Văn mẫu lớp 10

Sơ đồ tư duy bài Cảnh ngày hè dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Cảnh ngày hè dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Cảnh ngày hè dễ nhớ, ngắn gọn

Nhằm mục đích giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức, nội dung các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 10, chúng tôi biên soạn bài viết Sơ đồ tư duy bài Cảnh ngày hè dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ các nội dung như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, bố cục, dàn ý phân tích, bài văn mẫu phân tích, …. Hi vọng qua Sơ đồ tư duy bài Cảnh ngày hè sẽ giúp học sinh nắm được nội dung cơ bản của Sơ đồ tư duy bài Cảnh ngày hè.

Bạn đang xem bài: Sơ đồ tư duy bài Cảnh ngày hè dễ nhớ, ngắn gọn

A. Sơ đồ tư duy bài Cảnh ngày hè

Sơ đồ tư duy bài Cảnh ngày hè
Sơ đồ tư duy bài Cảnh ngày hè

B. Tìm hiểu bài Cảnh ngày hè

I. TÁC GIẢ

– Nguyễn Trãi (1380- 1442), là đại anh hùng dân tộc.

– Quê quán: Chí Linh, Hải Dương sau rời về Thường Tín, Hà Nội.

– Xuất thân: gia đình nhà nho có truyền thống yêu nước.

– Ông là nhà thơ, nhà văn kiệt xuất, là danh nhân văn hoá thế giới. Nguyễn Trãi đã có những đóng góp lớn cho sự nghiệp phát triển văn hoá, văn học dân tộc, một con người suốt đời lo cho dân cho nước.“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”,nhưng phải chịu nỗi oan khuất nhất trong lịch sử dân tộc.

II. TÁC PHẨM

1. Xuất xứ:Là bài số 43 thuộc mục Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình) có 62 bài,thuộc phần “Vô đề” trong “Quốc âm thi tập”

2. Thể loại: Thơ nôm Đường luật.

3. Bố cục:

+ Sáu câu đầu: Cảnh ngày hè.

+ Hai câu cuối: Tâm trạng nhân vật trữ tình.

4. Giá trị nội dung

Vẻ đẹp của bức tranh ngày hè, tâmhồn yêu thiên nhiên,yêu đời, yêu nhân dân, đất nước của Nguyễn Trãi.

5. Giá trị nghệ thuật

Nghệ thuật thơ Nôm Nguyễn Trãi: Bình dị, tự nhiên.

DÀN Ý PHÂN TÍCH

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi(đôi nét về tiểu sử, tài năng, con người, sáng tác chính,… ).

– Giới thiệu khái quát về tác phẩm “Cảnh ngày hè” (xuất xứ, giá trị nội dung, nghệ thuật).

II. Thân bài

1. Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bức tranh thiên nhiên và cuộc sống:(6 câu thơ đầu )

a. Câu 1: Hoàn cảnh, tư thế ung dung của nhà thơ

– Câu đầu là giới thiệu tâm thế của nhà thơ: rảnh rỗi, thư thái và ngắm cảnh. Đó là một ngày hiếm hoi của Nguyễn Trãi. Ông luôn là người thân nhàn nhưng tâm không nhàn: “Một phút thanh nhàn trong thuở ấy”với ông thật đáng quý.

b. Vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ:(câu 2,3,4)

– Bức tranh thiên nhiên được miêu tả bằng đường nét, màu sắc, hình khối cụ thể, sinh động và tràn đầy sức sống. Miêu tả ba loại cây với ba dáng vẻ khác nhau:

+ Cây hòe: màu sắc đặc trưng là màu xanh lục của lá, gợi sự tốt tươi; sức sống mãnh liệt qua động từ đùn đùn, tán rợp giương…

+ Cây lựu trước hiên nhà: màu đỏ đặc trưng của mùa hè; sức sống mãnh liệt qua động từ “phun”.

– So sánh với câu thơ “Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông” (Nguyễn Du):

+ Có sự phá vỡ tính quy phạm của thơ Đường về cách ngắt nhịp, tạo cảm xúc, làm nổi bật cá tính sáng tạo.

