[Năm 2022] Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành xem nhiều nhất (9 mẫu)
Bài văn Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành gồm dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 4 bài văn phân tích mẫu hay nhất, ngắn gọn được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 12. Hi vọng với
4 bài Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành này các bạn sẽ yêu thích và viết văn hay hơn.
Đề bài: Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau:
Bạn đang xem bài: [Năm 2022] Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành xem nhiều nhất (9 mẫu)
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
….
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dàn ý Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành
1. Mở bài
– Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
– Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.
– Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến:
– Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
– Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mỹ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
… Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
– Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc.
Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ …
– Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
b. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến:
– Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mỹtạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
….
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
– Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.
– Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại.
3. Kết bài
– Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kỳ lịch sử một đi không trở lại.
– Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện bảo tàng hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình.
Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành – mẫu 1
Có những con người” Không cần ai biết đến tuổi tên/ Nhưng họ đã làm ra đất nước” ( Nguyễn Khoa Điềm) đó- là hình tượng những người anh hùng vô danh đổ máu xương cho nền độc lập dân tộc, toả bóng mình tưới mát những trang thơ. Nếu ta đã từng biết đến những người lính nông dân trong “đồng chí” của Chính Hữu, “Quen nhau từ thuở chưa biết chữ” trong “Nhớ” của Hồng Nguyên thì hãy thêm một lần cảm phục yêu mến những người lính Tây Tiến trong thi phẩm cùng tên của Quang Dũng. Bức chân dung của họ được hiện lên qua 8 dòng thơ đặc sắc:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Thơ ca khởi nguồn từ cuộc sống, hiện thực là cảm hứng cất cánh cho thơ. Tâm hồn tinh tế nhạy cảm của Quang Dũng khi ngồi ở Phù Lưu Chanh trong miên man xúc cảm nhớ nhung mà “Tây Tiến” ra đời. Năm 1948- dường như là năm của những bài thơ viết về tình đồng chí, Quang Dũng cũng góp vào “tràng cỏ” thi ca nỗi nhớ về binh đoàn đã từng một thời gắn bó với nhà thơ. Trong tiềm thức của thi gia, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp đầy bi tráng hào hùng mà cũng rất mực lãng mạn hào hoa.
Đúng như một nhà triết học La Mã cổ đại đã nói- hoàn cảnh rèn đúc nên con người, hoàn cảnh nào con người ấy. Với “Tây Tiến” hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt dữ dội của núi rừng miền tây đã” hằn vết” lên cơ thể những chàng trai của mảnh đất thị thành dấu ấn không thể phai mờ- những hình ảnh mà cho tới mãi sau này vẫn còn ám ảnh trong miền hoài niệm của Quang Dũng.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Tính chất khắc nghiệt của tự nhiên với sương muối giá rét, với tàn tích của dịch sốt rét rừng làm các chiến sĩ” không mọc tóc”. “Không mọc” hay đã rụng hết? Có lẽ đó là cách nói đầy bản ngã của Quang Dũng. Đẹp một cách dữ dội dù ” không mọc tóc” hay “quân xanh màu lá”, dù là in vết của bệnh tật, của hoàn cảnh, họ vẫn hiện lên đầy bi tráng hào hùng qua khuôn mặt dáng vẻ” dữ oai hùm” và đôi “mắt trừng” mở to đầy dữ dội như ánh nhìn căm thù sục sôi. Nhưng có phải chăng, khi ánh mắt ấy lại” gửi mộng qua biên giới”, mơ về Hà Nội với bóng hình một kiều nữ xa xôi:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Họ gửi vào giấc mơ, trong cả niềm thao thức dáng hình thủ đô với tất cả nhớ thương vời vợi. Nhớ Hà Nội- nơi miền quê của họ- nơi một thời giảng đường- nơi trái tim của cả nước. Vậy nhớ hà Nội hay nhớ Việt nam? Tình yêu quê hương hay tình yêu tổ quốc? Phải chăng ở họ cả hai tình cảm đó đan hoà xen trộn rất tự nhiên, bởi yêu nước là yêu từ những cái bình dị và đời thường nhất: “Yêu cái cây trước nhà, yêu con đường đổ ra bờ sông….” (Ê- mi- xi) Tình yêu nước gắn liền với tình yêu đôi lứa, phải mơ về một dáng hình thiếu nữ nhịp tim mới càng thêm thổn thức nhớ thương:
“Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”
(Nguyễn Đình Thi)
Ở bốn câu thơ đầu tiên với bao trạng thái đối cực: dữ dội mà hào hoa, hiện thực mà bay bổng, ngòi bút Quang Dũng như nở hoa trong sự hoà phối tuyệt vời giữa gam màu hiện thực với đường nét lãng mạn. Họ- những người lính Tây Tiến dù hằn vết của hiện thực khốc liệt vẫn lấp lánh ánh sáng diệu kỳ của những tâm hồn mộng mơ, rất mực tinh tế hào hoa. Bất giác thấy nhớ tới ý thơ của Chính Hữu- cũng cảnh khó khăn gian khổ của cuộc chiến với bụi khói, rách nát vẫn lãng tử phong tình, tinh tế, hào hoa:
“Rách tả tơi rồi đôi hài vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”
(Ngày về)
Nhưng có lẽ dù lãng mạn tới đâu, ngọn gió thi hứng trong Quan Dũng vẫn phải cất cánh từ hiện thực. Đó là bản chất của thi ca nói riêng và nghệ thuật nói chung. Hiện thực tàn khốc của cuộc chiến dù đã được nhà thơ nói giảm nói tránh tới tối giản vẫn hiện lên đầy khốc liệt phũ phàng
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Đó là những nấm mồ không tên của bao chiến sĩ đã ngã xuống, Có lẽ nó cũng nhỏ nhoi “bằng phẳng như mặt đất rừng” của ông Sáu trong “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang sáng. Những cái chết cao cả nhưng lặng thầm, vĩnh viễn ngủ yên trong lòng đất mẹ. Quang Dũng đã rất khéo léo khi sử dụng những từ Hán Việt ( biên cương, viễn xứ) vừa làm tăng tính trang trọng, bi tráng cho sự hi sinh, vừa làm giảm bớt cảm giác đau thương bi lụy Những chiến sĩ của binh đoàn Tây Tiến, những chàng trai đôi mươi mười tám của mảnh đất Hà thành ra đi với lí tưởng cao đẹp “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. họ có tiếc gì tuổi xanh, có sợ gì cái chết. Hay ở họ rực sáng vẻ đẹp mà Thanh Thảo vẫn nói:
“Chúng tôi đi không tiếc cuộc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc?
(Ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi đất nước)
Chúng tôi đi không tiếc cuộc đời mình”
(Những người đi tới biển)
Họ ra đi là toàn tâm, toàn ý, toàn chí cho đất nước, sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất cả. Phải chăng tiếng lòng ấy đã đập cùng tần số với tiếng lòng Hồng Nguyên, trái tim Quang Dũng đã đồng điệu và cùng thổn thức giao hoà với “Nhớ”? :
“Ba năm rồi bỏ lại quê hương
Mái lều tranh tiếng mõ đêm trường
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya”
Đọc đến đây, bất giác nhớ tới câu nói của Tố Hữu: “Thơ là một điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”, phải chăng trong cảm hứng hình tượng về những người lính, các thi gia đã vô tình gặp nhau?
