết đánh vần. Kim Lân đã kể rất hay về tình yêu làng của ông Hai. “Làng ta phong cảnh hữu tình”… không yêu làng sao được? Cái làng Chợ Dầu vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của ông, “nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh”, “dường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió… bùn không dính đến gót chân”…

Trước kia, ông Hai rất lấy làm tự hào về cái sinh phần quan tổng đốc làng ông. Đi đâu ông cũng khoe, gặp ai ông cũng khoe “cái dinh cơ cụ thượng làng tôi có lắm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh non như động ấy…”. Ông yêu làng Chợ Dầu với tất cả sự hồn nhiên, ngây thơ của người ít học. Ông đã mang thương tật trên mình khi bị bắt làm phu xây cái lăng ấy! Đáng lẽ ông không nên khoe, không nên “hả hê cả lòng”. Nỗi đau, nỗi nhục của một đời người nói làm gì nữa cho thêm phần nhục nhã? Nhắc lại chuyện xưa, cũ ấy của ông Hai, Kim Lân đã viết với một giọng văn châm biếm nhẹ nhàng. Từ ngày cách mạng thành công, ông Hai vẫn yêu làng, yêu với tất cả tình cảm trong sáng, chân thành. Ông đã có nhiều thay đổi về mặt nhận thức. Ông không bao giờ còn “đả động” đến “cái sinh phần” ấy nữa, ông biết “thù nó” đến tận tim gan. Ông yêu cái làng Chợ Dầu kháng chiến với tất cả niềm kiêu hãnh cao cả! Cái làng Chợ Dầu của ông “mà cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”. Ông khoe làng mình “những ngày khởi nghĩa rầm rập”, các cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vác gậy đi tập quân sự, “nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì lắm công trình không để đâu hết!”. Có thể nói, từ ngày đi tản cư, phải xa làng thân yêu, bao nỗi buồn vui của quá khứ và hiện tại chứa chất trong lòng ông bao tâm sự. Dưới ngòi bút của Kim Lân, ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước, hiền lành, chất phác… hiện lên một cách chân thực, ta thấy gần gũi, bình dị và đáng yêu lắm. Tình yêu làng, tình yêu quê hương là một trong những tình cảm sâu sắc nhất của người dân cày Việt Nam.

Quyết tâm kháng chiến, tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch cũng là một nét rất đẹp trong tư tưởng, tình cảm của ông Hai. Kháng chiến thì khắp nơi “Ruộng rẫy là chiến trường. Cuốc cày là vũ khí. Nhà nông là chiến sĩ”. Vợ con đi tản cư, nhưng ông Hai vẫn ở lại cùng với đội du kích “đi đào đường, đắp ụ” để bảo vệ cái làng Chợ Dầu thân yêu. Khi hoàn cảnh gia đình neo bấn, vợ con thúc hách, cực chẳng đã phải xa quê hương, ông tự an ủi mình: “Thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được thì tản cư âu cũng là kháng chiến!”.

Xa làng rồi nhớ làng, tính nết ông Hai có phần thay đổi. Ông ít nói ít cười, lầm lầm lì lì, thậm chí cáu gắt, chửi bới vợ con. Ông vô cùng đau khổ: “Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ! Ông thì giết hết, ông thì giết hết!”. Chúng ta cảm thông với “tâm sự” u uẩn của ông, thương ông lắm! Trong lúc ông Hai đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương dũng cảm anh hùng của quân và dân ta thì ông như bị sét đánh về cái án “dữ” cả làng Chợ Dầu “Việt gian theo Tây”,.., “vác cờ thần ra hoan hô” lũ giặc cướp! Ông tủi nhục cúi gằm mặt mà đi, nằm vật ra giường như bị ốm nặng, nước mắt cứ tràn ra, có lúc ông chửi thề một cách chua chát! Ông sống trong bi kịch triền miên. Vợ con vừa buồn vừa sợ. “Gian nhà lặng đi, hiu hắt”. Ông sợ mụ chủ nhà… có lúc ông nghĩ quẩn “hay ta quay về làng”… nhưng rồi ông lại kiên quyết: “Lùng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!!’. Kim Lân rất sâu sắc và tinh tế miêu tả những biến thái vui, buồn, lo, sợ… của người nông dân về cái làng quê của mình. Họ đã yêu làng trong tình yêu nước, đạt tình yêu nước lên trên tình yêu làng. Đó là một bài học vô cùng quý giá và sâu sắc của ông Hai đem đến cho mỗi chúng ta!