+ Sen hồng trong ao đã ngát hương thơm thể hiện qua từ tiễn.

Cách ngắt nhịp 3/4 không theo quy luật của thơ Đường gây sự chú ý, kéo thơ Đường gẫn gũi với cuộc sống.

  • Bức tranh cảnh vật thật sinh động, tràn đầy sức sống. Qua đó ta thấy được sự giao

cảm tinh tế của nhà thơ với cảnh vật.

c. Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bức tranh cuộc sống: (câu 5,6)

– Nguyễn Trãi đã đón nhận cảnh ngày hè bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác và sự liên tưởng hết sức tinh tế.

– Âm thanh của tiếng chợ cá làng chài hoà cùng âm thanh của tiếng ve “dắng dỏi” tạo thêm hơi ấm và sức sống cho bức tranh thiên nhiên, bức tranh cuộc sống. Phải chăng âm thanh của tiếng chợ cá “lao xao” cũng chính là âm thanh rộn rã của tiếng lòng Nguyễn Trãi trước cảnh “dân giàu đủ”?

Tiểu kết:

– Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống được miêu tả vào thời điểm cuối ngày – “tịch dương” nhưng không gợi cảm giác ảm đạm. Bởi ngày sắp tắt nhưng sự sống không ngừng lại. Thiên nhiên vẫn vận động với một nguồn sống dồi dào, mãnh liệt. Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống còn rộn rã những âm thanh tươi vui.

– Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống còn hết sức sinh động. Bởi nó có sự kết hợp hài hòa giữa đường nét, màu sắc và âm thanh, con người và cảnh vật.

Cả thiên nhiên và cuộc sống con người đều tràn đầy sức sống. Điều đó cho thấy một tâm hồn khao khát sống, yêu đời mãnh liệt và tinh tế, giàu chất nghệ sĩ của tác giả.

2. Khát vọng của nhà thơ

“Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

– Từ bức tranh thiên nhiên đầy sức sống, sinh động chúng ta thấy được một tình yêu thiên nhiên bao la của Nguyễn Trãi.

– Đó cũng là một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống. Cảnh thiên nhiên tươi đẹp có cội nguồn sâu xa từ tình yêu đời, yêu cuộc sống của Nguyễn Trãi. Hai câu thơ cuối thể hiện tấm lòng ưu ái với dân, với nước của nhà thơ.

– Ngu cầm – đàn của vua Ngu Thuấn, bậc minh quân gắn với khúc hát Nam Phong, mơ

ước cho nhân dân có cuộc sống giàu đủ.

– Câu 8: Sáu chữ dồn nén cảm xúc cả bài thơ-điểm kết tụ của hồn thơ Ức Trai không phải ở thiên nhiên tạo vật mà chính ở cuộc sống con người, ở nhân dân.

Khát vọng về cuộc sống thái bình, no ấm, hạnh phúc cho nhân dân (dân giàu đủ) và đó phải là cuộc sống thái bình, ấm no, hạnh phúc cho tất cả mọi người ở mọi nơi (khắp đòi phương).

– Lí tưởng “dân giàu đủ khắp đòi phương” của Nguyễn Trãi vẫn có ý nghĩa thẩm mĩ và nhân văn tới ngày hôm nay.

III. Kết bài

– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật.

+ Nội dung:Bức tranh thiên nhiên sinh động và đầy sức sống. Một thi nhân yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống; một bậc đại nhân khát khao một cuộc sống ấm no, đầy đủ cho nhân dân khắp mọi nơi.

+ Nghệ thuật: Sử dụng nhiều động từ có giá trị biểu cảm cao: đùn đùn, giương, phun…Cách tân về mặt thể thơ: câu 1 và 8 chỉ có 6 chữ.

IV. MỘT SỐ CÂU HỎI ĐỌC HIỂU VÀ BÀI PHÂN TÍCH

Câu hỏi:Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi từ 1 đến 4:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu t
ch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương.”

