Biểu mẫu

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí

Rèn luyện kĩ năng kể lại trọn vẹn bài thơ và hoá thân thành lời sẽ giúp các em cảm nhận rõ ràng hơn cả nội dung tác phẩm và những nét đặc sắc của tác phẩm nghệ thuật. Các bài soạn Nhập vai chiến sĩ Kể lại bài thơ Đồng Chí dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được cách kể một cách sáng tạo câu chuyện về nghề đang học ở ngôi thứ nhất số ít.

Chủ đề: Đóng vai chú bộ đội thuật lại bài thơ Đông Chí.

Bạn đang xem bài: Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí

Mục lục bài viết:
1. phác thảo
2. Ví dụ Bài học số một
3. Bài mẫu số 2
4. Ví dụ về bài tập số 3

dong vai nguoi linh ke lai bai tho dong chi

Đóng vai chú bộ đội thuật lại bài thơ Đông Chí.

I. Dàn ý Đóng vai chú bộ đội kể lại bài thơ Đồng chí (Chuẩn)

1. Khai giảng lớp

Đóng vai chú bộ đội giới thiệu câu chuyện.

2. Cơ thể

– Nó kể về cuộc gặp gỡ của những người lính và quá trình trở thành đồng đội của nhau.
+ Tương đồng về hoàn cảnh, quá khứ nghèo khó.
+ Cùng nhau chia sẻ nhiệm vụ trong trận chiến.
+ Cộng đồng chỉ phát triển và tồn tại trong sự hòa hợp, chia sẻ và hợp tác.

– Kể về những kỷ niệm khó khăn với Đồng Hành Keo.
+ Những khó khăn thử thách của đời lính: sốt rét, áo rách, quần vá, không giày.
+ Kết nối và cảm thông trong mọi tình huống: nắm tay, mỉm cười và động viên nhau.

– Nhớ những đêm anh đứng canh thức bên nhau.
+ Không gian: rừng hoang, sương muối
+ Giờ: đêm
+ Những người lính đang sát cánh cùng nhau.
+ Đêm khuya, ánh trăng treo đầu súng như đã buông xuống.

3. Kết luận

Nêu cảm nghĩ của bạn về quá khứ và tình bạn.

II. Đóng vai chú bộ đội kể lại bài thơ Đồng Chí.

1. Đóng vai chú bộ đội kể lại bài thơ Đông Chí mẫu 1 (Mẫu)

Tôi chiến đấu trong cuộc trường chinh Việt Bắc năm 1947, những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Không thể nói hết những khó khăn, thiếu thốn, hiểm nguy trong cuộc kháng chiến này. Nhưng rất may, nhờ lòng yêu nước, tình bạn, tình đồng chí đã giúp tôi và các chiến sĩ vượt qua và chiến thắng.

Tôi vẫn nhớ khi nhập ngũ, tôi nghĩ mình là người duy nhất xuất thân nghèo khó nhưng tất cả những người lính khác đều trở thành chiến sĩ nông dân và quê hương của họ cũng nghèo. Ở quê bạn nước chua mặn, quê tôi đất cày lên sỏi đá. Tình bạn giữa chúng tôi bắt đầu từ sự giống nhau về xuất thân và hoàn cảnh bấp bênh. Như vậy, từ những người xa lạ trên khắp mọi miền Tổ quốc, phương trời xa xôi, họ không hẹn mà cùng trở thành những người bạn, người đồng chí của nhau. Cùng chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt của chiến trường, cùng chung lý tưởng cách mạng, là đồng chí. Chúng ta chiến đấu vì đất nước, vì quê hương, vì hòa bình, độc lập của dân tộc, đây là mẫu số chung. Gió se lạnh đầu đông miền Việt Bắc, tôi và anh bạn chung chăn. Tìm đâu chăn ấm, chăn bông trên chiến trường? Tất cả đều chịu lạnh, cùng quấn trong chăn, sẻ chia hơi ấm, trở thành tri kỷ.

Chúng tôi rất nhớ nhà. Chúng tôi đã rời bỏ ruộng đồng, nhà cửa, quê hương để đến đây giữ bình yên cho làng quê và chiến đấu. Đôi khi đồng chí chạnh lòng: “Không biết mấy ngày nay tình hình ở nhà thế nào. Ai chăm mẹ già, ai lo việc nhà khi gió mùa về. Nhớ chú lắm các chú ơi!” Trong một khoảnh khắc, tôi có thể vỗ vai an ủi anh ấy. Chúng tôi đã cùng nhau chia sẻ mọi khó khăn, mọi giá rét, mọi ngọn lửa, và không áo nào đẹp hơn áo của người khác. Chiến đấu gian khổ, không có giày, áo rách, quần sửa lại đói, nhưng với tình đồng chí của người lính, chúng ta có thể chung tay vượt qua mọi gian khổ, khó khăn.