Cuộc đối thoại giữa hai bố con ông Hai là một tình tiết cảm động và thú vị:

… – “À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?”

– “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”

Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt ông chảy ròng ròng trên hai má… Lòng trung thành của cha con ông, của hàng triệu nông dân Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc, kiên định, vẻ đẹp tâm hồn ấy của họ rất đáng tự hào, ca ngợi.

Vì thế, khi cái tin thất thiệt “cả cái làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây” được cải chính thì ông Hai là người sung sướng nhất. Ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, “mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ…”. Ông mua quà cho con. Ông chạy sang nhà bác Thứ để “khoe” cái tin làng Chợ Dầu đánh giặc, nhà ông bị Tây đốt. Tự hào lắm chứ! Người đọc như được san sẻ niềm vui sướng cùng ông.

Gấp trang sách lại, chúng ta bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn, hồi hộp của nhà văn Kim Lân. Những phẩm chất tốt đẹp của ông Hai như cần cù lao động, chất phác, yêu quê hương đất nước… tiêu biểu cho bản chất cao quý, trong sáng của người dân cày Việt Nam. Chính họ đã đổ mồ hôi làm nên những bát cơm đầy dẻo thơm nuôi sống mọi người. Chính họ đã đem xương máu, đánh giặc “giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”… (Thép Mới).

“Quê hương là chùm khế ngọt…”là niềm vui, nỗi buồn, là ước mơ đẹp của mỗi chúng ta. Quê hương đang đổi mới “ngói hóa”, no ấm, giàu có trong thanh bình.

Bài học sâu sắc nhất đối với em khi đọc truyện ngắn này của Kim Lân là tình yêu quê hương đất nước, từ lòng tự hào và biết ơn người dân cày Việt Nam.

Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích – mẫu 3

Trong hàng loạt các tác phẩm văn xuôi hiện đại viết về chiến tranh, có lẽ truyện ngắn Vợ nhặt là một trong những tác phẩm văn xuôi được người đọc yêu thích nhất. Truyện không có bom đạn, không có tiếng súng nổ thế nhưng lại ám ảnh người đọc bằng những hình ảnh chân thực đau xót của nạn đói và đồng cảm yêu mến trước tình người mà các nhân vật trong truyện dành cho nhau trong hoàn cảnh nạn đói hoành hành.

Vợ nhặt là một sáng tác tiêu biểu của nhà văn Kim Lân – một nhà văn luôn viết về những người nông dân. Mở đầu tác phẩm, Kim Lân mở ra trước mắt người đọc một bức tranh thảm cảnh của nạn đói năm 1945 đó, con người không còn sự sống, sáng ra thấy thoi thóp thì chưa về đã chết rồi. Những người chết đói từ Thái Bình kéo lên xanh xám “như những bóng ma”, họ “dắt díu”, “bồng bế” nhau. Một cảnh tượng vô cùng thê thảm và đáng sợ, thần chết như đang quanh quẩn đâu đây để có thể lấy hồn người đi bất cứ lúc nào. Không chỉ có hình ảnh thê thảm, bức tranh nạn đói còn hiện lên với những mùi tanh tưởi, mùi gây của xác người chết. Những xác chết ấy chồng chất lên nhau. Tiếng người khóc hòa vào tiếng quạ kêu thiết trên những hàng cây cao càng làm cho bức tranh thêm thê lương.

Tưởng chừng trong nạn đói ấy, người ta chỉ biết dành giật của nhau mà sống, người nào cũng vì sự sống mà ích kỷ chỉ biết lo cho thân mình nhưng anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ lại trao cho nhau những tình cảm gia đình vô cùng thân thương.