(Cảnh ngày hè,Trang 118, Ngữ văn 10, Tập I, NXBGD, 2006)

1/ Văn bản trên có mấy ý chính? Đó là những ý nào?

2/ Các từ đùn đùn, giương, phun, đỏ, tiễn, lao xao, dắng dỏiđạt hiệu quả nghệ thuật như thế nào trong việc miêu tả cảnh ngày hè?

3/ Câu thơ mở đầu và kết thúc văn bản có gì lạ so với số tiếng quy định trong thơ thất ngôn bát cú Đường luật? Câu thơ kết thúc bài thơ thể hiện tư tưởng gì của nhà thơ?

4/ Viết đoạn văn ngắn (5 đến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ bài họclấy dân làm gốc trong cuộc sống hôm nay từ văn bản trên.

Trả lời:

1/ Văn bản trên có 3 ý chính:

– Vẻ đẹp rực rỡ của bức tranh thiên nhiên.

– Vẻ đẹp thanh bình của bức tranh đời sống con người.

– Niềm khát khao cao đẹp của nhà thơ Nguyễn Trãi.

2/ Các từ đùn đùn, giương, phun, đỏ, tiễn, lao xao, dắng dỏiđạt hiệu quả nghệ thuật trong việc miêu tả cảnh ngày hè: Tác giả đã sử dụng các động từ, tính từ, từ láy giàu sức gợi hình tượng và cảm giác. Từ đùn đùn gợi tả sắc xanh thẫm của tán hoè lớp lớp, liên tiếp tuôn ra, giương rộng ra; từ giương diễn tả sức sống mãnh liệt của tán cây; từ phun gợi sự nổi bật, bắt mắt của màu đỏ hoa lựu, từ đỏ chỉ màu sắc tươi mới, đầy sức sống của hoa lựu; từ tiễn (ngát, nức) gợi tả sức lan toả của hương sen; từ lao xao, dắng dỏiđảo lên trướcchợ cá, cầm ve làm nổi bật âm sắc rộn ràng, râm ran rất riêng của mùa hè. Qua đó, nhà thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết, sự đồng cảm, chia sẻ với nỗi vất vả của người dân lao động nghèo.

3/ Câu thơ mở đầu và kết thúc văn bản lạ so với số tiếng quy định trong thơ thất ngôn bát cú Đường luật là đều dùng 6 tiếng (câu lục ngôn). Đó là sự sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Trãi khi Việt hoá thơ Đường.

Câu thơ kết thúc bài thơ“Dân giàu đủ khắp đòi phương” thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của nhà thơ Nguyễn Trãi.

4/ Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu:

– Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, cảm xúc chân thành.

– Nội dung: từ niềm khát khao dân giàu của Nguyễn Trãi, thí sinh suy nghĩ về bài học lấy dân làm gốc trong cuộc sống hôm nay. Cần làm rõ các ý: lấy dân làm gốclà gì? Tại sao phải lấy dân làm gốc? Ý nghĩa của việc lấy dân làm gốc? Bài học nhận thức và hành động?

Bài phân tích

Phân tích bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi.

Nguyễn Trãi là vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Tài năng kiệt xuất của ông không chỉ được khẳng định trong lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn được khẳng định qua sự nghiệp văn chương đồ sộ với những đóng góp lớn lao cho nền văn học nước nhà.

Lí tưởng mà Nguyễn Trãi ôm ấp là giúp vua làm cho đất nước thái bình, nhân dân thịnh vượng. Lí tưởng cao đẹp ấy là nguồn động viên mạnh mẽ khiến ông vượt qua mọi thử thách, gian nan trên đường đời. Lúc được nhà vua tin dùng cũng như khi thất sủng, nỗi niềm lo nước, thương dân luôn canh cánh trong lòng ông. Giông bão cuộc đời không thể dập tắt nổi ngọn lửa nhiệt tình trong tâm hồn người chí sĩ tài đức vẹn toàn ấy.