Cùng trong dòng chảy nỗi nhớ, Quang Dũng bật lên thơ trong tiếng nói cảm xúc, trong nỗi đau xé lòng nhưng được kìm nén để vọng lên trong hai câu thơ đầy tính nhạc:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sự hi sinh của họ- ngay cả khi mãi mãi lìa xa cuộc đời như chiếc lá lìa cành vẫn thiếu thốn trong manh “áo bào” như của các chiến binh thủa xưa. “Về đất” vẫn là cách Quang Dũng nén nỗi đau của con tim để giảm đi phần bi luỵ , tăng thêm tính hào hùng. Nỗi đau của con người trào ra trong cảnh vật, trở thành tiếng “gầm” đầy đau thương oan trái, sông Mã- con sông kỷ niệm của binh đoàn Tây tiến như gào thét, cuộn sóng đầy đau đớn trước sự ra đi của những tri kỉ, “khúc độc hành” gợi nhớ tiếng hát của Kinh Kha bên bờ sông Dịch. Tất cả tất cả như sóng lòng cuồn cuộn lên trong lòng tác giả, tràn ra cảnh vật để rồi vẳng lại trong chiều sâu xúc cảm nơi độc giả. Đến đây ta hiểu rằng, hình tượng binh đoàn Tây Tiến chính là ” hợp chất làm từ căm giận, đau khổ và tình yêu” ( Mu- kha- mat- Khat- đa)
Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc như một trận động đất nhào nặn lại thi hứng hiện thực trong thi ca, những ngòi bút xông pha vào máu lửa trận chiến để sống và viết như Quang Dũng, Chính Hữu, Hồng Nguyên… đã tái hiện lại cả một thời đại lịch sử, Họ đã đúc nên bao tượng đài bất tử về những người lính chiến như đoàn binh Tây Tiến, mà ở đó- nói như một triết học gia” Họ giống nhau về tính phổ quát hơn là khác nhau về sự cá thể”
Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành – mẫu 2
Nói đến thơ ca kháng chiến chống Pháp chúng ta không thể không nhắc đến Quang Dũng-Một nhà thơ tài hoa được mệnh danh là nhà thơ của “Xứ Đoài mây trắng”. Trong thơ Quang Dũng người đọc ấn tượng nhất khi khắc họa bức chân dung người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến vừa lẫm liệt, kiêu hùng vừa hào hoa lãng mạn thể hiện qua đoạn thơ
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
…
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bài thơ “Tây Tiến” ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt -Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là “Tây Tiến”.
Trên cái nền hùng vĩ, dữ dội mà thơ mộng mĩ lệ của núi rừng Quang Dũng đã xây dựng bức tượng đài về người lính Tây Tiến hiện lên vừa oai phong lẫm liệt, vừa lãng mạn hào hoa bằng bút pháp lãng mạn mà vẫn rất chân thực:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hai câu thơ mở đầu đã tạo nên ấn tượng trong lòng người đọc về vẻ đẹp bi tráng. Cái bi thương ấy gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da xanh như màu lá. Không phải là một người mà là cả một đoàn quân kỳ dị. Đoàn quân kỳ dị ấy lại được khắc họa bằng cái nhìn gân guốc bắt nguồn từ hiện thực đến từng chi tiết “không mọc tóc”, “xanh màu lá” là hiện thực mà người lính Tây Tiến phải trải qua.Theo lời kể của Quang Dũng thời kì đó bộ đội ta phải cạo trọc đầu để đánh giáp lá cà và dễ dàng trong sinh hoạt. Nhưng nguyên do quan trọng hơn cả chính là hậu quả của những ngày hành quân vất vả, đói rét, sốt rét rừng, những cơn sốt rét rừng ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn xuất hiện trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu:
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi”
Hay trong thơ ca kháng chiến chống Pháp chúng ta cũng không khó để bắt gặp những vần thơ:
“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”
Bên cạnh hình ảnh bi thương chính là vẻ đẹp hào hùng của những người lính Tây Tiến được thể hiện trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập giữa thân hình ốm yếu và tâm hồn bên trong làm nên khí chất, tư thế của người lính “dữ oai hùm” cho thấy người lính lạc quan, coi thường gian khổ, hiên ngang xung trận, oai phong, lẫm liệt, toát lên cốt cách, khí phách hào hùng. Ngay cả khi đánh giáp lá cà với kẻ thù hình ảnh người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp làm chủ núi rừng, chế ngự khó khăn, vượt qua gian khổ.
Ẩn đằng sau ngoại hình ấy là một vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Trong gian khổ nhưng những người lính Tây Tiến vẫn luôn “mắt trừng” đó là đôi mắt mở to nhìn thẳng kẻ thù, thề sống chết với kẻ thù. Đôi mắt ấy như miêu tả cả sự phẫn nộ đối với kẻ thù, là đôi mắt của nội tâm sục sôi chiến đấu. Đôi mắt ấy còn “mộng qua biên giới”, đó là giấc mộng lập chiến công, giấc mộng của chiến thắng, của hòa bình. Không chỉ vậy mà đôi mắt ấy còn có tình, thao thức nhớ về Hà Nội nơi có hình ảnh “dáng kiều thơm” trong mộng và mơ. Những người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng theo tiếng gọi non sông mà còn vô cùng hào hoa, lãng mạn. Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều, làm giảm tinh thần chiến đấu. Nhưng thời gian đã chứng minh giấc “mộng” và “mơ” như tiếp thêm sức mạnh cho người lính Tây Tiến. Đó cũng chính là vẻ đẹp của một tấm lòng luôn hướng về tổ quốc. Chính quê hương là động lực sức mạnh giúp người lính vượt qua khó khăn, là sợi dây thiêng liêng của niềm tin mang họ vượt bao khó khăn bom đạn trở về với quê hương. Chẳng thế mà bài thơ “Đợi anh về” của Xi-mô-nốp trở thành bài thơ được nhắc nhiều đến vậy trong thời kỳ khỏi lửa. Đâu chỉ thế trong bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ cũng từng viết:
“Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”
Điều đặc biệt hơn những chàng trai Hà Thành trong đoàn quân Tây Tiến ấy họ ra đi không chỉ bằng trách nhiệm công dân mà còn cả lí tưởng của những chàng trai gác bút nghiên cầm súng vì lý tưởng. Những chàng trai ấy là những học sinh, sinh viên, nghệ sĩ họ lên đường bằng khát vọng tuổi trẻ, khát vọng của hòa bình cho những “dáng kiều thơm”. Tình yêu ấy đáng để mỗi chúng ta trân trọng và ngưỡng vọng trong mọi thời đại.
Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến còn là lí tưởng trong những chàng trai mười tám đôi mươi:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Với việc sử dụng từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” đã gợi không khí cổ kính,trang trọng về nơi xa xôi của tổ quốc. Khác với những nhà thơ cùng thời, Quang Dũng khi nói về chiến tranh đã dám nhìn thẳng vào sự khốc liệt của chiến tranh, miêu tả cái chết, không né tránh hiện thực. Trong chặng đường hành quân gian khổ đã có những người lính ngã xuống. Những nấm mồ hoang lạnh vô danh mọc lên trên đường hành quân. Khi miêu tả cái bi thương ấy nhà văn lại nâng đỡ lên bằng đôi cánh lí tưởng, lãng mạn “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” là tuổi trẻ, là bao ước vọng đang đón chờ mỗi người phía trước. Vậy nhưng với họ không có gì quý giá bằng độc lập, tự do của Tổ quốc. Vượt lên trên tất cả là khát vọng được ra đi và cống hiến. Đó là lí tưởng quên mình vì tổ quốc, dữ dội như lời thề sông núi. Đó là vẻ đẹp thời đại “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Đúng như Trần Lê Văn đã nhận xét “Tây Tiến phảng phất nét buồn, nét đau, nhưng buồn đau mà không hề bi lụy”. Và Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên nói rất cảm động sự hi sinh của những con người vô danh ấy để rồi hơn hai mươi năm sau trong kháng chiến chống Mĩ Nguyễn Khoa Điềm đã viết
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
(Trích “Đất Nước”))
“Chiến trường” khốc liệt mà câu thơ nghe sao bình tĩnh quá, có chút ngạo nghễ khinh đời để rồi hai từ “chẳng tiếc” mang vẻ bất cần cho “đời xanh”. Tuổi trẻ ai chẳng cần cho mình khát vọng tình yêu, thanh xuân thơ mộng. Họ hiểu lắm, biết lắm vẻ đẹp của “đời xanh” nhưng chết cho tổ quốc chính là chết cho lí tưởng thiêng liêng.
