Văn mẫu lớp 12

[Năm 2022] Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn xem nhiều nhất (6 mẫu)

[Năm 2022] Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn xem nhiều nhất (6 mẫu)

[Năm 2022] Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn xem nhiều nhất (6 mẫu)

Bài văn Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn gồm dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và bài văn phân tích mẫu hay nhất, ngắn gọn được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 12. Hi vọng với
bài Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn này các bạn sẽ yêu thích và viết văn hay hơn.

Đề bài: Câu thơ “Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn” (Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm) có nét tương đồng với những lời ca dao nào? Phân tích ngắn gọn câu ca dao này trong sự đối chiếu, so sánh với những bài ca dao mà anh chị đã liên tưởng.

Bạn đang xem bài: [Năm 2022] Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn xem nhiều nhất (6 mẫu)

Dàn ý Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn

1. Mở bài

– Giới thiệu về câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” của Nguyễn Khoa Điềm.

2. Thân bài

– Dẫn một số các câu ca dao tương đồng với ý thơ của tác giả.
– Phân tích ý nghĩa “gừng cay muối mặn” trong ca dao xưa.
+ Thể hiện sự cay đắng, mặn mà trong đời sống tình cảm vợ chồng, qua đó thể hiện tấm lòng thủy chung son sắt của vợ chồng trong gia đình.
+ “gừng cay muối mặn” trong ca dao xưa làm minh chứng, là biểu tượng của tình cảm vợ chồng, chính là xuất phát từ sự thân thuộc gần gũi như “muối” và “gừng” kết hợp với những tầng ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa trong đó.

– Ý nghĩa của câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
+ Gợi ra tình cảm vợ chồng thủy chung son sắt trong truyền thống gia đình của dân tộc ta từ bao đời nay.
+ Trở thành biểu tượng đại diện cho vẻ đẹp tinh thần của ông cha ta từ bao đời nay, góp phần làm nên giá trị văn hóa truyền thống bền vững của dân tộc, rồi từ đó hình thành nên Đất Nước.
3. Kết bài

Nêu cảm nghĩ về câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm.

[Năm 2022] Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn xem nhiều nhất (6 mẫu)

Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn – mẫu 1

Đoạn trích “Đất nước” nằm trong trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm là một đoạn trích hay và độc đáo với hình tượng “đất nước của nhân dân”. Có thể nói một trong những thành công của đoạn trích đó là việc xây dựng nên đất nước từ những chất liệu dân gian gần gũi và quen thuộc. Đọc bài thơ thấy thấp thoáng trong đó bóng dáng của những câu ca dao yêu thương tình nghĩa từ ngàn đời nay: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

Ra đời trong thời kì chống Mĩ, “Mặt đường khát vọng” là bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp vào cuộc chiến đấu của toàn dân tộc… “Đất nước” được trích từ phần đầu chương V của trường ca, là bài hát ngợi ca Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp trong đó hình tượng đất nước được khai thác từ góc nhìn văn hóa dân tộc, tập trung khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. Câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” nằm trong trường liên tưởng về những yếu tố tạo nên đất nước. Tất cả đều thật gần gũi và thân thương.

“Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…mẹ thường hay kể

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất nước có từ ngày đó”

Làm nên đất nước này là truyền thống yêu nước, là nền văn hóa riêng, là những tình cảm con người thủy chung son sắt. Tình cảm “thương nhau bằng gừng cay muối mặn” ấy đâu chỉ là của riêng cha mẹ, đó còn là tình yêu thương nói chung của tất cả những con người đang sống chung trong một mảnh đất thân thương được gọi tên là “Đất nước”. Nó gợi ta nhớ đến những bài ca dao nghĩa tình thân quen từ ngàn xưa:

“Tay nâng chén muối đĩa gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

“Rủ nhau xuống bể mò cua

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng

Em ơi chua ngọt đã từng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Hay:“Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

Ca dao, dân ca là nguồn sữa nuôi dưỡng tinh thần con người Việt Nam tự bao đời nay. Tình cảm yêu thương, tình nghĩa của con người trong ca dao là thứ tình cảm cao đẹp bắt nguồn từ những gì gần gũi nhất. Chính vì lẽ đó mà ca dao từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng, chất liệu cho người nghệ sĩ sáng tác. Cùng với đoạn trích “Đất nước”, hình ảnh “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một trong những ví dụ tiêu biểu.

