Giáo dục

Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Đề bài: Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

phan tich kho tho dau trong bai tho day thon vi da cua han mac tu

Bạn đang xem bài: Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

I. Dàn ýPhân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (Chuẩn)

1. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả Hàn Mặc Tử, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” và khổ thơ đầu của bài thơ.

2. Thân bài:

– Mở đầu khổ thơ bằng câu hỏi tu từ mang âm điệu tha thiết: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”:
+ Nghe như tiếng hờn dỗi, trách cứ của những người thôn Vĩ; đó cũng là lời tự vấn của nhà thơ.
+ Sự nhớ nhung, niềm khao khát được về Vĩ Dạ đã khiến nhà thơ tưởng tượng ra lời hờn trách, mời gọi thi nhân trở về của những người Vĩ Dạ.

– Hình ảnh “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”:
+ Điệp từ “nắng” lặp lại 2 lần trong một câu thơ, gợi lên không gian ngập tràn sắc nắng.
+ “Nắng mới lên”: thứ nắng tinh khôi của buổi sớm ban mai xứ Huế.
+ “Nắng hàng cau”: thứ nắng đặc trưng của Vĩ Dạ bởi Vĩ Dạ trồng rất nhiều cau.

– Hình ảnh “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”:
+ Đại từ phiếm chỉ “vườn ai” thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của nhà thơ trước vẻ đẹp của khu vườn thôn Vĩ.
+ Tính từ “mướt”: gợi ra vẻ xanh non mơn mởn của vườn cây thôn Vĩ dưới ánh nắng mặt trời.
+ So sánh “xanh như ngọc”: gợi liên tưởng về một khu vườn còn đẫm sương đêm, được mặt trời chiếu rọi trở thành một khối ngọc bích khổng lồ.

– Hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền”:
+ Đây vừa là hình ảnh tả thực: những chiếc lá trúc che ngang “mặt chữ điền” trên tường.
+ Vừa là một nét vẽ cách điệu của nhà thơ: đặt khuôn mặt người sau vòm lá trúc khiến cho khu vườn tràn ngập sinh khí, ấm áp hơn, sinh động hơn.

– Đánh giá nội dung, nghệ thuật:
+ Nội dung: Bức tranh thôn Vĩ với cảnh vườn tược tươi sáng, thơ mộng cùng tấm lòng gắn bó tha thiết của thi nhân với thiên nhiên và con người thôn Vĩ.

+ Nghệ thuật:

  • Sử dụng thể thơ thất ngôn truyền thống nhưng ngôn ngữ trong thơ rất bình dị, mộc mạc.
  • Hình ảnh thơ quen thuộc, lấy chất liệu từ dân gian, giàu cảm xúc.
  • Câu hỏi tu từ mở đầu bài thơ cũng đem tới nét đẹp hiện đại cho thơ Hàn Mặc Tử.

3. Kết bài:

– Khẳng định giá trị của khổ thơ, bài thơ.

II. Bài văn mẫuPhân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (Chuẩn)

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ Mới. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, được sáng tác năm 1938 khi nhà thơ đang dưỡng bệnh tại trại phong Quy Hòa. Bài thơ là tình yêu tha thiết của nhà thơ dành cho thiên nhiên và con người thôn Vĩ. Đặc biệt, trong khổ thơ đầu, thông qua bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ đẹp đẽ, tươi sáng, người đọc cảm nhận được tấm lòng gắn bó cùng tình yêu sâu nặng của nhà thơ Hàn Mặc Tử dành cho mảnh đất này.

Khổ thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ mang âm điệu tha thiết:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu thơ tựa như hờn dỗi, trách móc, mời mọc đầy duyên dáng của người con gái xứ Huế; đó cũng cũng giống như lời tự vấn của nhà thơ. Sự nhớ nhung cùng những kỉ niệm và niềm khao khát được về thăm Vĩ Dạ đã khiến cho nhà thơ tưởng như người Vĩ Dạ đang hờn trách ông, đang mời gọi ông. Hai tiếng “về chơi” nghe sao thân thuộc, gần gũi đến vậy?. Trong trái tim người thi sĩ, Vĩ Dạ là một nơi chốn thân thương mà nhà thơ gắn bó bằng tất cả trái tim và tâm hồn.

Trong thế giới tưởng tượng, nhà thơ đã thực hiện chuyến hành trình về thăm thôn Vĩ. Bức tranh khung cảnh vườn Vĩ Dạ được nhà thơ Hàn Mặc Tử miêu tả từ nhiều góc độ, từ xa tới gần, từ cao tới thấp, với nhiều chi tiết khác nhau. Thế nhưng dù ở góc độ, chi tiết nào, cảnh vườn Vĩ Dạ vẫn đẹp thơ mộng, đầy sức sống.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Trong cuộc hành trình bằng tâm tưởng, điểm đến đầu tiên trong cái nhìn của thi nhân là hình ảnh của “nắng hàng cau”. Điệp từ “nắng” lặp lại ai lần trong một câu thơ gợi lên một không gian tràn ngập sắc nắng ban mai. “Nắng mới lên” là thứ nắng tinh khôi của buổi bình minh trên đất Huế còn “nắng hàng cau” lại là thứ nắng đặc trưng của Vĩ Dạ, bởi Vĩ Dạ là nơi trồng rất nhiều cau, và cau lại là loài cây mọc thẳng đứng, vươn mình cao hơn tất cả các loài cây khác để đón nắng sớm. Khi nắng sớm phớt hồng trên những chiếc lá cau cũng là lúc mà vạn vật đất trời xứ Huế bừng tỉnh giấc ngủ say. Tả nắng hàng cau mà Hàn Mặc Tử đã làm sống dậy cả một buổi ban mai ở xứ Huế dầy tinh khôi, dịu nhẹ.