Anh Tràng là một người xấu trai, con một, làm nghề kéo xe thóc thuê. Anh sống cùng người mẹ già là bà cụ tứ ở xóm ngụ cư. Cái lưng của anh to như lưng gấu, mắt gà gà đắm vào nắng chiều, lúc nào cũng ngẩng lên trời lẩm nhẩm gì đó một mình và thường trêu đùa với mấy đứa trẻ con trong xóm mỗi khi đi làm về. Xấu trai là thế, nghèo là thế nhưng anh Tràng lại nhặt được vợ trong hoàn cảnh nạn đói ấy. Nạn đói ấy làm người ta mất đi về ý thức, người vợ nhặt phận là con gái nhưng chao chát cong cớn, gặp anh Tràng kéo xe bò gặp đúng hai lần thì theo không về nhà làm vợ người ta. Chưa bao giờ con người lại rẻ rúng đến thế, giống như cọng rơm cọng rác ai muốn nhặt là đều có thể nhặt được. Nhưng suy cho cùng người vợ nhặt cũng chỉ muốn có một bến đậu để có thể cùng người đó thoát khỏi nạn đói khủng khiếp này, nạn đói khiến chị suy sụp đi “mặt như cái lười cày” không e ngại mà ăn một lúc bốn bát bánh đúc và theo không Tràng về nhà. Bởi chị ham sống cho nên chị mới có hành động như thế. Bà cụ Tứ biết rõ quan cảnh nhà nghèo nàn nhưng khi biết rõ sự tình về Tràng và người vợ nhặt thì nuốt nước mắt vào trong. Bà thương con trai mình rồi thương cả người đàn bà kia nữa. Bà không những chấp nhận mà còn khuyên răn và hướng con trai và con dâu mình đến một tương lai tươi sáng hơn.

Đặc biệt là buổi sáng hôm sau và bữa cơm đầu tiên khi có con dâu mới. Ai trong gia đình anh Tràng cũng cảm thấy vui vẻ phấn khởi. Có thể thấy trong nạn đói, tình người vẫn lấp lánh và tỏa sáng. Những con người trong nạn đói mang đến ánh sáng cho nhau, sưởi ấm trái tim nhau bằng tình người, sự đồng cảm. Anh Tràng thức dậy muộn nhất và chứng kiến những việc làm cho của mẹ và vợ mình. Anh cảm thấy mình nên có trách nhiệm với gia đình nhỏ của mình. Người vợ nhặt dậy từ sớm cùng mẹ chồng, gánh nước đổ vào cái máng khô cong, nhổ cỏ trong vườn và chuẩn bị bữa sáng. Cả mâm cơm chỉ có một niêu cháo loãng nhưng ai nấy ăn đều rất ngon lành và vui vẻ.

Không chỉ vậy, truyện ngắn còn thể hiện được hành trình đến với cách mạng của những người nông dân Việt Nam. Đó là hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng thấp thoáng trong đầu Tràng qua lời kể của người vợ nhặt về những người phá kho thóc Nhật phát cho dân nghèo.

Như vậy có thể thấy, Vợ nhặt tuy không có súng to đạn lớn, ầm ầm gào thét nhưng nó vẫn ám ảnh người đọc bởi bức tranh nạn đói thê lương, thảm họa nhân sinh, nó phản ánh sức tàn phá của chiến tranh và những thế lực gây chiến tranh. Bên cạnh đó, nhà văn ca ngợi những con người Việt Nam đã “lá lành đùm lá rách” trao nhau tình thương, tình người để vượt lên trên số phận và hoàn cảnh.

Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích – mẫu 4

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam có nhiều tác giả, tác phẩm xuất sắc, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc và Nguyễn Tuân là một trong số những tác giả đó. Nguyễn Tuân được mệnh danh là “người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp” với phong cách tài hoa, uyên bác cùng vốn từ vựng phong phú và truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một trong số những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ của ông. Tác phẩm đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng độc đáo, không bao giờ có thể quên được.

Trước hết, truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo, mới lạ. Tình huống truyện trong tác phẩm chính là cuộc gặp gỡ giữa nhân vật Huấn Cao – người tử tù có tài viết chữ đẹp và viên quản ngục – người say mê cái đẹp, say mê chữ của Huấn Cao trong một hoàn cảnh rất đặc biệt đó chính là những ngày cuối cùng của án tử trong một trại giam. Đó là một cuộc gặp gỡ, một tình huống đầy éo le, trớ trêu và kịch tính bởi lẽ mối quan hệ của hai nhân vật rất đặc biệt. Xét trên bình diện nghệ thuật, Huấn Cao và viên quản ngục chính là tri âm, tri kỷ, một người sáng tạo cái đẹp còn một người say mê cái đẹp. Thế nhưng trên bình diện xã hội thì hoàn toàn ngược lại, họ lại là những kẻ đối nghịch nhau giữa một bên là tử tù – người chống lại triều đình và một bên là quản ngục – người làm việc cho tử tù. Và để rồi, chính tình huống đầy kịch tính ấy không những đã làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn, thú vị mà hơn thế nữa còn giúp nhân vật bộc lộ những vẻ đẹp, tấm lòng của các nhân vật, đúng như Nguyễn Minh Châu từng nói “Tình huống truyện như một thứ nước rửa hình, rửa ảnh mà qua đó làm nổi hình, nổi sắc nhân vật”.

