Phân tích bài thơ Chí anh hùng
Đề bài: Phân tích bài thơ “Chí anh hùng” của Nguyễn Công Trứ. Cảm nghĩ của em về quan niệm anh hùng của nhà thơ.
Bạn đang xem bài: Phân tích bài thơ Chí anh hùng
Bài văn mẫu
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858), là một trong những nhà thờ tiêu biểu của nước ta trong nửa đầu thế kỉ XIX. Ông là một nhà nho, văn võ song toàn, có tài kinh bang tế thế. Về mặt thơ văn, những bài thơ viết theo thể hát nói của ông cho ta thấy một tâm hồn khoáng đạt, một cốt cách mạnh mẽ hào hùng, rất độc đáo. Bài “Chí anh hùng” là một trong những bài hát nói xuất sắc nhất của nhà thơ viết trong thời trai trẻ. Bài thơ biểu lộ chí khí hãm hở lập công danh, để lại công danh sự nghiệp cho đời. Nhạc điệu âm vang, dồn dập của bài thơ gợi lên trong lòng chúng ta nhiều ấn tượng sâu sắc, tuyệt đẹp:
"Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc, Nợ tang bồng vay giả giả vay ... ... Thảnh thơi thơ túi rượu bầu"
Khổ thơ đầu nói về chí làm trai. Theo quan niệm của người xưa, người con trai sinh ra ở đời, đầu đội trời, chân đạp đất là phải mang nợ tang bồng. Tang là cây dâu, bồng là cỏ bồng, nghĩa đen là cung tên. Nợ tang bồng là nợ lớn của đấng nam nhi: phải có chí lớn à bốn phương, tung hoành giữa trời đất, ra sức giúp nước, trả ơn vua, trả nợ đời. Không thể sống ru rú trong xó nhà. Không thể quẩn quanh, mang thói nữ nhi thường tình. Phải đem tài trí đua tranh với đời.
Người có chí nam nhi, có chí anh hùng thì trường đua tranh vô cùng rộng lớn mang tầm vóc vũ trụ: “vòng trời đất”, “nam, bắc, đông, tây” “trong bốn bể”. Mang “nợ tang bồng” thì phải hết sức sòng phẳng, nghĩa là có “vay” thì phải có “trả”.
“Ngang dọc dọc ngang” chỉ sự tung hoành đó đây; ngoài ra còn phải “vẫy vùng” đè sóng cưỡi gió, đem tài năng thi thố với thiên hạ.
Cái hay của khổ đầu bài hát nói là ở giọng điệu hào hùng. Thơ đầy nhạc, lôi cuốn, hấp dẫn. Nghệ thuật láy âm, điệp từ, luyến láy rất tài tình: “dọc ngang ngang dọc”, “vay giả già vay”. Nhà thơ làm hiện lên trước mắt người đọc, người nghe hình ảnh một đấng nam nhi đang tung hoành, vùng vẫy trong “vòng trời đất”:
"Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc Nợ tang bồng vay giả giả vay Chí làm trai nam bắc đông tây Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể."
Khổ thơ thứ hai là khổ giữa của bài hát nói, có giá trị như một tuyên ngôn, thể hiện một quan niệm sống đẹp;
"Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ, Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh. Đã chắc ai rằng nhục rằng vinh Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ"
Con người sinh ra ở đời, ai mà chẳng có một nghề, một công việc để mưu sinh. Nhưng điều quan trọng nhất là phải biết làm nên công danh sự nghiệp để lại tấm lòng son (đan tâm) trong sử sách, để lại tiếng thơm cho muôn đời. Không nên lấy thành, bại, vinh, nhục để bàn luận anh hùng một cách vội vã, phiến diện. Cũng không nên xem thường người anh hùng khi chưa gặp thời thế. Trên đây là những lời tâm huyết của Nguyễn Công Trứ muốn nhắn gửi lại cho mai hậu.
Bài hát nói này có khổ dôi, đó là khổ thơ thứ ba. Giọng điệu thơ mang âm hưởng anh hùng ca thể hiện rõ chí anh hùng bằng những hành động, những việc làm cụ thể. Ngôn ngữ thơ trang trọng cổ kính. Hình tượng thơ mang tính chất ước lệ tượng trưng, lấy cái kì vĩ, tráng lệ để nói lên khát vọng công danh, chí nam nhi, chí anh hùng:
"Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ Quyết ra tay buồm lái trận cuồng phong Chí những toan xẻ núi lấp sông Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ"
“Mây tuôn sống vỗ”, “buồm lái trận cuồng phong” là hai hình ảnh tượng trưng nói lên cảnh ngộ đất nước gặp buổi khó khăn; loạn lạc và cách ứng xử của người anh hùng đứng trước thời cuộc, quyết đem tài năng và khí phách dẹp loạn, cứu nguy cho đời, làm sáng ngời lòng trung quân ái quốc. “Xẻ núi lấp sông” tượng trưng cho những công việc phi thường, những sự việc to lớn, làm rạng rỡ quê hương xứ sở. Nguyễn Công Trứ đã trải qua những thăng trầm dữ dội, đã nếm nhiều vinh nhục trên con đường công danh.Có điều cần khẳng định là ông đã sống và hành động đúng như ông quan niệm. Về mặt câu chữ, không phải ở sự mới mẻ, vì nhiều người đã viết, đã dừng, cái hay cái đẹp ở đây là với ngôn ngữ, hình ảnh ước lệ ấy, ông đã đặt đúng chỗ, nói đúng lúc, diễn tả một cách hùng hồn, lôi cuốn, chấn động cái chí khí kẻ sĩ của mình.