Trong ánh nắng ban mai tinh khôi là hình ảnh của khu vườn tươi tốt, xanh mướt căng tràn sức sống:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Đại từ phiếm chỉ “vườn ai” đã thể hiện được cảm xúc ngỡ ngàng của nhà thơ trước vẻ đẹp rạng rỡ của khu vườn Vĩ Dạ. Tính từ “mướt” gợi liên tưởng đến khu vườn với cây trái xum xuê, tươi tốt, mơn mởn. Cùng với đó là hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” cũng đã gợi ra một khu vườn còn đẫm sương đêm. Khu vườn ấy đang được mặt trời chiếu rọi, cây lá hiện lên lung linh, long lanh như một khối ngọc bích khổng lồ. Ta có thể thấy được trong câu thơ là một tình yêu chứa chan với cảnh vườn Vĩ Dạ của thi nhân.

Không chỉ vậy, trong cuộc hành trình của mình, Hàn Mặc Tử còn trở về Vĩ Dạ để được say sưa ngắm nhìn:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ vừa là nét tả thực vừa là nét vẽ cách điệu của nhà thơ. Những lá trúc trong vườn đang che ngang “mặt chữ điền” được vẽ trên tường hay phải chăng đó là một khuôn mặt người đang ẩn hiện sau vòm lá? Hình ảnh con người sau những vòm lá khiến cho bức tranh Vĩ Dạ trở nên thật ấm áp và đầy sinh khí. Nhà thơ đã cố tình đặt khuôn mặt người ẩn hiện sau vòm lá để gợi lên dáng vẻ một con người đang e ấp, thẹn thùng cùng tính cách vô cùng kín đáo của những con người xứ Huế. Hẳn là khuôn “mặt chữ điền” được Hàn Mặc Tử lấy ý từ câu ca dao quen thuộc của người dân miền Trung:

“Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung”

Thơ của Hàn Mặc Tử mang đậm phong vị của dân gian đồng thời ông còn gợi ra được cả vẻ đẹp của tâm hồn con người xứ Huế. Đó là những con người sống gắn bó với quê hương, ruộng vườn, chất phác, giản dị, giàu tình nghĩa thuỷ chung. Chỉ bằng một nét cách điệu nhưng Hàn Mặc Tử đã thâu tóm cả vẻ đẹp của cảnh vườn và con người Vĩ Dạ. Cảnh vườn thơ mộng, ấm áp, con người thì dịu dàng, chất phác.

Bốn câu thơ đã vẽ lại cảnh vườn Vĩ Dạ thơ mộng, ấm áp, giàu sức sống. Đằng sau bức tranh ấy là tình yêu, sự gắn bó tha thiết của thi nhân với mảnh đất Vĩ Dạ, là khát khao được giao cảm với cuộc đời. Nhưng sâu bên trong đó là một nỗi buồn, sự nuối tiếc bởi vẻ đẹp kia chỉ còn trong ký ức bởi bệnh tật đang dày vò và ngăn trở ông với cuộc đời. Khổ thơ còn thể hiện những nỗ lực cách tân thơ Việt của Hàn Mặc Tử. Ông vẫn sử dụng thể thơ thất ngôn truyền thống nhưng ngôn ngữ thơ lại mộc mạc, giản dị hơn. Hình ảnh thơ cũng là những chất liệu rất đơn sơ, bình dị nhưng giàu cảm xúc. Câu hỏi tu từ mở ra bài thơ cũng là một nét đẹp hiện đại cho thơ của ông.

Khổ đầu tiên của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã cho chúng ta thấy được khung cảnh vườn tược của Vĩ Dạ đẹp thơ mộng dịu dàng, mang đậm phong vị xứ Huế. Đây thôn Vĩ Dạ quả là một bài thơ rất hay về một miền quê hương đất nước của một thi sĩ hết mực tài hoa và yêu đời, yêu người.

—————-HẾT—————

Để tìm hiểu rõ về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ cũng như về thi nhân Hàn Mặc Tử, mời các bạn cùng đọc thêm các bài viết khác rất hay về tác phẩm này như: Cảm nhận về khổ thơ thứ 2 trong bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ, Khung cảnh thôn Vĩ Dạ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Phân tích nỗi khát khao tình đời và tình người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Cảm nhận về vẻ đẹp của con người Hàn Mạc Tử qua bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục

Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Cách đây 40 năm về trước, mặc dù miền Bắc XHCN khi đó đang nặng hai vai gánh cả non sông vượt dặm dài, vừa là hậu phương lớn chi viện tích cực cho các chiến trường với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, vừa là tiền tuyến đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo vẫn không ngừng phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt và sự nghiệp tái thiết đất nước lâu dài sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu của công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch các vùng kinh tế mới,vùng chuyên canh, xây dựng các nông trường, Bộ Nông trường ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) đã có Quyết định số 115 QĐ/TC ngày 05 th áng 9 năm 1968 về việc mở Lớp công nhân đo dạc - tiền thân của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung ngày nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button