Thêm vào đó, truyện ngắn “Chữ người tử tù” còn xây dựng được các nhân vật với nhiều vẻ đẹp đáng trân quý. Điều đó được thể hiện trước hơn hết ở nhân vật Huấn Cao. Đầu tiên, nhân vật Huấn Cao hiện lên là một người tài hoa – người có tài viết chữ đẹp, một thứ chơi tao nhã trong truyền thống của dân tộc từ ngàn đời nay. Đọc tác phẩm, chắc hẳn người đọc sẽ không thể nào quên được lời của viên quản ngục khi Huấn Cao vừa được đưa tới trại giam nơi đây “Huấn Cao ! hay là người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn ca tụng cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?” Lời khen ấy của viên quản ngục đã cho thấy tài viết chữ đẹp của Huấn Cao được nhiều người biết đến, được đồn đại, truyền tụng rộng rãi trong thiên hạ. Đồng thời, tài viết chữ đẹp ấy còn được thể hiện qua ước mơ, khát vọng cháy bỏng của viên quản ngục là một ngày kia có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà của mình. Như vậy, tài viết chữ đẹp của Huấn Cao đã được tác giả miêu tả một cách gián tiếp, làm tăng tính khách quan, tạo nên sự thuyết phục với bạn đọc, đồng thời, tài năng ấy cũng được tác giả miêu tả trực tiếp qua cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục nơi chốn ngục tù. Dẫu trong tư thế “cổ đeo gông, vai vướng xiềng” những chữ của Huấn Cao vẫn thật đẹp – những “nét chữ vuông tươi tắn như hoài bão tung hoành của một đời người”. Thêm vào đó, Huấn Cao còn là người có khí phách hiên ngang trước cường quyền, bạo lực. Có thể nói thái độ, cách ứng xử của Huấn Cao khi đến trại giam – thái độ dỗ gông, chúc mũi gông đã cho thấy sự phản kháng, trêu ngươi, thách thức của ông. Đồng thời, lời đáp của Huấn Cao với viên quản ngục khi được viên quản ngục quan tâm cũng đã thể hiện rõ điều đó. “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người đừng có tới quấy rầy ta.” Câu nói đầy khảng khái ấy của Huấn Cao đã cho thấy thái độ hiên ngang, không sợ cường quyền của ông. Cuối cùng, ở nhân vật Huấn Cao, chúng ta còn thấy hiện lên là một người có thiên lương trong sáng. Huấn Cao đã từng nói với viên quản ngục “ta không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết bao giờ”. Lời nói ấy của Huấn Cao đã cho thấy vẻ đẹp tâm hồn trong sáng của ông, ông không cho chữ vì tiền bạc, quyền lực mà chỉ cho chữ những người ông coi là tri âm, tri kỷ, cho những người biết trân trọng và thưởng thức cái đẹp. Và đặc biệt, vẻ đẹp thiên lương trong sáng của ông còn được thể hiện rõ nét qua hành động cho chữ, lời nói của ông khi biết được sở thích cao quý của viên quản ngục “Ta rất cảm kích tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.” Hành động, tấm lòng ấy của Huấn Cao là sự đền đáp một tấm lòng tri âm tri kỷ, đồng thời, nó cũng thể hiện quan điểm của Nguyễn Tuân về cái Đẹp – cái Đẹp phải đi liền với cái tài và cái tâm.

