Sơ đồ tư duy bài Ca dao hài hước dễ nhớ, ngắn gọn
Sơ đồ tư duy bài Ca dao hài hước dễ nhớ, ngắn gọn
Nhằm mục đích giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức, nội dung các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 10, chúng tôi biên soạn bài viết Sơ đồ tư duy bài Ca dao hài hước dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ các nội dung như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, bố cục, dàn ý phân tích, bài văn mẫu phân tích, …. Hi vọng qua Sơ đồ tư duy bài Ca dao hài hước sẽ giúp học sinh nắm được nội dung cơ bản của Sơ đồ tư duy bài Ca dao hài hước.
Bạn đang xem bài: Sơ đồ tư duy bài Ca dao hài hước dễ nhớ, ngắn gọn
A. Sơ đồ tư duy bài Ca dao hài hước
B. Tìm hiểu bài Ca dao hài hước
I. TÁC PHẨM
1. Thể loại: Ca dao hài hước.
Là lời thơ trữ tình dân gian, thường kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả đời sống nội tâm con người.
2.Giá trị nội dung
Tiếng cười lạc quan trong ca dao của người bình dân cho dù cuộc sống của họ còn nhiều vất vả, lo toan.
3. Giá trị nghệ thuật
Nghệ thuật trào lộng thông minh, hóm hỉnh. Cường điệu phóng đại.
4.Phân loại ca dao
– Bài 1: Ca dao hài hước tự trào.
– Bài 2, 3, 4: Ca dao hài hước châm biếm, phê phán.
DÀN Ý PHÂN TÍCH
I. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về ca dao (giá trị nội dung, nghệ thuật).
II. Thân bài
1. Bài 1
– Viết theo thể đối đáp giữa chàng trai và cô gái (2 nhân vật trữ tình).
* Lời chàng trai về lễ vật dẫn cưới:
– Cách nói khoa trương, phóng đại: Dẫn voi – dẫn trâu – dẫn bò → lễ vật sang trọng.
– Cách nói giả định: “toan dẫn” là cách nói thường gặp của các chàng trai nghèo đang yêu ngày xưa.
– Cách nói đối lập:
Dẫn voi >< Sợ quốc cấm.
Dẫn trâu >< Sợ họ máu hàn.
Dẫn bò >< Sợ họ nhà nàng co gân.
Chàng trai là người cẩn thận, biết quan tâm và tôn trọng gia tộc nhà cô gái. Đồng thời, chàng còn là người khéo léo, có lí, có tình, dễ tạo được sự cảm thông của mọi người và nhất là của cô gái.
+ Cách nói giảm dần: voi→trâu→bò→chuột.
+ Chi tiết hài hước “Miễn là có thú bốn…”
Tiếng cười bật lên, vì:
+ Lễ vật của anh “sang trọng”, khác thường quá, cũng là loài “thú bốn chân” ngang tầm với voi, trâu, bò.
+ Chàng trai khéo nói quá.
+ Gia cảnh thực của chàng trai: rất nghèo.
+ Tính cách của chàng trai: Cẩn thận, chu đáo, khéo léo, dí dỏm, ưa trào lộng.
* Lời cô gái:
– Lời đánh giá về lễ vật dẫn cưới của chàng trai:
Sang: có giá trị cao.
:đàng hoàng, lịch sự.
Tấm lòng bao dung của cô gái cùng chung cảnh ngộ với chàng trai.
– Cách nói về lễ vật thách cưới:
+ Cách nói đối lập:
Người ta >< Nhà em
Thách lợn, gà → Thách một nhà khoai lang.
“Một nhà khoai lang” có 2 cách hiểu:
+ số lượng bằng một nhà.
+ cả nhà, cả họ nhà khoai lang (củ to, củ nhỏ, củ rím, củ hà,…)
– Lễ vật “một nhà khoai lang” vừa khá lớn lại vừa thật bình dị mà khác thường của lễ vật thách cưới của gia đình cô gái làm bật lên tiếng cười.
– Lời giải thích của cô gái về việc sử dụng lễ vật thách cưới:
Củ to- mời làng.
Củ nhỏ- họ hàng ăn chơi.
Củ mẻ- con trẻ ăn chơi.
Củ rím, củ hà- lợn, gà ăn.
Sự đảm đang, tháo vát, tình cảm đậm đà của cô gái nghèo với họ hàng, gia đình, làng xóm.
Cuộc sống sinh hoạt hoà thuận, nghĩa tình trong nhà ngoài xóm của nhân dân lao động.
+ Cách nói giảm dần: Củ to → củ nhỏ → củ mẻ → củ rím → củ hà.
Tính chất trào lộng, đùa vui.
Là lời thách cưới khác thường, vô tư, thanh thản, tràn đầy lòng lạc quan yêu đời.
Tiểu kết
– Nghệ thuật: Lối nói khoa trương, phóng đại; lối nói giảm dần; lối nói đối lập.