Chính lý tưởng thiêng liêng cao quý ấy của những người lính mà hi sinh của họ cũng thật cao đẹp:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông mã gầm lên khúc độc hành”
Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Quan Dũng từng trải lòng về câu thơ trên “Sự thật khi người lính ngã xuống không có được mảnh vải liệm. Nói áo bào là nói theo cách của thơ xưa để an ủi những người đã nằm xuống”. Sự khắc nghiệt của chiến trường, sự khó khăn gian khổ trong chiến đấu, vậy mà khi ngã xuống câu thơ sao mà nghe nhẹ nhàng đến vậy. Không phải là ngã xuống, không phải là chết mà đơn giản là “anh về đất”. Mỗi chúng ta ai chẳng sinh ra từ đất mẹ Xi-ta, ai chẳng từ luống cày mà lớn lên. Vậy nên giờ đây các anh chỉ là đang ngủ một giấc thật dài, thật bình yên bên đất mẹ dịu dàng và ấm áp. Câu thơ với biện pháp nói giảm nói tránh đã tạo cho câu thơ bi mà không lụy ý ,thơ mang đến một cảm giác vĩnh hằng, là thế giới của:
“Những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”
(Nguyễn Đình Thi)
Để rồi “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”, con sông Mã cũng chính là nhân chứng của lịch sử, người bạn đồng hành của những người lính Tây Tiến. Và giờ đây con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử. Tiếng gầm ấy là khúc nhạc bi tráng, khúc tráng ca tiễn biệt người lính Tây Tiến vào cõi vĩnh hằng hòa cùng muôn ngàn âm thanh của sống núi, trường tồn trong khúc bi tráng của sông Mã. Tác giả đã sử dụng hàng loạt từ Hán Việt đã gợi không khí tôn nghiêm,trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn
Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nỗi nhớ về thiên nhiên và miền Tây hùng vĩ mà còn thành công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Sử dụng ngôn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.
Khổ thơ trên trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng đã dựng nên một tượng đài bất tử về người lính. Người chiến sĩ Tây Tiến hào hoa, anh dũng, kiêu hùng một thời đã gây nên ấn tượng sâu sắc cũng như mối xúc động lớn lao cho bao thế hệ người đọc. Hình tượng ấy dù vẫn có những hi sinh mất mát nhưng vượt lên tất cả vẫn là một khí phách hiên ngang, một khát vọng, lí tưởng sống cao đẹp đáng trân trọng. Đây cũng chính là chất bi tráng của tác phẩm.
Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành – mẫu 3
Nằm trong mảng đề tài viết về người lính Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, ‘Tây Tiến” là bài thơ thành công khi xây dựng được hình ảnh người lính không chỉ mang phẩm chất chung của tất cả những người lính Việt Nam mà còn mang những nét riêng độc đáo. Điểm nổi bật trong bài thơ là hình tượng người lính với vẻ đẹp bi tráng, được khai thác thông qua bút pháp lãng mạn. Vẻ đẹp này của hình tượng người lính tập trung nhất trong khổ thơ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bài thơ ra đời vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, khi Quang Dũng nhớ đến những người đồng đội cũ của mình trong binh đoàn Tây Tiến xưa. Đây là bài thơ viết về một binh đoàn mà phần lớn là thanh niên trí thức Hà Nội. Họ ra đi chiến đấu, mang trong mình nhiệt huyết hừng hực của tuổi hai mươi nhưng tâm hồn cũng chất chứa đầy nét hào hoa lãng mạn của một chàng trai Hà thành. Ở những khổ trước, người ta bắt gặp hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân vất vả nhưng vẫn đầy lãng mạn, mở rộng hồn mình ra để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời, sửng sốt trước sự xuất hiện của một “bông hoa về trong đêm hơi”, say đắm trong bức tranh “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Và cũng chính họ thật tinh nghịch, dí dỏm khi phát hiện ra hình ảnh đầy sức gợi “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Người lính không được miêu tả trực tiếp (trừ hình ảnh “anh bạn dãi dầu không bước nữa”) mà chủ yếu hiện lên qua bức tranh thiên nhiên, trong nét vừa tương đồng vừa đối lập với thiên nhiên đó. Đến khổ thơ này nhà thơ đã giành cả một đoạn thơ dài chỉ để nói về hình ảnh người chiến sĩ và sự hi sinh đầy bi tráng của họ. Người lính được miêu tả qua những hình ảnh thực, gợi cảm:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hình ảnh miêu tả xuất phát từ hiện thực những khó khăn gian khổ mà người lính gặp phải. Đó là thời tiết khắc nghiệt, đói ăn, bệnh tật, sốt rét hoành hành khiến cho hình hài trở nên tiều tụy: “không mọc tóc”, “xanh màu lá”. Nói đến những gian khổ, vất vả nhưng giọng thơ Quang Dũng thật hào hùng. Ông gọi binh đoàn Tây Tiến là đoàn binh không mọc tóc. Cả một “đoàn binh” lại mang “oai” của hùm tạo cho người ta cảm giác ở đó dường như đang toát lên sức mạnh lớn lao không thế nào khuất phục được. Sức mạnh đó được bổ sung thêm bằng hình ảnh:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hai hình ảnh, một thực tế, một lãng mạn được đặt cạnh nhau thậm chí còn là cầu nối cho nhau. Anh mắt trừng “gửi mộng qua biên giới” thế hiện cái uy phong lẫm liệt của họ. Ta tự hỏi tại sao lại là “mắt trừng gửi mộng” mà không phải là ánh mắt nào khác? Phải chăng khoảng cách là quá xa mà người chiến sĩ thì chỉ muốn rút ngắn nó lại trong chốc lát đế nhanh được trở về với Hà Nội thân thương? Cũng có thế, nhưng điều quan trọng là thông qua hình tượng ấy, người lính Tây Tiến hiện lên không chỉ anh dũng, hào hùng mà còn đầy chất uy nghiêm và đầy sức mạnh. Ba câu thơ đang miêu tả theo cấp độ có thể nói là tăng tiến về hình ảnh đầy ấn tượng của người lính chợt chùng lại bởi một “dáng kiều thơm” ở mảnh đất quê hương. Chi tiết này thế hiện sự tinh tế của Quang Dũng, nhà thơ miêu tả người lính trong những nét phi thường nhưng vẫn không quên đồng cảm với một giấc mơ bình thường nhất và cũng là lãng mạn nhất: giấc mơ về một dáng kiều thơm. Họ là những chàng trai mười chín, hai mươi tràn đầy nhựa sống, khát khao yêu và khát khao hạnh phúc. Họ có quyền mơ về một bóng hình giai nhân nào đó chứ! Nhiều hơn thế, hình ảnh người con gái còn gắn với mảnh đất Hà thành, nơi người lính đã sinh ra nên có lẽ giấc mơ ấy còn là giấc mơ về gia đình, về quê hương, mảnh đất nơi họ đã sinh ra và gắn bó. Sự thay đổi đột ngột của hình tượng thơ làm cho bài thơ thêm hấp dẫn đồng thời khẳng định nét lãng mạn trong tâm hồn những người lính trẻ. Người lính trẻ hiện lên trong đoạn trích anh hùng bất khuất trước gian khổ nhưng cũng ngang tàng và đầy nghịch ngợm. Thêm một nét để họ trở nên gần gũi, đáng yêu và đáng quý.
Trước đó chỉ bằng hình ảnh “gục lên súng mũ bỏ quên đời”, Quang Dũng đã khiến cho người đọc ngậm ngùi về sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Nhà thơ tránh không dùng đến từ hi sinh mà khắc họa người lính Tây Tiến ngã xuống nhưng vẫn trong tư thế bước tiếp khúc quân hành cùng đồng đội. Những câu thơ tiếp theo này lại một lần nữa nhắc đến hi sinh của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bốn câu thơ trước hết dựng lên một thực tế trong cuộc chiến đấu. Người chiến sĩ ra đi là đã xác định trước được những gì mình sẽ phải trải qua:
“Làm cách mạng từ khi tôi biết
Dấn thân vô là chịu tù đày
Là gươm kề cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa”
Chiến trường khốc liệt không thể mang lại cho người nằm xuống một nơi an nghỉ vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu. Ngã xuống, họ sẽ là một trong những “nấm mồ viễn xứ” trên biên cương, tiếp tục làm công việc ngày đêm canh giữ từng tấc đất thân thương. Không ai không xác định được điều ấy. Vậy mà họ vẫn ra đi, vẫn cống hiến:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Bởi nói như nhà thơ Thanh Thảo:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không biết?