Cùng với nhân vật Huấn Cao, hình tượng nhân vật viên quản ngục cũng là một nhân vật hiện lên với tấm lòng đáng trân trọng. Dẫu sống nơi chốn nhà tù tăm tối với biết bao điều xấu xa, ấy vẫn mà viên quản ngục vẫn giữ được nhân cách sống cao quý của mình. Ông là một người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” – biết quý trọng người có tài. Tấm lòng này của ông được thể hiện chân thực và rõ nét qua thái độ, cách ứng xử của viên quản ngục với Huấn Cao. Đồng thời, ông cũng là một người say mê cái đẹp, có sở thích cao quý – thú chơi chữ. Suốt cả cuộc đời mình, viên quản ngục luôn có một ước mơ, một khao khát cháy bỏng là có được câu đối do chính tay Huấn Cao viết để treo trong nhà. Và để rồi, chính niềm khao khát cháy bỏng ấy cùng niềm say mê cái đẹp của mình đã khiến ông bất chấp mọi hiểm nguy, mọi nỗi sợ hãi để xin chữ Huấn Cao ngay chốn ngục tù.

Đặc biệt, đọc truyện ngắn “Chữ người tử tù”, người đọc sẽ không thôi ám ảnh về cảnh cho chữ trong phần cuối của tác phẩm. Cảnh cho chữ vốn diễn ra ở những nơi thanh tao, cao quý, nay lại diễn ra ngay chốn ngục tù, trong “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện” giữa đêm khuya yên tĩnh – đêm cuối cùng của người từ tù. Và để rồi, trong hoàn cảnh đặc biệt ấy, dưới ánh sáng của bó đuốc, cảnh cho chữ đã diễn ra. Người tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván” còn viên quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” và thầy thơ lại thì “run run bưng chậu mực”. Ở đây, dường như đã có sự đảo lộn về vị thế của các nhân vật, đáng lẽ ra người phải khúm núm, run sợ chính là tên tử tù nhưng người tử tù này lại hiên ngang, đĩnh đạc. Còn thầy thơ lại và viên quản ngục đáng ra ở trong tư thế hiên ngang thì lại khúm rúm, run sợ trước tên tử tù. Đó phải chăng là sự chiến thắng của cái đẹp của cái thiên lương. Và để rồi, cảnh cho chữ này đã thể hiện rõ nét quan niệm của Nguyễn Tuân về cái Đẹp. Với Nguyễn Tuân, cái Đẹp sẽ luôn chiến thắng cái ác, cái xấu xa, cái bẩn thỉu và nó có thể nảy sinh từ trong cái ác, cái xấu nhưng chúng không thể lẫn lộn. Đồng thời, cái đẹp luôn có sức mạnh cảm hóa con người, luôn hướng con người tới thiên lương.

Tóm lại, truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân là một tác phẩm đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật. Đồng thời, qua tác phẩm cũng giúp chúng ta hiểu hơn về nhà văn Nguyễn Tuân cũng như quan niệm độc đáo của ông về cái Đẹp.

Nghị luận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà em yêu thích – mẫu 5

Trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam có nhiều truyện ngắn khiến em cảm thấy yêu thích. Nhưng tác phẩm khiến em có ấn tượng hơn cả đó chính là truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. Tác phẩm là một minh chứng hùng hồn cho quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh nghĩa là nghệ thuật phải vì con người, hướng đến con người. Đây cũng là truyện ngắn ghi dấu tên tuổi của tác giả Nam Cao trên văn đàn không chỉ trong giai đoạn 1930-1945 mà cho đến bây giờ ông vẫn còn được mọi người nhắc đến.

Trước khi có tên gọi là Chí Phèo, Nam Cao đã đặt cho tác phẩm của mình những cái tên khác như Đôi lứa xứng đôi hay Cái lò gạch cũ. Tuy nhiên, Chí Phèo là tên gọi lột tả được chính xác nhất nội dung của tác phẩm này. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật Chí Phèo, cũng là đại diện cho một tầng lớp nhân dân sống dưới ách phong kiến và bị bóc lột một cách tàn nhẫn. Giai cấp thống trị là những kẻ có tiền. Chỉ cần chúng muốn thì chúng có thể tước đoạt là quyền sống của người khác. Chí Phèo, một người nông dân lương thiện nhưng đã bị lưu manh hóa vì xã hội ấy. Tác phẩm không chỉ mang đến giá trị hiện thực mà còn thể hiện được giá trị nghệ thuật xuất sắc. Vì vậy mà Chí Phèo được xem là một kiệt tác của văn xuôi hiện đại.