– Bài ca dao trên là tiếng cười tự trào về cảnh nghèo của người lao động. Đằng sau tiếng cười là thái độ phê phán hủ tục thách cưới nặng nề ngày xưa.
– Ý nghĩa:
+ Thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, vượt lên cuộc sống khốn khó.
+ Triết lí nhân sinh đẹp: Đặt tình nghĩa cao hơn của cải.
2. Bài 2
– Tiếng cười trào lộng: tiếng cười phê phán.
– Đối tượng: những kẻ làm trai nhưng yếu đuối.
– Mở đầu bằng môtíp quen thuộc: “Làm trai cho đáng nên trai”.
– Đối lập:
Câu 1 >< Câu 2
Lẽ thường >< Sự thật về anh chàng
– Lẽ thường: Làm trai phải có sức trai khoẻ mạnh, giữ vai trò trụ cột trong gia đình, là chỗ dựa vững chắc cho vợ con, phải là “Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên”, “Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng”,…
– Hình ảnh phóng đại, đối lập:
Khom lưng chống gối >< Gánh 2 hạt vừng
Tư thế rất cố gắng >< Công việc quá nhỏ bé, cố gắng hết sức
→Tiếng cười bật lên giòn giã.
Tiểu kết: Bài ca dao châm biếm, phê phán những anh chàng yếu đuối, không đáng sức trai, vô tích sự.
3. Bài 3
– Đối tượng châm biếm là ông chồng vô tích sự, lười nhác, không có chí lớn.
– Bằng việc sử dụng biện pháp tương phản (giữa “chồng người” với “chồng em“), biện pháp đối lập “đi ngược”, “về xuôi”và cũng có cả biện pháp nói quá (có ông chồng nào hèn yếu đến nỗi chỉ biết “ngồi bếp” để “sờ đuôi con mèo”. Tác giả dân gian đã tóm đúng thần thái nhân vật trong một chi tiết thật đắt, có giá trị khái quát cao cho một loại đàn ông èo uột, lười nhác, ăn bám vợ.
4. Bài 4
– Biện pháp nói quá khi miêu tả người vợ: “mười tám gánh lông”, “râu rồng”, “ngáy o o”.
– Những thói quen vô duyên như: ngủ ngáy, hay ăn quà, luộm thuộm nhưng được chuyển hóa nhẹ nhàng với cách nói dí dỏm, vui vẻ thành “râu rồng, ngáy cho vui, đỡ cơm,hoa thơm”.
– Bài ca dao chế giễu loại phụ nữ đỏng đảnh, vô duyên. Tiếng cười của bài ca dao lại một lần nữa chủ yếu được xây dựng dựa trên nghệ thuật phóng đại và những liên tưởng phong phú của tác giả dân gian. Đằng sau tiếng cười hài hước, giải trí, mua vui, tác giả dân gian vẫn muốn thể hiện một lời châm biếm nhẹ nhàng tới loại phụ nữ vô duyên đỏng đảnh – một loại người không phải không có trong xã hội.
IV. MỘT SỐ CÂU HỎI ĐỌC HIỂU VÀ BÀI PHÂN TÍCH
Câu hỏi:Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
“Làm trai cho đáng sức trai,
Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng“
Câu 1. Xác định thể loại của văn bản trên?
Câu 2. Tìm các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài ca dao trên? Nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật đó?
Câu 3. Em rút ra bài học gì từ văn bản trên?
Trả lời:
Câu 1. Thể loại của văn bản trên là ca dao hài hước.
Câu 2. Biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài ca dao trên là đối lập, tương phản: đối lập giữa sức trai và hình ảnh khom lưng, chống gối gánh hai hạt vừng. Tác dụng làm nổi bật hình ảnh người con trai hèn kém, không có sức vóc, vô dụng, bất tài.
Câu 3.
Gợi ý:
– Làm người con trai cần có sức khỏe tốt, cần biết rèn luyện thể chất.
– Cần biết gánh vác những việc lớn lao, giúp bản thân, gia đình, đất nước.
Bài phân tích
Phân tích một số bài ca dao hài hước.
Ca dao hài hước, châm biếm là một bộ phận không thể không thể thiếu của kho tàng ca dao Việt Nam. Những bài ca dao hài hước là tiếng cười mua vui, giải trí thỏa mãn về nhu cầu giải trí tinh thần của người lao động xưa. Bài ca dao còn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân lao động, họ là những người lạc quan, yêu đời.
Bài ca dao thứ nhất là tiếng cười tự trào, mang ý vị hài hước, vui vẻ của người lao động trong cảnh nghèo. Lời đối đáp giữa chàng trai và cô gái trong việc thách cưới vô cùng lạ lùng, thú vị. Bài ca dao có lối kết cấu đối đáp, lượt lời đầu tiên là của chàng trai, bằng lối nói khoa trương, phóng đại, anh chàng đã nói về những lễ vật của mình. Nhưng cách nói lại sử dụng biện pháp đối lập: tự nêu ra nhưng chính anh chàng lại tự phủ định:
“Cưới chàng anh toan dẫn voi
Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn
Dẫn trâu, sợ họ máu hàn
Dẫn bò sợ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân.