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi
Thì còn chi Tổ quốc”
Chính bởi xác định được lí tưởng sống cao đẹp ấy mà lớp thanh niên vẫn ngày đêm hát vang khúc quân hành, ra đi bảo vệ quê hương, đất nước. Rồi có những người ngã xuống “giản dị và bình tâm” những cái chết của họ lại mang dáng dấp của một vị anh hùng sử thi. Hoàn cảnh chiến tranh thiếu thốn, người hi sinh không có lấy một mảnh chiếu trước khi đưa về với đất. Tấm áo ngày thường vương bụi trường chinh trở thành áo bào đưa các anh về với đất mẹ. Cuộc ra đi có sự chứng kiến và tiễn đưa của đất trời. Dòng sông Mã “gầm lên” khúc bi ca độc hành đầy đau đớn xót xa nhưng cũng thật hào hùng.
Khổ thơ sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ có ý nghĩa trong việc khắc họa hình tượng người lính. Hình ảnh thơ cụ thể, gần gũi như “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “mắt trừng”… kết hợp với sự đối lập, so sánh (quân xanh màu lá), sự chuyển đổi linh hoạt của cảm xúc:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Cùng biện pháp nhân hóa:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…
Làm cho người lính hiện lên chân thực, gần gũi: dữ dội, can trường nhưng cũng rất đa tình, hào hoa.
Có thể nói, hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong đoạn thơ mang vẻ đẹp bi tráng mà không hề bi lụy. Cái bi tráng được thế hiện ở những khó khăn, gian khó cũng như mất mát, hi sinh mà người lính phải trải qua nhưng tâm hồn và ý chí của con người thì luôn bất khuất, vượt qua và chiến thắng hoàn cảnh. Giữa cái khổ con người vẫn hiện lên thật đẹp. Trong cái chết nhưng vẫn thấm đẫm chất hùng. Nhắc đến đau thương, mất mát nhưng không làm nhụt chí mà chỉ góp phần thể hiện hình tượng người lính, tăng thêm vẻ đẹp hào hùng cho hình tượng đó. Chất bi tráng được kết hợp với cảm hứng lãng mạn và ngợi ca tạo nên hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến mang vẻ đẹp sử thi nhưng vẫn vô cùng gần gũi và thân thuộc.
Đoạn thơ đã thể hiện trọn vẹn hình tượng người lính trong bài thơ, góp phần vào sự thể hiện chủ đề chung của tác phẩm. Hình tượng người lính hiện lên mang vẻ đẹp bi tráng trong cảm hứng lãng mạn và ngợi ca hào sảng. Thành công của đoạn thơ và cả bài thơ đã diễn tả cảm động tình cảm của Quang Dũng dành cho những người đồng đội của mình ở binh đoàn cũ: Binh đoàn Tây Tiến.
Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành – mẫu 4
Viết về Tây Tiến – Quang Dũng viết bằng dòng hồi ức. Và trong dòng hồi ức ấy nỗi nhớ đồng đội luôn xao động, gợi về những kỉ niệm, hình ảnh thân thương, tha thiết, sâu lắng. Ta bắt gặp dòng hoài niệm về đồng đội, về những tình cảm, nỗi lòng người lính Tây Tiến qua đoạn thơ:
… Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Từ bối cảnh rừng núi hoang vu, hiểm trở trong đoạn đầu bài thơ đến đây hiện lên rõ nét hình ảnh của đoàn chiến binh Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Thoạt đầu, câu thơ tưởng như chỉ mang một chút ngang tàng, một chút đùa nghịch đầy chất lính, nhưng càng đọc mới càng thấy hiện thực khắc nghiệt, mới thấy hết những gieo neo, khổ ải của đoàn quân Tây Tiến. Không mọc tóc – đó là hậu quả của những cơn sốt rét rừng run người làm tiều tụy, làm rụng hết cả tóc của các chiến sĩ. Rồi nước độc, rừng thiêng, bệnh tật hành hạ… tất cả như vắt kiệt sức lực khiến cho quân xanh màu lá…. Hai câu thơ cho ta thấy được hình ảnh rất thực của các chiến sĩ Tây Tiến khi phải đối phó với bệnh tật: ốm, xanh, rụng tóc… Nhưng không phải vì thế mà họ mất đi vẻ oai phong dữ dội “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…”
Đoàn quân mỏi, xanh tựa lá mà vẫn mang oai linh rừng thẳm. Mắt trừng lên dữ dội là để gửi mộng vượt biên cương và để “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Những người chiến sĩ Tây Tiến hầu hết là những chàng trai thị thành khoác áo lính dù ra đi chiến đấu, dấn thân vào gian khổ, họ vẫn luôn mang và giữ một tâm hồn hào hoa, thanh lịch, đa tình, một tâm hồn đầy thơ mộng. Mơ dáng kiều thơm là mơ dáng vẻ kiều diễm, quyến rũ, thanh lịch của những người bạn gái thủ đô ngàn năm văn hiến, có người cho rằng Quang Dũng viết câu thơ này là mộng rớt vì nó không phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. Song thực chất đây là một tình cảm hết sức chân thật của người chiến sĩ, nó mang một ý nghĩa nhân văn chân chính bởi thể hiện ước mơ đẹp của con người về một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc đẩy người lính ra đi chiến đấu.
Cả đoạn thơ bốn câu thì ba câu trên toàn nói về cái khác thường, oai dữ. Câu thơ thứ tư ngược lại đầy vẻ mềm mại, trữ tình, mơ mộng. Đoạn thơ khắc họa những hiện thực hết sức nghiệt ngã, nhưng lại không chỉ sử dụng phương pháp tả thực, mà thể hiện bằng bút pháp lãng mạn cho ta thấy hình ảnh của người lính không xanh xao, tiều tụy mà oai phong, dữ dội. Chữ nghĩa và bút pháp của Quang Dũng thật tài hoa. Các chữ không mọc tóc, dữ oai hùm, mắt trừng khắc họa rất sâu tư thế chủ động, vẻ kiêu hùng, ngang tàng của những chiến binh Tây Tiến. Hoàn cảnh gian khổ, những thử thách, gian nan của một miền Tây thâm u, hiểm trở không làm cho những người lính Tây Tiến chùn bước, họ vẫn giữ ý chí, quyết tâm. Bên cái bi của hoàn cành vẫn trỗi lên cái tráng của ngoại hình và tinh thần. Bằng thủ pháp dường như đối lập, Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và đa cảm của người chiến sĩ Tây Tiến. Núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự hùng vĩ ấy, sự hoang sơ ấy, những người lính Tây Tiến như được truyền thêm sức mạnh, vững bước vượt qua những gian khổ, hi sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…
Những người lính Tây Tiến không tiếc đời ra đi chiến đấu cho quê hương, không tiếc đời sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Họ ra đi mà vẫn nhớ, vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng, khi họ hi sinh thì “áo bào thay chiếu anh về đất”. Bằng hai chữ “áo bào”, nhà thơ đã nâng cao giá trị, đã tái tạo được vẻ đẹp cao quý. một vẻ đẹp như những người tráng sĩ xưa nơi những người Tây Tiến, vẻ đẹp ấy làm mờ đi thực trạng thiếu thốn ở chiến trường. Rồi “anh về đất’, cái chết nhẹ như không, như về lại những gì thương yêu, thân thuộc ngày xưa. “Anh về đất là để sống mãi trong lòng quê hương, đất nước. Và sông Mã thay lời núi sông cất lên lời ai điếu bi hùng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Nỗi đau thật dữ dội, chỉ một tiếng “gầm than trầm uất”, nỗi đau như dồn nén, quặn thắt từ bên trong. Không có nước mắt của đồng đội, chỉ có con sông Mã với nỗi đau cuộn chảy trong lòng, độc hành… chảy ngược vào tim.