Gừng và muối là những hình ảnh thường bắt gặp trong ca dao. Người xưa đã dựa vào những đặc tính tự nhiên của chúng để diễn tả tình nghĩa thủy chung son sắt của con người. Muối mặn, còn gừng thì thời gian chỉ làm cho tính chất của nó càng thêm đậm đặc, “gừng càng già càng cay”. Chúng cũng giống như tình cảm yêu thương chân thành của con người sẽ càng trở nên mặn mà, đằm thắm qua thời gian.

Xây dựng “đất nước của nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm mượn chính những hình ảnh dân gian để vận dụng vào trong thơ mình, thể hiện một cách chính xác và đầy hình tượng về truyền thống tình cảm tốt đẹp của người dân Việt Nam. Đó là “gừng cay”, là “Muối mặn” bởi cha ông ta đã khẳng định:

“Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay”

Qua đó nói lên lời thề hẹn, ao ước:

“Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

“Ba vạn sáu ngàn ngày” là thời gian của một trăm năm. Nó bắt nguồn từ khao khát sống hạnh phúc cùng nhau đến lúc “Đầu bạc răng long”, “Bách niên giai lão”, tức sống cùng nhau đến trọn cuộc đời. Nó cũng giống như lời ao ước tình cảm của “đôi ta” sẽ ngày càng sâu đậm, không bao giờ xa cách. Hành động “Tay bưng chén muối đĩa gừng” gần như mang tính biểu tượng. Nhắc đến chúng là nhắc tới chúng là nhắc tới sự đậm đà, sâu sắc. Bởi vậy nhân vật trữ tình trong bài ca dao đã đưa nó rá như một minh chứng cho lời hẹn thề thủy chung. Thế mới có chuyện đang từ hành động:

“Rủ nhau xuống bể mò cua”

Cha ông liên hệ ngay đến những đắng cay, ngọt bùi trong cuộc sống mà tha thiết:

“Em ơi chua ngọt đã từng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Đọc những câu ca dao, thấy nổi bật lên trong đó là sự khẳng định tình cảm lứa đôi còn trong thơ Nguyễn Khoa Điềm những gì nhà thơ gửi gắm còn nhiều hơn thế. Không chỉ đơn thuần là lời ngợi ca, khẳng định tình cảm thủy chung đôi lứa, câu thơ còn gợi lên thứ tình cảm rộng lớn hơn là nghĩa tình của con người nói chung với nhau. Tất nhiên, cũng có mạch nguồn từ truyền thống tình cảm tốt đẹp của dân tộc nhưng trong tư tưởng “đất nước của nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm đã khiến cho nó có tầm rộng và bao quát hơn. Câu thơ không chỉ cho ta thấy tình cảm yêu thương mà còn khẳng định sức mạnh của tình cảm ấy nữa. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, thương nhau từ những khó khăn vất vả trong cuộc sống, và không vì những khó khăn ấy mà đổi thay. Hình ảnh “gừng cay muối mặn” gợi người ta nhớ đến một đất nước Việt Nam trong “Bài thơ của một người yêu nước mình” (Trần Sao Vàng):

“Tôi yêu đất nước này cay đắng

Những đêm dài thắp đuốc đi đêm

(…) Áo mồ hôi những buổi chợ về

Đời cúi thấp

Gánh từng lon gạo mốc

Từng cọng rau, hạt muối

(…) Tôi yêu đất nước này áo rách

Căn nhà dột, phên không ngăn nổi gió

Vẫn yêu nhau qua từng hơi thở

Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài”

Tình yêu thương bắt nguồn và gắn bó với những gì thân thuộc và gần gũi nhất, với cả những gian lao và vất vả trong cuộc sống. Với họ, gian khổ càng làm cho nó trở nên sâu sắc hơn.