Điều tôi nhớ nhất là những đêm trên sa mạc lạnh giá sương ướt đôi vai và chúng tôi bên nhau chờ kẻ thù đến. Đối với tôi, sức mạnh của tình đồng hành là mạnh mẽ hơn bất cứ điều gì khác, giúp tôi vượt qua sự khắc nghiệt của thời gian và những hiểm nguy chờ đợi kẻ thù. Chính vầng trăng sáng đã đồng hành cùng chúng tôi trong những đêm ấy. Đêm khuya, ánh trăng buông xuống như đầu súng. Trăng sáng càng làm tôi vững tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến và vào một ngày không xa là hòa bình trên quê hương.

Bây giờ suy nghĩ của tôi đã thành hiện thực, tôi không bao giờ quên được những năm tháng hào hùng đó. Đôi khi tôi vẫn nhớ về những người lính đã chiến đấu năm xưa. Đã mất những năm qua …

2. Đóng vai chú bộ đội kể lại bài thơ Đồng Chí mẫu 2 (Mẫu)

Từ những năm Kháng chiến tôi là chiến sĩ của đại đội Trung đoàn Thủ đô. Tôi đã cùng đơn vị chiến đấu trong chiến dịch thu đông năm 1947. Tôi có những kỷ niệm sâu sắc, khó quên với đồng chí, đồng đội của mình kể từ chiến dịch đó.

Sự tương giao cao cả và thánh thiện, nhưng cũng rất gần gũi và giản dị. Vì chúng ta là những người cùng nguồn gốc, cùng lý tưởng đấu tranh và ý chí quyết thắng. Tất cả chúng ta đều sinh ra ở những làng quê nghèo, nghèo cái ăn, cái mặc nhưng không nghèo về ý chí. Chính hoàn cảnh đó đã tập hợp chúng tôi vào hàng ngũ và làm quen từ những nơi xa xôi. Tình bạn của chúng tôi được nảy sinh từ những điều bình dị như cùng nhiệm vụ, cùng cảnh khó, chung chăn trong đêm lạnh. Thưa đồng chí, nói chung là hai từ rất dài và sâu, nhưng bạn có thể hiểu hết nếu đặt mình vào hoàn cảnh này.

Sau khi tôi hay bất cứ người lính nào cũng coi nhau là đồng đội thì mọi tâm tư, tình cảm đều không thể giấu được. Dù thế nào, tôi cũng không đơn độc, dù áo rách, quần người khác có vá. Chúng tôi nhìn nhau và có thể mỉm cười trong mọi tình huống, thậm chí là đi chân trần trong giá lạnh. Trong rừng sâu đầy nước độc, chúng tôi không thể ngăn được cảm lạnh và những cơn sốt rét chết người. Nhưng nếu còn tình bạn, nếu có một bàn tay khác nắm lấy tay mình thì mọi chuyện sẽ qua.

Tôi còn nhớ đêm canh gác, chúng tôi – những người lính đứng giữa núi rừng hoang vu lạnh lẽo vẫn kề vai sát cánh chờ giặc đoàn kết. Chúng tôi ngắm trăng, trăng xuống như lơ lửng vũ khí mới hiểu cuộc đời người lính không chỉ có gian nan, nguy hiểm mà còn có cái hay, cái đẹp của tình người – tình đồng chí. .

Đã qua rồi cái thời khó khăn khi chiến đấu trên mọi mặt trận. Nhưng với tôi, tôi vẫn khao khát nỗi nhớ đồng đội. Có người đã vĩnh viễn ra đi, có người không còn biết đến tôi nữa. Nhưng cuối cùng thì tình bạn sẽ trường tồn mãi mãi, chỉ cần trái tim em vẫn còn hình bóng anh và nhớ về những kỉ niệm.

3. Đóng vai chú bộ đội kể lại bài thơ Đông Chí mẫu 3 (Mẫu)

Ngày nay, trong thời bình, thật khó lý giải cho thế hệ trẻ hiểu thế nào là tình bạn, ý nghĩa sâu sắc, thiêng liêng và cao cả của nó. Tôi hy vọng câu chuyện mà tôi sắp kể sẽ giúp thế hệ sau hiểu được sức mạnh của tình bạn trong kháng chiến và kháng chiến.