Khổ thơ cuối trong bài hát nói, theo thi pháp cổ gọi là khổ xếp, chỉ có 3 câu, câu cuối cùng gọi là câu keo, chỉ có sáu từ:
"Đường mây rộng thênh thênh cử bộ Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo Thảnh thơi thơ túi rượu bầu."
“Đường mây” là hình ảnh ẩn dụ, lấy từ câu chữ “thanh vân chí thượng” (lên đến tận mây xanh) ý nói thi đỗ, có địa vị cao sang, lập được công danh. “Thênh thênh cử bộ'” nghĩa là bước đi thênh thênh, ung dung trên con đường công danh. Ở khổ đầu, nhà thơ đã viết: “Nợ tang bồng vay giả giả vay”, ở khổ xếp lại viết: “Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo”, qua đó ta thấy dưới ngòi bót của Nguyên Công Trứ, ngôn ngữ thơ vừa hình tượng”, biểu cảm vừa mang tính hệ thống chặt chẽ. “vỗ tay reo”, “thành thơi’ chỉ niềm vui hân hoan, toại nguyện, thảnh thơi ung dung với “thơ túi rượu bầu”, sống tại cuộc đời của những tao nhân mặc khách.
Giọng thơ trở nên nhẹ nhàng, thư thái diễn tả niềm vui sướng và tự hào của kẻ sĩ sau khi đã làm tròn nghĩa vụ với đời, đã trang trải hết nợ tang bồng. Và lúc ấy, có quyền được thảnh thơi vui sướng “thơ túi rượu bầu”, thưởng thức trăng thanh gió mát. có người cho đó là hưởng lạc. Chưa hẳn thế!
Cảm nghĩ về quan niệm anh hùng của Nguyễn Công Trứ:
Bài “Chí anh hùng” của Nguyễn Công Trứ đã nói lên một cách sâu sắc, hào hùng chí nam nhi, nợ tang bồng của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến. Là đấng nam nhi thì phải có chí anh hùng: khao khát đua tranh, vẫy vùng lập công danh, làm nên sự nghiệp lớn “lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh”. Đành rằng chí anh hùng ấy mang màu sắc phong kiến, nhưng tích cực. Nguyễn Công Trứ đã sống và hành động như một đấng trượng phu. Ông nhà nghèo, học giỏi, hào hoa, có chí lớn, từng đem tài năng thi thố với đời:
"Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng Lúc bình Tây, cờ đại tướng Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên ..." (Bài ca ngất ngưởng)
Đoạn thơ trên đã nói lên một cách đầy đủ, sáng tỏ nhất nhân cách kẻ sĩ của Nguyễn Công Trứ. Đặc biệt ông có công lớn trong việc di dân, lập ấp, khai khẩn đất hoang, lấn biển lập ra hai huyện Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) và Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình). Đến nay, nhân dân những vùng ấy còn lập đền thờ, ghi nhớ công đức của ông.
Quan niệm anh hùng của Nguyễn Công Trứ có nhiều điểm phù hợp với quan niệm của nhân dân ta. Với Nguyễn Công Trứ: “Đã mang tiếng ở trong trời đất – Phải có danh gì với núi sông”. Còn nhân dân lao động: “Làm trai cho đáng nên trai — Xuống đông, đông tĩnh, lên đoài, đoài tan”, hoặc:
"Làm trai cho đáng nên trai Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng"
Mỗi một thời đại đều có một quan niệm anh hùng riêng. Chí anh hùng của tuổi trẻ thời kháng chiến là: “trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt quơ, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Và ngày nay là đem tài trí phấn đấu cho mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, …”, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cuộc đời của Nguyễn Công Trứ rất đẹp. Ông đã sống với tất cả chí làm trai và chí anh hùng. Bài “Chí anh hùng” là một bài thơ đẹp và hay: đẹp ở giọng điệu lời ca, hay ở cốt cách hào hùng của kẻ sĩ.
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 9