Vì là hình tượng “đất nước của nhân dân” nên những hình ảnh được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong bài thơ hết sức gần gũi, thân thuộc trong đó chất liệu dân gian được dùng một cách rất đắc dụng. Đất nước được bắt nguồn và nuôi dưỡng bằng nguồn sữa tinh thần là ca dao, dân ca, cổ tích; đất nước được làm nên từ lịch sử oai hùng của dân tộc khi “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”; mỗi địa danh, mỗi mảnh đất đều gắn với những con người cụ thể là nhân dân mà “những cuộc đời đã hóa núi sông ta”… Tình yêu thương như “gừng cay muối mặn” của mẹ và cha chính là nét truyền thống tốt đẹp trong đời sống tình cảm của con người Việt Nam. Nó đã được đúc kết và khẳng định từ lịch sử hàng nghìn năm, thời của những bài ca dao và dân ca đến nay, góp phần:

“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Việc sử dụng chất liệu từ trong ca dao, dân ca làm cho ý thơ trở nên sâu sắc, giàu sức liên tưởng, sâu sắc và dễ đi vào lòng người hơn. Đó cũng chính là một trong những lí do làm nên thành công của đoạn trích.

Câu thơ không chỉ có giá trị như một lời khẳng định đầy thuyết phục truyền thống tình cảm tốt đẹp của con người Việt Nam mà còn góp phần tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm khi xây dựng hình ảnh đất nước của nhân dân. Từ đó chúng ta có thêm một cách nhìn khác nữa về đất nước:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước minh thi bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…

[Năm 2022] Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn xem nhiều nhất (6 mẫu)

Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn – mẫu 2

Khi đọc bài thơĐất nướccủa Nguyễn Khoa Điềm, hồn tôi xao xuyến khi bắt gặp câu thơ:Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Có biết bao nhiêu bài ca dao đã nói về tình nghĩa vợ chồng, về tình cảm mẹ cha và cũng đã bao lần hình ảnhgừng cay muối mặnxuất hiện để nói lên những tình nghĩa thiêng liêng ấy. Như:

Ai ơi chua ngọt đã từng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

Hay:

Muối ba năm muối hãy còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay…

Tất cả những câu ca dao ấy đều nói lên tình nghĩa vợ chồng thủy chung, sắt son và cao quý.

Hình ảnh gừng và muối đã quá quen thuộc trong văn học dân gian Việt Nam, trong đời sống thường ngày của người dân. Dù nông thôn hay thành thị, dù giàu hay nghèo, trong gian bếp của mỗi nhà vẫn không thể thiếu hai thứ gia vị này. Bởi thế, gừng và muối là thứ rất quen thuộc, rất gần gũi với đời sống của nhân dân. Không những thế, vị đặc trưng của gừng là cay, của muối là mặn, cả hai gia vị đều mang vị rất đậm đà, làm cho món ăn trở nên thơm ngon hơn. Và khi được nhân hóa, ẩn dụ cho tình người, gừng và muối lại thể hiện sự thắm thiết, sâu nặng, nghĩa tình gắn bó, khăng khít.

Hơn thế nữa, gừng và muối còn tượng trưng cho những cay đắng, những gian nan vất vả, cho sự đồng cam cộng khổ của vợ chồng. Khi cùng nhau trải qua những thăng trầm của cuộc sống, người ta sẽ hiểu nhau hơn, trân quý nhau hơn. Trong vợ chồng ngoài tình còn có nghĩa. Vì thế, họ ngày càng gắn bó với nhau, yêu thương nhau và đỡ đần nhau trong mọi hoàn cảnh sống.

Muối ba năm muối hãy còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay…

Ba năm hay chín tháng là những con số cụ thể để ẩn chứa cho sự vô tận của tháng ngày mà cha mẹ đã dành tình nghĩa cho nhau.