Cả đoạn thơ nói đến cái chất thật bi mà cũng thật hùng. Những người lính Tây Tiến đã được nhà thơ khắc họa với nỗi nhớ thương tha thiết, với vẻ đẹp hoang sơ, dữ dội như vẻ đẹp của núi rừng.
Hình ảnh những người lính, tình cảm đồng đội, đồng chí vốn xuất hiện trong thơ ca kháng chiến. Ta vẫn thường bắt gặp những người lính chân chất, giản dị, gần gũi trong thơ Chính Hữu:
Áo anh rách vai,
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá,
Chân không giày…
Hay trong bài thơ Hồng Nguyên:
Lũ chúng tôi,
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ,
Quen nhau từ buổi “một, hai”…
Nhưng với Tây Tiến của Quang Dũng thì khác. Bài thơ đã khắc hoạ không phải lả những người lính xuất thân từ những người nông dân cày sâu cuốc bẫm mà là những chàng trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Với Tây Tiến, Quang Dũng đã đưa người đọc ngược lên một miền Tây thăm thẳm, nơi núi rừng, thiên nhiên mang nét đẹp hoang dại, hiểm trở. Và nỗi bật lên trên nền núi rừng miền Tây ấy là hình ảnh những người lính Tây Tiến vượt lên trên mọi khổ ải, gian lao, toả sáng ý chí anh hùng. Với tám câu thơ chan chứa niềm thương nỗi nhớ da diết, Quang Dũng đã đưa người đọc trở lại một thời Tây Tiến với biết bao đồng đội mến thương của nhà thơ… Tất cả đã giúp Quang Dũng tái tạo và khắc họa hình ảnh oai hùng về người lính Tây Tiến.
Với bút pháp tài hoa và giàu tình, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh những chiến binh Tây Tiến không chỉ mang vẻ dữ dội, mãnh liệt mà còn mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng thật bi tráng. Và Tây Tiến không chỉ phổ đúng hồn thơ Quang Dũng má còn sáng lên chất thẩm mĩ hiếm thấy.
Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành – mẫu 5
Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi nhưng khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.
Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc nhưng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa, ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.
“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đường hành quân, nhưng không thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng.
Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”
“Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành – mẫu 6
Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành công nhất vẫn là thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được bạn đọc biết đến nhiều như “Mây đầu ô”, “Mùa hoa gạo”… Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô” là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh mầu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Ðêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn sứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Khái quát trước khi phân tích: Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đoạn thơ ta đang phân tích là đoạn thơ thứ ba trong bài Tây Tiến.
Hai câu thơ đầu Quang Dũng khắc họa vẻ đẹp bi tráng của người lính:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
“Bi” là đau thương. “Tráng” là hùng tráng, hào hùng. Nghĩa là trong đau thương vẫn hào hùng lẫm liệt. Đầu tiên là cái bi thương của người lính được gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Đoàn quân trông thật kì dị: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc danh xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá. Những cơn sốt rét rừng ác tính ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung:
Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán đẫm mồ hôi
(Chính Hữu)
Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhoà
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà
(Lên Cấm Sơn – Thôi Hữu)
Đó còn là hình ảnh bộ đội ta cạo trọc đầu để dễ dàng trong sinh hoạt và đánh giáp lá cà. Thời kháng Pháp những anh lính như vậy còn gọi là anh “Vệ túm”, “Vệ trọc”. “Quân xanh màu lá” là trang phục màu xanh áo lính, màu xanh của lá ngụy trang, màu của núi rừng.
Bên cạnh cái bi ta còn thấy cái Hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ của người lính. “Không mọc tóc” là cách nói ngang tàng rất lính, hóm hỉnh vui đùa với khó khăn gian khổ của mình. Mặt khác cái hào hùng còn hiện lên qua cách dùng từ Hán Việt “Đoàn binh” . Chữ “đoàn binh” chứ không phải là đoàn quân đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng, trong đó có dáng dấp của “Quân đi điệp điệp trùng trùng” trong thơ Tố Hữu, của “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (Sức mạnh ba quân nuốt trôi trâu) trong thơ Phạm Ngũ Lão. Ba từ “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt, oai của chúa sơn lâm. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. “Mắt trừng” là đôi mắt dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù khiếp sợ.
Hai câu thơ tiếp theo là vẻ đẹp của tâm hồn của những chàng trai Hà Nội lãng mạn, hào hoa:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Hai chữ “Mắt trừng” gợi nhiều liên tưởng: mắt trừng là mắt mở to nhìn thẳng về phía kẻ thù với chí khí mạnh mẽ thề sống chết với kẻ thù. Nhưng đôi mắt trừng ấy còn “gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt có tình, đôi mắt thao thức nhớ về quê hương Hà Nội về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Với ý nghĩa ấy ta thấy, người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những con đường mùa thu thơm lừng hoa sữa… hay chính xác hơn là nhớ về một dáng kiều thơm, bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ. Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều làm giảm đi chất chiến đấu. Nhưng thời gian đã chứng minh rằng đó là một vẻ đẹp của tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi nhưng lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội, về quê hương. Chính quê hương tăng thêm cho họ sức mạnh để đi “Lấy máu nó trả thù này”.
Thơ ca kháng chiến chống pháp cũng đã khắc họa bao gương mặt nỗi nhớ như thế. Đó là nỗi nhớ ruộng đồng “Ba năm rồi gửi lại mái lều tranh/ Luống cày đất đỏ/ Tiếng mõ đêm trường/ Ít nhiều người vợ trẻ / Mòn chân trên cối gạo canh khuya” (Hồng Nguyên). Đó là nỗi nhớ “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Mỗi gương mặt nỗi nhớ ấy là lính nông dân hay lính thành thị thì nỗi nhớ ấy cũng là nỗi nhớ của những tâm hồn luôn hướng về đất nước, tổ quốc, quê hương.
Hai câu thơ tiếp, Quang Dũng đã làm hình ảnh người lính ngời lên vẻ đẹp lí tưởng của thời đại: Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh. Quang Dũng đã viết nên những câu thơ đầy chất tráng ca:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính: “biên cương”, “viễn xứ” là nơi biên giới xa xôi, nơi heo hút hoang lạnh. Nhà thơ nhìn thẳng vào sự khốc liệt của chiến tranh, miêu tả về cái chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh vô danh mọc lên dọc đường quân hành nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Vì thế cho nên câu thơ tiếp theo dữ dội như một lời thề sông núi: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Chiến trường là đạn bom ác liệt là hi sinh mất mát. Đời xanh là tuổi trẻ của mỗi người ai cũng quý cũng yêu. Vậy mà người lính lại “chẳng tiếc đời xanh” . Câu nói ấy vang lên chắc nịch mang cái vẻ bất cần, mang cái vẻ ngạo nghễ rất lính. Họ đã ra đi không tiếc tuổi thanh xuân là họ đã hiến trọn đời mình cho tổ quốc, đất nước. Bởi chết cho tổ quốc chính là chết cho lí tưởng. Còn quyết tâm nào cao quý và thiêng liêng hơn thế nữa chăng ?
Ta chợt nhớ tới tích Kinh Kha sang đất Tần hành thích bạo chúa Tần Thủy Hoàng, bên bờ sông Dịch chàng dứt áo ra đi với khẩu khí yêng hùng tráng sĩ: ” Sông Dịch ù ù gió thổi/ Tráng sĩ một đi không trở về”. Vậy là người lính cụ Hồ không chỉ mang vẻ đẹp của thời đại mà còn mang một vẻ đẹp cổ kính đượm màu hiệp sĩ xa xưa.
5. Hai câu thơ cuối ca ngợi sự hi sinh bi tráng của những người lính Tây Tiến:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Áo bào là áo vua ban cho những người làm nên công trạng. Ở đây, điều kiện thiếu thốn đủ bề, người lính ra đi trong manh chiếu rách nhàu bọc lấy thân rồi vùi xuống đất. Nhưng qua câu thơ của Quang Dũng, manh chiếu rách ấy đã trở thành áo bào. Bởi vậy, cuộc tiễn đưa trở nên bi tráng.