Ngay từ mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã cho người đọc hình dung được chân dung của nhân vật Chí Phèo. Chí Phèo vốn là trẻ mồ côi, hắn chẳng biết ai sinh ra mình. Đó là cái bất hạnh đầu tiên của Chí. Nỗi bất hạnh tiếp theo là Chí bị hàm oan nên phải ngồi tù sáu, bảy năm trời. Chính những năm tháng ngồi tù, tiếp xúc với những kẻ lưu manh đã biến Chí từ một anh chàng “hiền như cục đất” thành một kẻ lưu mạnh. Mặt Chí đầy những vết sẹo vì Chí cứ say là đi rạch mặt ăn vạ. Cả làng Vũ Đại không ai bận tâm tới Chí. Chí không có người thân, Chí không có bạn bè. Chí bơ vơ giữa cuộc đời này mà người duy nhất nói chuyện với Chí là Bá Kiến. Chính vì vậy mà Chí bị phụ thuộc vào Bá Kiến. Bá Kiến cho Chí tiền uống rượu để biến Chí thành tay sai cho mình.

Có lẽ chính cuộc đời quá bất hạnh của mình khiến Chí phải vui mình trong rượu. Chí không dám tỉnh bởi khi hắn tỉnh hắn sẽ thấy cuộc đời quá tàn nhẫn với hắn. Hắn sẽ phải đối diện với sự cô đơn, cô đơn đến cùng cực khi mà đến cả chửi nhau cũng chẳng ai thèm chửi với hắn. Chí Phèo là hiện thân của nỗi khổ và rượu là thứ để hắn quên khổ.

Lần đầu tiên trong đời Chí Phèo muốn mình tỉnh là khi gặp Thị Nợ. Thị Nợ cũng giống Chí Phèo, Thị bị người đời xa lánh vì vẻ ngoài xấu xa của mình. Nhưng dưới ngòi bút của Nam Cao, Thị trở nên đẹp biết bao trong mắt Chí. Thị đánh thức nội tâm của Chí bằng sự quan tâm chân thành, bằng bát cháo hành khi Chí bị ốm. Chí thèm được là con người hơn lúc nào hết. Nhưng đúng là xã hội tàn nhẫn với con người ta đến cùng. Chúng đã khước từ cái mong ước được làm người lương thiện của Chí. Nỗi bất hạnh của Chí lên đến đỉnh điểm khi Thị Nợ bỏ Chí mà đi. Thị Nở bỏ đi vì cô của Thị không cho Thị lấy Chí. Cô của Thị chính là đại diện cho giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến xưa cũ.

Thị Nở đi cũng là khi Chí Phèo đã tỉnh. Lần đầu tiên trong cuộc đời hắn nhận ra đâu là đêm, đâu là ngày. Lần đầu tiên trong cuộc đời hắn nhìn ra ánh sáng, nghe thấy tiếng chim. Nhưng cũng chính vì hắn tỉnh nên hắn không thể chấp nhận được cuộc sống của mình. Bi kịch cuộc đời Chí khép lại, hắn tự kết liễu cuộc đời mình để giải thoát cho chính hắn.

Thông qua nhân vật Chí Phèo và tác phẩm cùng tên của mình, Nam Cao muốn nói đến sự bất công của xã hội, nói đến sự bất hạnh của con người. Tác phẩm khép lại, người đọc vẫn còn đau đáu những suy nghĩ về nó. Thương sao những số phận lầm than sống mà như đã chết rồi.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 được xem nhiều nhất chọn lọc hay khác:

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 12

Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Cách đây 40 năm về trước, mặc dù miền Bắc XHCN khi đó đang nặng hai vai gánh cả non sông vượt dặm dài, vừa là hậu phương lớn chi viện tích cực cho các chiến trường với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, vừa là tiền tuyến đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo vẫn không ngừng phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt và sự nghiệp tái thiết đất nước lâu dài sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu của công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch các vùng kinh tế mới,vùng chuyên canh, xây dựng các nông trường, Bộ Nông trường ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) đã có Quyết định số 115 QĐ/TC ngày 05 th áng 9 năm 1968 về việc mở Lớp công nhân đo dạc - tiền thân của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung ngày nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button