Ai ơi chua ngọt đã từng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

Và thêm một lời nhắc nhở nhẹ nhàng cho nghĩa tình vợ chồng, dẫu cay đắng hay ngọt bùi cũng đừng bao giờ rời xa nhau. Đó là những câu ca dao rất gần gũi, giản dị với giọng điệu nhẹ nhàng, thiết tha, dễ khắc sâu vào lòng người. Từ trong những câu ca dao “huyền thoại” ấy, khi nói về Đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mượn lại hình ảnh gừng cay muối mặn để nói lên nghĩa tình giữa cha mẹ. Rằng Đất nước được tạo nên từ chính những nghĩa tình thiêng liêng, cao cả ấy. Không bạc vàng xa hoa, cũng không màu mè hoa mỹ, hình ảnh gừng cay muối mặn quá đủ để người đọc hiểu được mối thân tình của vợ chồng, của mẹ cha dành cho nhau. Trong những lúc khó khăn nhất, thiếu thốn nhất, tình cảm ấy vẫn luôn gắn bó khăng khít không xa rời.

Những câu thơ và câu ca dao ấy còn là bài học sâu sắc cho cuộc sống vợ chồng của thời buổi hiện đại như ngày nay. Khi không còn phải cùng nhau trải qua từng bữa cơm trộn khoai trộn sắn, cùng đắp chung một mảnh chăn lạnh lẽo bé nhỏ, khi mà mọi thứ đã quá đầy đủ thì dường như tình nghĩa vợ chồng đôi khi cũng không còn được thắm thiết nữa. Thậm chí có những cặp vợ chồng đến với nhau vì danh lợi, vì tiền bạc… Họ lợi dụng nhau, thích thì ở, không thích thì ngoại tình… Những điều đó không những làm mất hạnh phúc gia đình, mất đi giá trị tốt đẹp của nhau mà còn làm cho xã hội đi xuống. Bởi gia đình là tế bào của xã hội, khi tế bào không tốt, tất nhiên cũng ảnh hưởng không tốt tới xã hội. Gừng cay muối mặn vẫn còn đó, gia đình nào cũng vẫn đang sử dụng đó, nhưng không phải vợ chồng nào cũng gìn giữ những ân tình đậm sâu với nhau.

Vì vậy, hãy một lần nhìn nhận lại, cùng tôn trọng nhau, cùng nhau xây dựng một mái ấm hạnh phúc, để câu ca dao thuở nào lại được cất lên một cách ngọt ngào và trong trẻo. Để đất nước lại tươi thắm từ những tình yêu thương có vị mặn của muối, có vị cay nhưng nồng ấm của gừng.

Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn – mẫu 3

Không biết tự bao giờ, đất nước đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca. Đoạn trích “Đất nước” nằm trong trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm là một đoạn trích hay và độc đáo với hình tượng “đất nước của nhân dân”. Một trong những thành công của đoạn trích là việc xây dựng nên đất nước từ những chất liệu dân gian gần gũi và quen thuộc. Đọc bài thơ, ta thấp thoáng trong đó bóng dáng của những câu ca dao yêu thương tình nghĩa từ ngàn đời nay: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

Câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” nằm trong trường liên tưởng về những yếu tố tạo nên đất nước trong những câu thơ mở đầu đoạn thơ.

“Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất nước có từ ngày đó”

Làm nên đất nước hôm nay là truyền thống yêu nước, là nền văn hóa riêng, là những tình cảm thủy chung son sắt. Tình cảm “thương nhau bằng gừng cay muối mặn” ấy không chỉ là của riêng cha mẹ, mà còn là tình yêu thương của tất cả những con người đang sống chung trong một mảnh đất thân thương được gọi tên là “Đất nước”. Nó gợi ta nhớ đến những bài ca dao nghĩa tình thân quen trong dân gian:

“Tay nâng chén muối đĩa gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

“Rủ nhau xuống bể mò cua

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng

Em ơi chua ngọt đã từng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Hay:

“Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

Từ xa xưa, ca dao, dân ca đã là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn con người Việt Nam. Tình cảm yêu thương, tình nghĩa con người là thứ tình cảm cao đẹp nhất trong ca dao. Nó bắt nguồn từ những gì gần gũi nhất. Chính vì lẽ đó mà ca dao đã trở thành nguồn cảm hứng, chất liệu cho rất nhiều người nghệ sĩ sáng tác. Hình ảnh “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một trong những ví dụ tiêu biểu.