Dẫn con chuột béo mười dân, mời làng.”
Lí lẽ anh chàng đưa ra vô cùng hài hước: Dẫn voi thì sợ quốc cấm; Dẫn trâu thì sợ họ máu hàn; Dẫn bò thì sợ họ co gân. Và cuối cùng kết luận dùng con chuột béo mời dân mời làng, hi vọng con chuột béo ấy sẽ đủ để mời dân mời làng. Đáp lại lời chàng trai cô gái cũng hết sức ý nhị, dỉ dỏm, cô thách cưới một nhà khoai lang. Số khoai lang được phân phát theo trình tự hết sức hợp lí: cho dân, cho làng, cho trẻ con và cho cả những con vật trong nhà. Những lời đối đáp ấy đã cho thấy sự chu đáo, biết lo toan, đồng thời cũng rất hồn nhiên, yêu đời của cô gái. Bài ca dao thể hiện niềm lạc quan, yêu đời, ham sống của người lao động trong cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Đồng thời thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của những chàng trai, cô gái xưa: Chàng trai mang trong mình sự hài hước, lạc quan, vui vẻ, tình cảm chân thành, còn cô gái là sự bằng lòng, vui vẻ, đảm đang, tháo vát, tình cảm và sự chu đáo dành cho làng xóm, họ hàng xung quanh.
Bài ca dao số hai, số ba đều tập trung phê phán những người đàn ông yếu đuối, ươn hèn, vô tích sự. Câu thơ mở đầu bằng mô tip quen thuộc làm trai, nhưng có những điểm khác biệt:
“Làm trai cho đáng sức trai
Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.”
Câu thơ đầu cho thấy chí làm trai oai hùng đầy kiêu hãnh, như đang gánh vác việc to lớn, việc giang sơn xã tắc. Nhưng câu thơ thứ hai đã cho thấy rõ công việc anh ta gánh vác gánh hai hạt vừng. Bài ca dao sử dụng biện pháp khoa trương, câu thơ đầu nâng cao rồi đột ngột hạ thấp, để phê phán chàng trai yếu đuối về thể xác, hèn yếu về tinh thần. Quả thật đáng lên án, phê phán.
Bài ca dao sau:
“Chồng người đi ngược về xuôi,
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.”
Bài ca dao trên đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa chồng người và chồng em, đồng thời gợi lên sự đối lập về không gian: đi ngược về xuôi còn chồng em không gian hoạt động chỉ ở nơi xó bếp, không gian bếp núc vốn của phụ nữ. Để hoàn chỉnh bức tranh về anh chồng nhu nhược, yếu đuối là hành động sờ đuôi con mèo. Qua đó tiếng cười bật lên, hướng vào những ông chồng vô tích sự, lười nhác.
Bài ca dao cuối cùng phê phán những người đàn bà lười biếng, cẩu thả, vô duyên. Trong truyện cười dân gian, các tác giả dân gian thường lấy đối tượng là nam để châm biếm, phê phán như tham lam, khoác lác, lười biếng nhưng người con gái lại rất ít khi trở thành đối tượng để châm biếm, đả kích. Ca dao đã hoàn thiện sự khuyết thiếu đó. Hình ảnh người phụ nữ ẩu đoảng, lười biếng hiện lên vô cùng rõ nét:
“Lỗ mũi mười tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho…
Trên đầu những rác cùng rơm
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.”
Bài ca dao chế giễu những người đàn bà đỏng đảnh, vô duyên: Hình dáng thô kệch, xấu xí, có nhiều thói quen xấu: Luộm thuộm, bẩn thỉu. Tiếng cười cất lên phê phán những người đàn bà đoảng vị đồng thời cũng phê phán những người chồng mù quáng, vì quá yêu vợ mà không phân biệt tốt – xấu, thực – hư.
Ba bài ca dao, tiếng cười ở đây tập trung phê phán cái xấu, cái chưa hoàn thiện trong nội bộ nhân dân. Tiếng cười có ý nghĩa giải trí, đồng thời cũng là cuộc đấu tranh của nhân dân với cái xấu, cái lạc hậu, bảo thủ trong xã hội.
Ca dao hài hước châm biến thành công đều nhờ việc xây dựng tình huống gây cười, hàm chứa những mâu thuẫn gây cười. Biện pháp khoa trương, phóng đại được sử dụng thành công ở cả bốn bài ca dao. Ngoài ra biện pháp nâng cao ở phía trước hạ thấp ở phía sau cũng phát huy tác dụng để phê phán những cái xấu, cái tiêu cực trong xã hội.
Bài ca dao là lời châm biếm hài hước, nhẹ nhàng những thói hư, tật xấu trong xã hội. Đồng thời bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân lao động xưa: sự lạc quan, yêu đời của họ trong cảnh đời còn nhiều khó khăn, vất vả.
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 10