Sự ra đi của người lính được Quang Dũng dùng nghệ thuật nói giảm nói tránh “anh cề đất” làm dịu đi cái đau thương nhưng không tránh cho người đọc khỏi ngậm ngùi. “Anh về đất” là về với đất mẹ. Đất mẹ giang rộng vòng tay đón các anh trở về sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Đặc biệt sự hi sinh ấy không chỉ làm cảm động đến con người mà còn làm cảm động đến cả thiên nhiên Tây Bắc. Con sông Mã xuất hiện ở đầu bài thơ trong nỗi nhớ chơi vơi của nhà thơ thì ở đoạn thơ này sông Mã lại xuất hiện trong tiếng gầm dữ dội. Đó là “khúc độc hành” của thiên nhiên đang tấu lên khúc nhạc thiêng liêng, trầm hùng đưa người lính về nơi an nghỉ cuối cùng.
Nghệ thuật: thành công của đoạn thơ là nhà thơ đã sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính, trang nghiêm. Sử dụng nghệ thuật đối lập, nhân hóa, nói giảm nói tránh. Lời thơ hàm súc vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng, bi tráng. Bút pháp lãng mạn và sử thi đã làm nên hình tượng người lính cụ Hồ trong chín năm kháng chiến gian lao mà oai hùng lẫm liệt.
Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Tây Tiến. Qua đoạn thơ, Quang Dũng đã dựng nên tượng đài bất tử về người lính thời chống Pháp vừa oai hùng lẫm liệt vừa trẻ trung lãng mạn. Bức tượng đài ấy trải qua bao gió bụi thời gian cũng sẽ không bao giờ phai nhòa trong tâm trí của mỗi người dân Việt Nam. Xin được mượn bốn câu thơ của Giang Nam thay cho lời kết:
Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông
Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành – mẫu 7
Năm tháng trôi qua, chiến tranh đã trở thành những điều cũ thuộc về hồi ức, song có những thứ vẫn in hằn trong tâm trí những người đang sống. Hình tượng người lính chính là điều đặc biệt đó. Có rất nhiều tác phẩm viết về người lính nhưng “Tây Tiến” – Quang Dũng là tác phẩm tiêu biểu ấn tượng nhất. Trong dòng hồi ức và nỗi nhớ da diết, nhà thơ đã tái hiện hình tượng người lính Tây Tiến rất đỗi hào hùng, gợi lên nhiều xúc cảm trong lòng người đọc:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rài rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Nếu như mở đầu bài thơ, tác giả tái hiện khung cảnh thiên nhiên rừng núi hoang vu, hiểm trở – những khó khăn trên đường hành quân thì đến đây, ông lại hoài niệm về hình ảnh của đoàn chiến binh Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Câu thơ mở đầu dường như chỉ mang chút ngang tàng tinh nghịch chất lính song ẩn sâu trong đó lại là hiện thực đầy khắc nghiệt của điều kiện sống. Nơi rừng thiêng, nước độc, người lính phải đối mặt biết bao gian khổ. Không mọc tóc chính là hậu quả của những cơn sốt rét rừng, bệnh tật hành hạ khiến họ trở nên xanh xao, màu da giống như hòa cùng màu quân phục. Hai câu thơ đã tái hiện sinh động hình ảnh thực về người lính khi vừa chiến đấu với quân thù vừa chiến đấu với bệnh tật.
Tuy nhiên, những khó khăn khắc nghiệt vẫn không thể khiến họ trở nên yếu đuối, mất đi vẻ oai phong dữ dội:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Mắt trừng lên dữ dội là để gửi mộng vượt biên cương, để “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Binh đoàn Tây Tiến hầu hết là những chàng trai hào hoa chốn hà thành, khoác áo lính lên đường bảo vệ biên cương nhưng dấn thân vào gian khổ, họ vẫn giữ trong mình tâm hồn lãng mạn đầy thơ mộng. Rời xa quê nhà, họ luôn lưu giữ trong lòng mình bóng dáng thanh lịch, thướt tha của người con gái thân thương. Đó không phải tư tưởng tiểu tư sản mộng rớt như nhiều người đánh giá mà là tình cảm hết sức chân thật của người chiến sĩ, nó mang một ý nghĩa nhân văn chân chính gửi gắm ước mơ tươi đẹp của con người về một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc. Nó trở thành động lực để người lính ra đi chiến đấu.
Đoạn thơ là sự kết hợp tinh tế ngòi bút tả thực và tinh thần lãng mạn, thể hiện phong cách tài hoa của hồn thơ Quang Dũng. Bằng thủ pháp dường như đối lập, Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, bi tráng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và nhạy cảm của người chiến sĩ Tây Tiến. Họ chính là những người anh hùng vĩnh cửu của dân tộc, sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất…”
Chiến tranh vốn là những mất mát, những đau thương, hiện thực khắc nghiệt và hiểm nguy đã khiến rất nhiều người phải ngã xuống. Những người lính Tây Tiến h sinh mà không nuối tiếc tuổi thanh xuân, họ ra đi mà vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng. Nơi biên cương viễn xứ họ về với đất mẹ mà không manh chiếu niệm thân, chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”. Hai chữ “áo bào” trong đoạn thơ đã thể hiện niềm trân trọng và tiếc thương, nâng cao hình tượng người lính, làm mờ đi thực trạng thiếu thốn ở chiến trường. “Anh về đất” nhẹ tựa lông hồng, hi sinh cho tổ quốc và sống mãi trong lòng quê hương để sông Mã cất lên khúc tráng ca thương tiếc tiễn biệt: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Một tiếng “gầm” như găm chặt nỗi đau đớn dồn nén, quặn thắt, lặng lẽ chảy ngược vào tim. Hiện thực chiến tranh vốn dĩ là đau thương như thế.