Gừng và muối là những hình ảnh thường bắt gặp trong ca dao. Dựa vào những đặc tính tự nhiên của chúng, người xưa diễn tả tình nghĩa thủy chung son sắt của con người. Muối mặn, còn gừng thì “càng già càng cay”, giống như tình cảm yêu thương chân thành của con người qua thời gian sẽ càng trở nên mặn mà, đằm thắm.

Xây dựng hình tượng “đất nước của nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm mượn những hình ảnh dân gian để đưa vào trong thơ mình, thể hiện một cách chính xác và đầy hình tượng về truyền thống tình cảm tốt đẹp của người dân Việt Nam như cha ông ta đã khẳng định:

“Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay”

Từ đó gửi gắm lời thề hẹn, ao ước:

“Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

“Ba vạn sáu ngàn ngày” là thời gian của một trăm năm, bắt nguồn từ khát khao sống hạnh phúc cùng nhau đến trọn cuộc đời. Hành động “Tay bưng chén muối đĩa gừng” mang tính biểu tượng, gợi nhắc tới sự đậm đà, sâu sắc.

Trong ca dao, gừng cay muối mặn thường dùng khẳng định tình cảm lứa đôi còn trong thơ Nguyễn Khoa Điềm thì gửi gắm còn nhiều hơn thế. Không chỉ đơn thuần là lời ngợi ca, khẳng định tình cảm thủy chung đôi lứa, câu thơ còn gợi lên thứ tình cảm rộng lớn hơn là nghĩa tình của con người với con người. Câu thơ không chỉ cho ta thấy tình cảm yêu thương mà còn khẳng định sức mạnh của tình cảm ấy. Yêu thương nhau từ những khó khăn vất vả trong cuộc sống, không vì những khó khăn ấy mà đổi thay. Gian khổ càng làm cho nó trở nên sâu sắc hơn.

Có thể nói, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng khéo léo chất liệu ca dao, dân ca làm cho ý thơ trở nên sâu sắc, giàu sức liên tưởng, dễ đi vào lòng người hơn. Câu thơ không chỉ có giá trị như một lời khẳng định đầy thuyết phục truyền thống tình cảm tốt đẹp của con người Việt Nam mà còn góp phần tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm khi xây dựng hình ảnh đất nước của Nhân Dân. Tình yêu thương như “gừng cay muối mặn” của mẹ và cha chính là nét truyền thống tốt đẹp trong đời sống tình cảm của con người Việt Nam. Nó đã được đúc kết và khẳng định từ lịch sử hàng nghìn năm, thời của những bài ca dao và dân ca đến nay.

Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn – mẫu 4

Khi đọc bài thơĐất nướccủa Nguyễn Khoa Điềm, hồn tôi xao xuyến khi bắt gặp câu thơ:Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Có biết bao nhiêu bài ca dao đã nói về tình nghĩa vợ chồng, về tình cảm mẹ cha và cũng đã bao lần hình ảnhgừng cay muối mặnxuất hiện để nói lên những tình nghĩa thiêng liêng ấy. Như:

Ai ơi chua ngọt đã từng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

Hay:

Muối ba năm muối hãy còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay…

Tất cả những câu ca dao ấy đều nói lên tình nghĩa vợ chồng thủy chung, sắt son và cao quý.

Hình ảnh gừng và muối đã quá quen thuộc trong văn học dân gian Việt Nam, trong đời sống thường ngày của người dân. Dù nông thôn hay thành thị, dù giàu hay nghèo, trong gian bếp của mỗi nhà vẫn không thể thiếu hai thứ gia vị này. Bởi thế, gừng và muối là thứ rất quen thuộc, rất gần gũi với đời sống của nhân dân. Không những thế, vị đặc trưng của gừng là cay, của muối là mặn, cả hai gia vị đều mang vị rất đậm đà, làm cho món ăn trở nên thơm ngon hơn. Và khi được nhân hóa, ẩn dụ cho tình người, gừng và muối lại thể hiện sự thắm thiết, sâu nặng, nghĩa tình gắn bó, khăng khít.