Năm đó là chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, hai năm cuối của nạn đói khủng khiếp năm 1945. Khắp quê hương Việt Nam còn nghèo đói. Vào bộ đội thì gặp bộ đội. Họ cũng là những đứa trẻ của một làng quê nghèo, tình bạn và tình đồng chí của chúng tôi bắt nguồn từ sự tương đồng sâu xa. Ở quê anh, đất chua mặn nhưng làng tôi cũng kém chế biến sỏi đá. Vì cùng hoàn cảnh gia đình, cùng chung mục tiêu và lý tưởng nên tôi và đồng đội đã gặp nhau. Đó là chúng ta cùng chung nhiệm vụ, cùng cảnh ngộ trong chiến tranh, kề súng, giáp mặt, chúng ta luôn hành động cùng nhau để vượt qua mọi khó khăn. Tình bạn của chúng ta càng phát triển thì càng bền chặt, mỗi người đều hòa đồng, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau, chúng ta xem mình như những người bạn tâm giao, những người bạn thân trong mọi hoàn cảnh khó khăn hay hạnh phúc. Có những đêm hoang lạnh, tình bạn ấm áp trong chăn nhỏ, chỉ chung chăn chung một đêm lạnh giá cũng có thể là tri kỷ. Tình yêu thương gắn bó này là sức mạnh để anh chị em chúng ta chiến đấu với những thử thách về thể chất và tinh thần.

Giữa chúng tôi dường như không còn khoảng cách, không có sự thấu hiểu và cảm thông sâu sắc những tâm tư, tình cảm của nhau. Có người nhớ quê hương, ruộng đồng, mái ấm, gốc giếng nhưng vẫn cố gắng vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ. Không cùng nhau trải qua khó khăn, những giây phút cận kề cái chết cũng không phải là bạn đồng hành. Bạn bè của tôi và tôi đã trải qua cùng một cơn sốt rét kinh hoàng khi sống trong rừng. Còn nhớ, cơn sốt rét kinh hoàng đó, may mà được đồng đội cưu mang nên tôi mới cầm cự được để tiếp tục chiến đấu. Dù áo rách, quần vá, dù không đi giày trong trời lạnh, chúng tôi vẫn nở nụ cười với những người bạn luôn bên cạnh để gắn bó, sẻ chia và giúp đỡ. Không nơi nào sự tận tâm và đồng cảm sâu sắc hơn tình đồng chí trên chiến trường. Trong sinh tử, người lính chỉ cần có đồng đội, họ nắm tay nhau như được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, đánh bại mọi kẻ thù.

Tình bạn sưởi ấm lòng ta mỗi đêm mai phục địch, ta đứng bên bạn bè dưới trăng sáng, còn gì đẹp hơn tình đồng chí trong giây phút ấy. Giữa núi rừng hoang vu sương gió không ngại mưa gió, không sợ giặc vì có những người đồng đội luôn chung sức, đồng lòng, một người bạn luôn trăng. Cổ vũ cho cuộc chiến công bằng của chúng ta.

Nói thật, tình bạn cao đẹp và bình dị, thế hệ trẻ bây giờ gọi chúng tôi là anh bộ đội cụ Hồ. Đây là cuộc sống của người lính, các bạn trẻ, không tô điểm, không cường điệu, tất cả là cuộc sống thực, cảm xúc thật.

——KẾT THÚC——

https://thhuthuat.taimienphi.vn/dong-vai-nguoi-linh-ke-lai-bai-tho-dong-chi-69338n.aspx
Ngoài Bài văn người lính nhập vai miêu tả bài thơ Đồng chí, các em có thể đọc và xem lại các bài văn phân tích trong bài Đồng chí như: Phân tích hình tượng người lính trong bài đồng chíPhân tích lục địa cuối cùng của Đông Chí, Bình giảng bài thơ Đồng chí Bình luận của Chính Hữu về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Mong rằng qua những bài soạn này, các em học sinh sẽ phát triển được kĩ năng cảm thụ cũng như khả năng phân tích tác phẩm văn học.



  • #Đóng #vai #người #lính #kể #lại #bài #thơ #Đồng #Chí

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Biểu mẫu

Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Cách đây 40 năm về trước, mặc dù miền Bắc XHCN khi đó đang nặng hai vai gánh cả non sông vượt dặm dài, vừa là hậu phương lớn chi viện tích cực cho các chiến trường với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, vừa là tiền tuyến đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo vẫn không ngừng phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt và sự nghiệp tái thiết đất nước lâu dài sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu của công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch các vùng kinh tế mới,vùng chuyên canh, xây dựng các nông trường, Bộ Nông trường ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) đã có Quyết định số 115 QĐ/TC ngày 05 th áng 9 năm 1968 về việc mở Lớp công nhân đo dạc - tiền thân của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung ngày nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button