Có thể nói, với tám câu thơ ngắn mà chứa chan niềm thương nỗi nhớ, bút pháp hiện thực kết hợp yếu tố hiện thực, Quang Dũng đã đưa người đọc trở lại một thời Tây Tiến với bao bi tráng. Đặc biệt, khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến rất hào hùng mà cũng hào hoa, bi tráng mà lãng mạn. Đoạn thơ từ đó đã góp phần thể hiện phong cách tài hoa độc đáo của Quang Dũng, góp phần đưa “Tây Tiến” trở thành một tác phẩm văn học đầy giá trị thời kỳ kháng chiến. Để rồi đến tận hôm nay người ta vẫn luôn nhớ về “Tây Tiến” với tấm lòng ngợi ca, trân trọng
Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành – mẫu 8
Nằm trong mảng đề tài viết về người lính Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, ‘Tây Tiến” là bài thơ thành công khi xây dựng được hình ảnh người lính không chỉ mang phẩm chất chung của tất cả những người lính Việt Nam mà còn mang những nét riêng độc đáo. Điểm nối bật trong bài thơ là hình tượng người lính với vẻ đẹp bi tráng, được khai thác thông qua bút pháp lãng mạn. Vẻ đẹp này của hình tượng người lính tập trung nhất trong khổ thơ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bài thơ ra đời vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, khi Quang Dũng nhớ đến những người đồng đội cũ của mình trong binh đoàn Tây Tiến xưa. Đây là bài thơ viết về một binh đoàn mà phần lớn là thanh niên trí thức Hà Nội. Họ ra đi chiến đấu, mang trong mình nhiệt huyết hừng hực của tuổi hai mươi nhưng tâm hồn cũng chất chứa đầy nét hào hoa lãng mạn của một chàng trai Hà thành. Ở những khổ trước, người ta bắt gặp hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân vất vả nhưng vẫn đầy lãng mạn, mở rộng hồn mình ra để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời, sửng sốt trước sự xuất hiện của một “bông hoa về trong đêm hơi”, say đắm trong bức tranh “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Và cũng chính họ thật tinh nghịch, dí dỏm khi phát hiện ra hình ảnh đầy sức gợi “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Người lính không được miêu tả trực tiếp (trừ hình ảnh “anh bạn dãi dầu không bước nữa”) mà chủ yếu hiện lên qua bức tranh thiên nhiên, trong nét vừa tương đồng vừa đối lập với thiên nhiên đó. Đến khố thơ này nhà thơ đã giành cả một đoạn thơ dài chỉ để nói về hình ảnh người chiến sĩ và sự hi sinh đầy bi tráng của họ. Người lính được miêu tả qua những hình ảnh thực, gợi cảm:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hình ảnh miêu tả xuất phát từ hiện thực những khó khăn gian khổ mà người lính gặp phải. Đó là thời tiết khắc nghiệt, đói ăn, bệnh tật, sốt rét hoành hành khiến cho hình hài trở nên tiều tụy: “không mọc tóc”, “xanh màu lá”. Nói đến những gian khổ, vất vả nhưng giọng thơ Quang Dũng thật hào hùng. Ông gọi binh đoàn Tây Tiến là đoàn binh không mọc tóc. Cả một “đoàn binh” lại mang “oai” của hùm tạo cho người ta cảm giác ở đó dường như đang toát lên sức mạnh lớn lao không thế nào khuất phục được. Sức mạnh đó được bổ sung thêm bằng hình ảnh:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hai hình ảnh, một thực tế, một lãng mạn được đặt cạnh nhau thậm chí còn là cầu nối cho nhau. Anh mắt trừng “gửi mộng qua biên giới” thế hiện cái uy phong lẫm liệt của họ. Ta tự hỏi tại sao lại là “mắt trừng gửi mộng” mà không phải là ánh mắt nào khác? Phải chăng khoảng cách là quá xa mà người chiến sĩ thì chỉ muốn rút ngắn nó lại trong chốc lát đế nhanh được trở về với Hà Nội thân thương? Cũng có thế, nhưng điều quan trọng là thông qua hình tượng ấy, người lính Tây Tiến hiện lên không chỉ anh dũng, hào hùng mà còn đầy chất uy nghiêm và đầy sức mạnh. Ba câu thơ đang miêu tả theo cấp độ có thể nói là tăng tiến về hình ảnh đầy ấn tượng của người lính chợt chùng lại bởi một “dáng kiều thơm” ở mảnh đất quê hương. Chi tiết này thế hiện sự tinh tế của Quang Dũng, nhà thơ miêu tả người lính trong những nét phi thường nhưng vẫn không quên đồng cảm với một giấc mơ bình thường nhất và cũng là lãng mạn nhất: giấc mơ về một dáng kiều thơm. Họ là những chàng trai mười chín, hai mươi tràn đầy nhựa sống, khát khao yêu và khát khao hạnh phúc. Họ có quyền mơ về một bóng hình giai nhân nào đó chứ! Nhiều hơn thế, hình ảnh người con gái còn gắn với mảnh đất Hà thành, nơi người lính đã sinh ra nên có lẽ giấc mơ ấy còn là giấc mơ về gia đình, về quê hương, mảnh đất nơi họ đã sinh ra và gắn bó. Sự thay đổi đột ngột của hình tượng thơ làm cho bài thơ thêm hấp dẫn đồng thời khẳng định nét lãng mạn trong tâm hồn những người lính trẻ. Người lính trẻ hiện lên trong đoạn trích anh hùng bất khuất trước gian khổ nhưng cũng ngang tàng và đầy nghịch ngợm. Thêm một nét để họ trở nên gần gũi, đáng yêu và đáng quí.
Trước đó chỉ bằng hình ảnh “gục lên súng mũ bỏ quên đời”, Quang Dũng đã khiến cho người đọc ngậm ngùi về sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Nhà thơ tránh không dùng đến từ hi sinh mà khắc họa người lính Tây Tiến ngã xuống nhưng vẫn trong tư thế bước tiếp khúc quân hành cùng đồng đội. Những câu thơ tiếp theo này lại một lần nữa nhắc đến hi sinh của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bốn câu thơ trước hết dựng lên một thực tế trong cuộc chiến đấu. Người chiến sĩ ra đi là đã xác định trước được những gì mình sẽ phải trải qua:
“Làm cách mạng từ khi tôi biết
Dấn thân vô là chịu tù đày
Là gươm kề cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa”
Chiến trường khốc liệt không thể mang lại cho người nằm xuống một nơi an nghỉ vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu. Ngã xuống, họ sẽ là một trong những “nấm mồ viễn xứ” trên biên cương, tiếp tục làm công việc ngày đêm canh giữ từng tấc đất thân thương. Không ai không xác định được điều ấy. Vậy mà họ vẫn ra đi, vẫn cống hiến:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Bởi nói như nhà thơ Thanh Thảo:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không biết?
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi
Thì còn chi Tổ quốc”
Chính bởi xác định được lí tưởng sống cao đẹp ấy mà lớp thanh niên vẫn ngày đêm hát vang khúc quân hành, ra đi bảo vệ quê hương, đất nước. Rồi có những người ngã xuống “giản dị và bình tâm” nhưng cái chết của họ lại mang dáng dấp của một vị anh hùng sử thi. Hoàn cảnh chiến tranh thiếu thốn, người hi sinh không có lấy một mảnh chiếu trước khi đưa về với đất. Tấm áo ngày thường vương bụi trường chinh trở thành áo bào đưa các anh về với đất mẹ. Cuộc ra đi có sự chứng kiến và tiễn đưa của đất trời. Dòng sông Mã “gầm lên” khúc bi ca độc hành đầy đau đớn xót xa nhưng cũng thật hào hùng.
Khổ thơ sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ có ý nghĩa trong việc khắc họa hình tượng người lính. Hình ảnh thơ cụ thể, gần gũi như “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “mắt trừng”… kết hợp với sự đối lập, so sánh (quân xanh màu lá), sự chuyển đổi linh hoạt của cảm xúc:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Cùng biện pháp nhân hóa:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…
Làm cho người lính hiện lên chân thực, gần gũi: dữ dội, can trường nhưng cũng rất đa tình, hào hoa.
Có thể nói, hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong đoạn thơ mang vẻ đẹp bi tráng mà không hề bi lụy. Cái bi tráng được thế hiện ở những khó khăn, gian khố cũng như mất mát, hi sinh mà người lính phải trải qua nhưng tâm hồn và ý chí của con người thì luôn bất khuất, vượt qua và chiến thắng hoàn cảnh. Giữa cái khổ con người vẫn hiện lên thật đẹp. Trong cái chết nhưng vẫn thấm đẫm chất hùng. Nhắc đến đau thương, mất mát nhưng không làm nhụt chí mà chỉ góp phần thể hiện hình tượng người lính, tăng thêm vẻ đẹp hào hùng cho hình tượng đó. Chất bi tráng được kết hợp với cảm hứng lãng mạn và ngợi ca tạo nên hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến mang vẻ đẹp sử thi nhưng vẫn vô cùng gần gũi và thân thuộc.
Đoạn thơ đã thể hiện trọn vẹn hình tượng người lính trong bài thơ, góp phần vào sự thể hiện chủ đề chung của tác phẩm. Hình tượng người lính hiện lên mang vẻ đẹp bi tráng trong cảm hứng lãng mạn và ngợi ca hào sảng. Thành công của đoạn thơ và cả bài thơ đã diễn tả cảm động tình cảm của Quang Dũng dành cho những người đồng đội của mình ở binh đoàn cũ: Binh đoàn Tây Tiến.
Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh… lên khúc độc hành – mẫu 9
Có những con người” Không cần ai biết đến tuổi tên/ Nhưng họ đa làm ra đất nước” ( Nguyễn Khoa Điềm) đó- là hình tượng những người anh hùng vô danh đổ máu xương cho nền độc lập dân tộc, toả bóng mình tưới mát những trang thơ. Nếu ta đã từng biết đến những người lính nông dân trong “đồng chí” của Chính Hữu, “Quen nhau từ thủa chưa biết chữ” trong “Nhớ” của Hồng Nguyên thì hãy thêm một lần cảm phục yêu mến những người lính Tây Tiến trong thi phẩm cùng tên của Quang Dũng. Bức chân dung của họ được hiện lên qua 8 dòng thơ đặc sắc:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giớ
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Thơ ca khởi nguồn từ cuộc sống, hiện thực là cảm hứng cất cánh cho thơ. Tâm hồn tinh tế nhạy cảm của Quang Dũng khi ngồi ở Phù Lưu Chanh trong miên man xúc cảm nhớ nhung mà “Tây Tiến” ra đời. Năm 1948- dường như là năm của những bài thơ viết về tình đồng chí, Quang Dũng cũng góp vào “tràng cỏ” thi ca nỗi nhớ về binh đoàn đã từng một thời gắn bó với nhà thơ. Trong tiềm thức của thi gia, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp đầy bi tráng hào hùng mà cũng rất mực lãng mạn hào hoa.
Đúng như một nhà triết học La Mã cổ đại đã nói- hoàn cảnh rèn đúc nên con người, hoàn cảnh nào con người ấy. Với “Tây Tiến” hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt dữ dội của núi rừng miền tây đã” hằn vết” lên cơ thể những chàng trai của mảnh đất thị thành dấu ấn không thể phai mờ- những hình ảnh mà cho tới mãi sau này vẫn còn ám ảnh trong miền hoài niệm của Quang Dũng.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Tính chất khắc nghiệt của tự nhiên với sương muối giá rét, với tàn tích của dịch sốt rét rừng làm các chiến sĩ” không mọc tóc”. “Không mọc” hay đã rụng hết? Có lẽ đó là cách nói đầy bản ngã của Quang Dũng. Đẹp một cách dữ dội dù ” không mọc tóc” hay “quân xanh màu lá”, dù là in vết của bệnh tật, của hoàn cảnh, họ vẫn hiện lên đầy bi tráng hào hùng qua khuôn mặt dáng vẻ” dữ oai hùm” và đôi “mắt trừng” mở to đầy dữ dội như ánh nhìn căm thù sục sôi. Nhưng có phải chăng, khi ánh mắt ấy lại” gửi mộng qua biên giới”, mơ về Hà Nội với bóng hình một kiều nữ xa xôi:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Họ gửi vào giấc mơ, trong cả niềm thao thức dáng hình thủ đô với tất cả nhớ thương vời vợi. Nhớ Hà Nội- nơi miền quê của họ- nơi một thời giảng đường- nơi trái tim của cả nước. Vậy nhớ hà Nội hay nhớ Việt nam? Tình yêu quê hương hay tình yêu tổ quốc? Phải chăng ở họ cả hai tình cảm đó đan hoà xen trộn rất tự nhiên, bởi yêu nước là yêu từ những cái bình dị và đời thường nhất: “Yêu cái cây trước nhà, yêu con đường đổ ra bờ sông….” (Ê- mi- xi) Tình yêu nước gắn liền với tình yêu đôi lứa, phải mơ về một dáng hình thiếu nữ nhịp tim mới càng thêm thổn thức nhớ thương:
“Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đâu thương tươi thắm vô ngần”
( Nguyễn Đình Thi)
Ở bốn câu thơ đầu tiên với bao trạng thái đối cực: dữ dội mà hào hoa, hiện thực mà bay bổng, ngòi bút Quang Dũng như nở hoa trong sự hoà phối tuyệt vời giữa gam màu hiện thực với đường nét lãng mạn. Họ- những người lính Tây Tiến dù hằn vết của hiện thực khốc liệt vẫn lấp lánh ánh sáng diệu kì của những tâm hồn mộng mơ, rất mực tinh tế hào hoa. Bất giác thấy nhớ tới ý thơ của Chính Hữu- cũng cảnh khó khăn gian khổ của cuộc chiến với bụi khói, rách nát vẫn lãng tử phong tình, tinh tế, hào hoa:
“Rách tả tơi rồi đôi hài vạn dặ
Bụi trường trinh phai bạc áo hào hoa”
( Ngày về)
Nhưng có lẽ dù lãng mạn tới đâu, ngọn gió thi hứng trong Quan Dũng vẫn phải cất cánh từ hiện thực. Đó là bản chất của thi ca nói riêng và nghệ thuật nói chung. Hiện thực tàn khốc của cuộc chiến dù đã được nhà thơ nói giảm nói tránh tới tối giản vẫn hiện lên đầy khốc liệt phũ phàng
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Đó là những nấm mồ không tên của bao chiến sĩ đã ngã xuống, Có lẽ nó cũng nhỏ nhoi “bằng phẳng như mặt đất rừng” của ông Sáu trong “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang sáng. Những cái chết cao cả nhưng lặng thầm, vĩnh viễn ngủ yên trong lòng đất mẹ. Quang Dũng đã rất khéo léo khi sử dụng những từ Hán Việt ( biên cương, viễn xứ) vừa làm tăng tính trang trọng, bi tráng cho sự hi sinh, vừa làm giảm bớt cảm giác đau thương bi luỵ Những chiến sĩ của binh đoàn Tây Tiến, những chàng trai đôi mươi mười tám của mảnh đất Hà thành ra đi với lí tưởng cao đẹp “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. họ có tiếc gì tuổi xanh, có sợ gì cái chết. Hay ở họ rực sáng vẻ đẹp mà Thanh Thảo vẫn nói:
“Chúng tôi đi không tiếc cuộc đời mìn
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc?
(Ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi đất nước)
Chúng tôi đi không tiếc cuộc đời mình”
(Những người đi tới biển)
Họ ra đi là toàn tâm, toàn ý, toàn chí cho đất nước, sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất cả. Phải chăng tiếng lòng ấy đã đập cùng tần số với tiếng lòng Hồng Nguyên, trái tim Quang Dũng đã đồng điệu và cùng thổn thức giao hoà với “Nhớ”? :
“Ba năm rồi bỏ lại quê hương
Mái lều tranh tiếng mõ đêm trường
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya”
Đọc đến đây, bất giác nhớ tới câu nói của Tố Hữu: “Thơ là một điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”, phải chăng trong cảm hứng hình tượng về những người lính, các thi gia đã vô tình gặp nhau?
Cùng trong dòng chảy nỗi nhớ, Quang Dũng bật lên thơ trong tiếng nói cảm xúc, trong nỗi đau xé lòng nhưng đươc kìm nén để vọng lên trong hai câu thơ đầy tính nhạc:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sự hi sinh của họ- ngay cả khi mãi mãi lìa xa cuộc đời như chiếc lá lìa cành vẫn thiếu thốn trong manh “áo bào” như của các chiến binh thủa xưa. “Về đất” vẫn là cách Quang Dũng nén nỗi đau của con tim để giảm đi phần bi luỵ , tăng thêm tính hào hùng. Nỗi đau của con người trào ra trong cảnh vật, trở thành tiếng “gầm” đầy đau thương oan trái, sông Mã- con sông kỉ niệm của binh đoàn Tây tiến như gào thét, cuộn sóng đầy đau đớn trước sự ra đi của những tri kỉ, “khúc độc hành” gợi nhớ tiếng hát của Kinh Kha bên bờ sông Dịch. Tất cả tất cả như sóng lòng cuồn cuộn lên trong lòng tác giả, tràn ra cảnh vật để rồi vẳng lại trong chiều sâu xúc cảm nơi độc giả. Đến đây ta hiểu rằng, hình tượng binh đoàn Tây Tiến chính là ” hợp chất làm từ căm giận, đau khổ và tình yêu” ( Mu- kha- mat- Khat- đa)
Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc như một trận động đất nhào nặn lại thi hứng hiện thực trong thi ca, những ngòi bút xông pha vào máu lửa trận chiến để sống và viết như Quang Dũng, Chính Hữu, Hồng Nguyên… đã tái hiện lại cả một thời đại lịch sử, Họ đã đúc nên bao tượng đài bất tử về những người lính chiến như đoàn binh Tây Tiến, mà ở đó- nói như một triết học gia” Họ giống nhau về tính phổ quát hơn là khác nhau về sự cá thể”
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 được xem nhiều nhất chọn lọc hay khác:
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 12