Hơn thế nữa, gừng và muối còn tượng trưng cho những cay đắng, những gian nan vất vả, cho sự đồng cam cộng khổ của vợ chồng. Khi cùng nhau trải qua những thăng trầm của cuộc sống, người ta sẽ hiểu nhau hơn, trân quý nhau hơn. Trong vợ chồng ngoài tình còn có nghĩa. Vì thế, họ ngày càng gắn bó với nhau, yêu thương nhau và đỡ đần nhau trong mọi hoàn cảnh sống.

Muối ba năm muối hãy còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay…

Ba năm hay chín tháng là những con số cụ thể để ẩn chứa cho sự vô tận của tháng ngày mà cha mẹ đã dành tình nghĩa cho nhau.

Ai ơi chua ngọt đã từng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

Và thêm một lời nhắc nhở nhẹ nhàng cho nghĩa tình vợ chồng, dẫu cay đắng hay ngọt bùi cũng đừng bao giờ rời xa nhau. Đó là những câu ca dao rất gần gũi, giản dị với giọng điệu nhẹ nhàng, thiết tha, dễ khắc sâu vào lòng người. Từ trong những câu ca dao “huyền thoại” ấy, khi nói về Đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mượn lại hình ảnh gừng cay muối mặn để nói lên nghĩa tình giữa cha mẹ. Rằng Đất nước được tạo nên từ chính những nghĩa tình thiêng liêng, cao cả ấy. Không bạc vàng xa hoa, cũng không màu mè hoa mỹ, hình ảnh gừng cay muối mặn quá đủ để người đọc hiểu được mối thân tình của vợ chồng, của mẹ cha dành cho nhau. Trong những lúc khó khăn nhất, thiếu thốn nhất, tình cảm ấy vẫn luôn gắn bó khăng khít không xa rời.

Những câu thơ và câu ca dao ấy còn là bài học sâu sắc cho cuộc sống vợ chồng của thời buổi hiện đại như ngày nay. Khi không còn phải cùng nhau trải qua từng bữa cơm trộn khoai trộn sắn, cùng đắp chung một mảnh chăn lạnh lẽo bé nhỏ, khi mà mọi thứ đã quá đầy đủ thì dường như tình nghĩa vợ chồng đôi khi cũng không còn được thắm thiết nữa. Thậm chí có những cặp vợ chồng đến với nhau vì danh lợi, vì tiền bạc… Họ lợi dụng nhau, thích thì ở, không thích thì ngoại tình… Những điều đó không những làm mất hạnh phúc gia đình, mất đi giá trị tốt đẹp của nhau mà còn làm cho xã hội đi xuống. Bởi gia đình là tế bào của xã hội, khi tế bào không tốt, tất nhiên cũng ảnh hưởng không tốt tới xã hội. Gừng cay muối mặn vẫn còn đó, gia đình nào cũng vẫn đang sử dụng đó, nhưng không phải vợ chồng nào cũng gìn giữ những ân tình đậm sâu với nhau.

Vì vậy, hãy một lần nhìn nhận lại, cùng tôn trọng nhau, cùng nhau xây dựng một mái ấm hạnh phúc, để câu ca dao thuở nào lại được cất lên một cách ngọt ngào và trong trẻo. Để đất nước lại tươi thắm từ những tình yêu thương có vị mặn của muối, có vị cay nhưng nồng ấm của gừng.