Bài thơ Cảnh ngày hè được sáng tác vào thời gian Nguyễn Trãi về nghỉ ở Côn Sơn. Ông tạm thời xa lánh chốn kinh đô tấp nập ngựa xe và chốn cửa quyền hiểm hóc để về với thiên nhiên trong trẻo, an lành nơi thôn dã, bầu bạn cùng dân cày cuốc, cùng mây nước, chim muông, hoa cỏ hữu tình. Trong những tháng ngày dài nhàn nhã “bất đắc dĩ ấy, nhà thơ có lúc thấy vui trước cảnh vật mùa hè tưng bừng sức sống và kín đáo gửi vào những vần thơ tả cảnh một thoáng khát vọng mong cho dân giàu, nước mạnh. Bài thơ phản ánh tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước.

Bài thơ mở đầu bằng câu lục ngôn nêu rõ hoàn cảnh của nhà thơ lúc đó:

Rồi / hóng mát / thuở ngày trường.

Lẽ ra câu thơ phải bảy chữ mới đúng là thể thất ngôn bát cú quen thuộc, song Nguyễn Trãi đã lược đi một chữ. Đây cũng là một cách tân táo bạo, mới mẻ trong thơ Nôm nước ta thuở ấy. Nhịp thơ 1/2/3, chậm rãi phản ánh tư thế ung dung, tự tại vốn có của tác giả.

Chữ rồi tách riêng thành một nhịp thể hiện cảm nhận của tác giả về tình cảnh của mình. Rỗi là từ cổ có nghĩa là nhàn nhã, không vướng bận điều gì. Cuộc đời Nguyễn Trãi thường không mấy lúc được thảnh thơi. Đây là lúc ông được sống ung dung, được thỏa ước nguyện hòa mình với thiên nhiên mà ông hằng yêu mến.

Không có việc gì quan trọng, cần kíp để làm cả, chỉ có mỗi “việc” là hóng mát. Ngày trường là ngày dài. Đây là cảm giác tâm lí về thời gian của người đang sống trong cảnh nhàn rỗi, thấy ngày dường như dài ra. Với con người ưa suy nghĩ, hành động như Nguyễn Trãi thì cảm giác ấy càng rõ hơn bao giờ hết. Giữa lúc xây dựng lại non sông sau chiến tranh, việc dân việc nước bời bời mà ông bị bắt buộc phải hóng mát hết ngày này qua ngày khác thì quả là trớ trêu. Bởi vậy, ông rơi vào cảnh thân nhàn mà tâm bất nhàn. Đằng sau câu thơ trên dường như thấp thoáng một nụ cười chua chát của Nguyễn Trãi trước tình cảnh trớ trêu ấy.

Chỉ có vẻ đẹp hồn nhiên, vô tư của cảnh vật mới có thể tạm xua đi những áng mây buồn vướng vít trong tâm hồn ông. Ông mở lòng đón nhận thiên nhiên và thấy vui trước cảnh:

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

Chỉ vài nét bút phác họa mà bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe, hài hoà. Cây trước sân, cây trong ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa hương. Cây hòe với tán lá xanh um xoè rộng, trong khi cây lựu nở đầy những bông hoa đỏ thắm và sen hồng đã nức mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng lên cành, lên lá, lên hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào hồn thi sĩ.

Ba câu thơ nổi đến ba loại cây: hòe, lựu, sen nhưng chẳng lẽ tác giả chỉ nói đến cây? Dường như có cả con người lồng trong đó, hết sức kín đáo. Các từ đùn đùn, (dồn dập tuôn ra) giương (toả rộng ra), phun, tiễn (ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chất chứa bên trong sự vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, ấn tượng. Câu thơ thứ hai ngắt nhịp 4/3. Hai câu thơ tiếp theo đổi nhịp thành 3/4, tạo thêm cho cảnh vật vẻ sinh động, rộn ràng. Giữa cảnh với người có nét tương đồng nào chăng? Đời người anh hùng cũng đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết sương nên sức sống vẫn chảy mạnh trong huyết quản. Thức đỏ (màu đỏ) của hoa lựu phải chăng là thức đỏ của tấm lòng sắt son với dân với nước! Mùi hương thơm ngát của sen có phải là lí tưởng chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu vì đất nước thanh bình, vì nhân dân hạnh phúc! Rõ ràng ở đây, cảnh và người có những nét tương đồng và đều đẹp đẽ, hài hòa.