Phân tích câu thơ Cha mẹ thương nhau nhau bằng gừng cay muối mặn – mẫu 5

Đoạn trích “Đất nước” nằm trong trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm là một đoạn trích hay và độc đáo với hình tượng “đất nước của nhân dân”. Có thể nói một trong những thành công của đoạn trích đó là việc xây dựng nên đất nước từ những chất liệu dân gian gần gũi và quen thuộc. Đọc bài thơ thấy thấp thoáng trong đó bóng dáng của những câu ca dao yêu thương tình nghĩa từ ngàn đời nay: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

Ra đời trong thời kì chống Mĩ, “Mặt đường khát vọng” là bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp vào cuộc chiến đấu của toàn dân tộc… “Đất nước” được trích từ phần đầu chương V của trường ca, là bài hát ngợi ca Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp trong đó hình tượng đất nước được khai thác từ góc nhìn văn hóa dân tộc, tập trung khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. Câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” nằm trong trường liên tưởng về những yếu tố tạo nên đất nước. Tất cả đều thật gần gũi và thân thương.

“Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…mẹ thường hay kể

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất nước có từ ngày đó”

Làm nên đất nước này là truyền thống yêu nước, là nền văn hóa riêng, là những tình cảm con người thủy chung son sắt. Tình cảm “thương nhau bằng gừng cay muối mặn” ấy đâu chỉ là của riêng cha mẹ, đó còn là tình yêu thương nói chung của tất cả những con người đang sống chung trong một mảnh đất thân thương được gọi tên là “Đất nước”. Nó gợi ta nhớ đến những bài ca dao nghĩa tình thân quen từ ngàn xưa:

“Tay nâng chén muối đĩa gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

“Rủ nhau xuống bể mò cua

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng

Em ơi chua ngọt đã từng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Hay:

“Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

Ca dao, dân ca là nguồn sữa nuôi dưỡng tinh thần con người Việt Nam tự bao đời nay. Tình cảm yêu thương, tình nghĩa của con người trong ca dao là thứ tình cảm cao đẹp bắt nguồn từ những gì gần gũi nhất. Chính vì lẽ đó mà ca dao từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng, chất liệu cho người nghệ sĩ sáng tác. Cùng với đoạn trích “Đất nước”, hình ảnh “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một trong những ví dụ tiêu biểu.

Gừng và muối là những hình ảnh thường bắt gặp trong ca dao. Người xưa đã dựa vào những đặc tính tự nhiên của chúng để diễn tả tình nghĩa thủy chung son sắt của con người. Muối mặn, còn gừng thì thời gian chỉ làm cho tính chất của nó càng thêm đậm đặc, “gừng càng già càng cay”. Chúng cũng giống như tình cảm yêu thương chân thành của con người sẽ càng trở nên mặn mà, đằm thắm qua thời gian.

Xây dựng “đất nước của nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm mượn chính những hình ảnh dân gian để vận dụng vào trong thơ mình, thể hiện một cách chính xác và đầy hình tượng về truyền thống tình cảm tốt đẹp của người dân Việt Nam. Đó là “gừng cay”, là “Muối mặn” bởi cha ông ta đã khẳng định:

“Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay”

Qua đó nói lên lời thề hẹn, ao ước:

“Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

“Ba vạn sáu ngàn ngày” là thời gian của một trăm năm. Nó bắt nguồn từ khao khát sống hạnh phúc cùng nhau đến lúc “Đầu bạc răng long”, “Bách niên giai lão”, tức sống cùng nhau đến trọn cuộc đời. Nó cũng giống như lời ao ước tình cảm của “đôi ta” sẽ ngày càng sâu đậm, không bao giờ xa cách. Hành động “Tay bưng chén muối đĩa gừng” gần như mang tính biểu tượng. Nhắc đến chúng là nhắc tới chúng là nhắc tới sự đậm đà, sâu sắc. Bởi vậy nhân vật trữ tình trong bài ca dao đã đưa nó rá như một minh chứng cho lời hẹn thề thủy chung. Thế mới có chuyện đang từ hành động:

“Rủ nhau xuống bể mò cua”

Cha ông liên hệ ngay đến những đắng cay, ngọt bùi trong cuộc sống mà tha thiết:

“Em ơi chua ngọt đã từng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Đọc những câu ca dao, thấy nổi bật lên trong đó là sự khẳng định tình cảm lứa đôi còn trong thơ Nguyễn Khoa Điềm những gì nhà thơ gửi gắm còn nhiều hơn thế. Không chỉ đơn thuần là lời ngợi ca, khẳng định tình cảm thủy chung đôi lứa, câu thơ còn gợi lên thứ tình cảm rộng lớn hơn là nghĩa tình của con người nói chung với nhau. Tất nhiên, cũng có mạch nguồn từ truyền thống tình cảm tốt đẹp của dân tộc nhưng trong tư tưởng “đất nước của nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm đã khiến cho nó có tầm rộng và bao quát hơn. Câu thơ không chỉ cho ta thấy tình cảm yêu thương mà còn khẳng định sức mạnh của tình cảm ấy nữa. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, thương nhau từ những khó khăn vất vả trong cuộc sống, và không vì những khó khăn ấy mà đổi thay. Hình ảnh “gừng cay muối mặn” gợi người ta nhớ đến một đất nước Việt Nam trong “Bài thơ của một người yêu nước mình” (Trần Sao Vàng):

“Tôi yêu đất nước này cay đắng

Những đêm dài thắp đuốc đi đêm

(…) Áo mồ hôi những buổi chợ về

Đời cúi thấp

Gánh từng lon gạo mốc

Từng cọng rau, hạt muối

(…) Tôi yêu đất nước này áo rách

Căn nhà dột, phên không ngăn nổi gió

Vẫn yêu nhau qua từng hơi thở

Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài”

Tình yêu thương bắt nguồn và gắn bó với những gì thân thuộc và gần gũi nhất, với cả những gian lao và vất vả trong cuộc sống. Với họ, gian khổ càng làm cho nó trở nên sâu sắc hơn.

Vì là hình tượng “đất nước của nhân dân” nên những hình ảnh được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong bài thơ hết sức gần gũi, thân thuộc trong đó chất liệu dân gian được dùng một cách rất đắc dụng. Đất nước được bắt nguồn và nuôi dưỡng bằng nguồn sữa tinh thần là ca dao, dân ca, cổ tích; đất nước được làm nên từ lịch sử oai hùng của dân tộc khi “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”; mỗi địa danh, mỗi mảnh đất đều gắn với những con người cụ thể là nhân dân mà “những cuộc đời đã hóa núi sông ta”… Tình yêu thương như “gừng cay muối mặn” của mẹ và cha chính là nét truyền thống tốt đẹp trong đời sống tình cảm của con người Việt Nam. Nó đã được đúc kết và khẳng định từ lịch sử hàng nghìn năm, thời của những bài ca dao và dân ca đến nay, góp phần:

“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Việc sử dụng chất liệu từ trong ca dao, dân ca làm cho ý thơ trở nên sâu sắc, giàu sức liên tưởng, sâu sắc và dễ đi vào lòng người hơn. Đó cũng chính là một trong những lí do làm nên thành công của đoạn trích.

Câu thơ không chỉ có giá trị như một lời khẳng định đầy thuyết phục truyền thống tình cảm tốt đẹp của con người Việt Nam mà còn góp phần tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm khi xây dựng hình ảnh đất nước của nhân dân. Từ đó chúng ta có thêm một cách nhìn khác nữa về đất nước:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước minh thi bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 được xem nhiều nhất chọn lọc hay khác:

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 12

Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Cách đây 40 năm về trước, mặc dù miền Bắc XHCN khi đó đang nặng hai vai gánh cả non sông vượt dặm dài, vừa là hậu phương lớn chi viện tích cực cho các chiến trường với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, vừa là tiền tuyến đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo vẫn không ngừng phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt và sự nghiệp tái thiết đất nước lâu dài sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu của công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch các vùng kinh tế mới,vùng chuyên canh, xây dựng các nông trường, Bộ Nông trường ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) đã có Quyết định số 115 QĐ/TC ngày 05 th áng 9 năm 1968 về việc mở Lớp công nhân đo dạc - tiền thân của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung ngày nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button