Ở bốn câu thơ trên, nhà thơ mới nhắc đến màu sắc, hương thơm, cây cỏ; ở hai câu thơ tiếp theo còn có thêm mùi vị, âm thanh, hình ảnh con người và cảnh vật:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

Từ tượng thanh “lao xao” đặt trước hình ảnh chợ cá làm nổi bật không khí nhộn nhịp của làng ngư phủ. Lao xao tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Tất cả đều là hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Những âm thanh lao xao ấy hòa vào tiếng ve kêu dắng dỏi bất thần nổi lên trong chiều tà, báo hiệu chấm dứt một ngày hè nơi thôn dã. Tiếng ve lúc chiều tà thường gợi buồn, nhưng với nhà thơ lúc này, nó trở thành tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên.

Cỏ cây, hoa lá, con người đầy sức sống khơi dậy trong lòng nhà thơ cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng và những suy nghĩ chân thành, tâm huyết nhất. Đó là tình yêu cuộc sống, yêu con người và trách nhiệm đối với dân với nước. Nguyễn Trãi luôn tâm niệm lấy dân làm gốc (dân vi bản, dân vi quý) cho nên trước thiên nhiên tươi xanh, trước những con người cần cù, lam lũ, lòng ông lại dấy lên khát vọng mãnh liệt:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Ông ước gì lúc này có được trong tay cây đàn của vua Thuấn, đàn một tiếng để nổi lên niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ. Ẩn giấu đằng sau lời ước mong ấy là sự trách móc nhẹ nhàng mà nghiêm khắc bọn quyền thần tham bạo ở triều đình đương thời không còn nghĩ đến dân, đến nước. Theo ông, với cảnh nước non tươi đẹp cùng nhân dân chất phác, siêng năng, cuộc sống lẽ ra phải được trở lại ấm no, hạnh phúc từ lâu.

Vậy là dẫu hòa hợp đến hết mình với thiên nhiên, Nguyễn Trãi vẫn không nguôi nỗi niềm dân nước, ông tìm thấy ở thiên nhiên cỏ hoa xinh tươi kia một nguồn thi hứng, nguồn động viên, an ủi và khích lệ đáng quý đối với bản thân. Điều đó góp phần tạo nên cốt cách của Nguyễn Trãi, bậc trượng phu – chính nhân quân tử – hiên ngang như cây tùng, cây bách trước giông bão cuộc đời.

“Cảnh ngày hè” là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trãi về hình thức thơ. Câu thất ngôn xen lục ngôn, các vế đối rất chỉnh, cách sử dụng từ láy rất tài tình. Để tăng sức biểu hiện của các tính từ và động từ, tác giả đem chúng đặt ở đầu câu. Đây là bài thơ tả cảnh ngày hè tràn đầy sức sống. Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh sắc đặc trưng của mùa hè, mà còn là “tức cảnh sinh tình”. Cảnh ở đây thể hiện niềm vui sống, háo hức, tươi tắn, trẻ trung của tâm hồn nhà thơ và niềm ao ước của Nguyễn Trãi về hạnh phúc cho dân chúng muôn phương.

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 10

Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Cách đây 40 năm về trước, mặc dù miền Bắc XHCN khi đó đang nặng hai vai gánh cả non sông vượt dặm dài, vừa là hậu phương lớn chi viện tích cực cho các chiến trường với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, vừa là tiền tuyến đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo vẫn không ngừng phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt và sự nghiệp tái thiết đất nước lâu dài sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu của công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch các vùng kinh tế mới,vùng chuyên canh, xây dựng các nông trường, Bộ Nông trường ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) đã có Quyết định số 115 QĐ/TC ngày 05 th áng 9 năm 1968 về việc mở Lớp công nhân đo dạc - tiền thân của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung ngày nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button