Văn mẫu lớp 8

Nỗi khổ đau của kiếp lầm than qua các tác phẩm văn học đầu thế kỉ XX

Nỗi khổ đau của kiếp lầm than qua các tác phẩm văn học đầu thế kỉ XX

Nỗi khổ đau của kiếp lầm thanpham

Đề bài: Một số tác phẩm văn học từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phản ánh đuợc nối khổ đau của những kiếp lầm than. Dựa vào những tác phẩm đã học và đọc thêm trong giai đoạn văn học này, em hãy làm rõ điều đó.

Bạn đang xem bài: Nỗi khổ đau của kiếp lầm than qua các tác phẩm văn học đầu thế kỉ XX

Dàn ý Nỗi khổ đau của kiếp lầm than qua các tác phẩm văn học đầu thế kỉ XX

1. Mở bài: Dẫn dắt và nêu được vấn đề nghị luận: Chị Dậu và Lão Hạc là những hình tượng tiêu biểu cho phẩm chất và số phận của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.

2. Thân bài:

a. Chị Dậu và Lão Hạc là những hình tượng tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước cách mạng:

*Chị Dậu:là một hình ảnh vừa gần gũi, vừa cao đẹp tượng trưng cho người phụ nữ nông thôn Việt Nam thời kì trước cách mạng:

– Là một người vợ giàu tình yêu thương (dẫn chứng).

– Là người phụ nữ cứng cỏi, dũng cảm bảo vệ chồng (dẫn chứng).

* Lão Hạc: tiêu biểu cho phẩm chất người nông dân:

– Là một lão nông chất phát, hiền lành, nhân hậu (dẫn chứng).

– Là một lão nông nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng (dẫn chứng).

b. Họ là những hình tượng tiêu biểu cho số phận đau khổ, bi thảm của người nông dân Việt Nam trước cách mạng:

* Chị Dậu:Số phận điêu đứng: nghèo khổ, bị bóc lột đến tận xương tủy, chồng ốm, có thể bị bắt, bị đánh…

* Lão Hạc:

– Số phận đau khổ, bi thảm: nhà nghèo, vợ mất sớm, con trai không cưới được vợ bỏ làng đi làm đồn điền cao su, lão thui thủi sống một mình cô đơn, làm bạn với cậu Vàng.

– Tai họa dồn dập đổ xuống cuộc đời lão, phải bán cậu vàng, sống trong đau khổ, cuối cùng lão chọn bả chó để tự tử – một cái chết vô cùng đau đớn và dữ dội.

c. Bức chân dung của chị Dậu và lão Hạc đã tô đậm giá trị hiện thực và nhân đạo của hai tác phẩm:

– Trước hết, bộc lộ cách nhìn về nông dân của hai tác giả. Cả hai nhà văn đều có sự đồng cảm, xót thương đối với bi kịch của người nông dân; phê phán xã hội bất công, tàn nhẫn. Chính xã hội ấy đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh bần cùng, bi kịch. Tuy vậy, mỗi nhà văn cũng có cách nhìn riêng: Ngô Tất Tố có thiên hướng nhìn người nông dân trên góc độ đấu tranh giai cấp còn Nam Cao chủ yếu đi sâu vào phản ánh sự thức tỉnh trong nhận thức về nhân cách một con người….

– Kết bài: Khẳng định vấn đề.

Nỗi khổ đau của kiếp lầm than qua các tác phẩm văn học đầu thế kỉ XX – mẫu 1

“Sưu cao thuế nặng”, “một cổ đôi tròng” là những nguyên nhân đã dẫn đến muôn vàn cảnh thương tâm cho nhân ta. Cho nên có ý kiến đã cho rằng: “Một số tác phẩm văn học tư đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phản ánh được nỗi khổ đau của những kiếp lầm than”. Thực vậy, có một số nhà văn đã gần gũi với nhân dân, thấu hiểu nỗi khổ của nhân dân nên đã phản ánh được những nỗi khổ đau của nhiều số phận khác nhau trong những tác phẩm giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Tác giả đầu tiên mà chúng ta không thể quên là Ngô Tất Tố với truyện Tắt đèn. Chế độ phong kiến với bọn địa chủ cường hào áp bức bóc lột nông dân đã là nguyên nhân bao nỗi thống khổ của người dân thấp cổ bé miệng. Khi thực dân Pháp ôn định xong chế độ bảo hộ, thì nhân dân ta lại rơi vào cảnh một cổ hai tròng. Thực vậy, chỉ vì suất sưu, thứ thuế đánh vào đầu người mà cả gia đình chị Dậu tan nát. Anh Dậu ốm sắp chết vẫn bị đánh đập tàn nhẫn, đứa con mới bảy tuổi đã bị bán đi, thân phận con người không bằng một con chó, chị Dậu phải bỏ con nhỏ đang khát sữa để đi ở cho nhà giàu. Bọn tay sai đến nhà chị Dậu bất cứ lúc nào. Lần trước, hai tên cai lệ và người nhà lí trưởng đã xông đến quát tháo, đấm đá rồi trói anh Dậu giải ra đình, giữa lúc anh đang ốm nặng… Lần này, tai họa xảy đến quá đột ngột. Chị vừa mới rón rén bưng bát cháo đếncho chồng và đang lặng lẽ hồi hộp chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không,còn anh Dậu thì vừa mới run rẩy cất bát cháo chưa kịp húp, hai tên tay sai đã sầm sập tiến vào, trong tay đầy những roi song, tay thước và dây thừng. Chúng là hiện thân của tai họa, hiện thân của sự khủng bố, đàn áp trong cái trật tự xã hội tàn bạo. Mở miệng, hắn chỉ thét, quát, hầm hè, tức là “ngôn ngữ” của loài thú dữ chứ đâu phải tiếng nói của con người! Và hắn cũng có nghe gì người khác nói đâu, nên mới không cho lọt vào tai bất cứ một lời nào của chị Dậu. Cuối cùng, khi chị Dậu hoảng sự quá, van xin hắn “Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!” thì hắn đã đáp lại bằng ngôn ngữ riêng của hắn, tàn ác và đểu giả: “Tha này! Tha này! Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu”.

Thật là một tính cách tàn bạo bất nhân. Trong Tắt đèn, tuyến nhân vật phản diện khá đông. Các loại người thống trị ở nông thôn hiện ra gần đủ mặt. Trước hết là vợ chồng lão địa chủ trọc phú keo kiệt độc ác mà Nguyễn Tuân gọi là “sinh vật Nghị Quế Chồng” và “sinh vật Nghị Quế vợ”. Kế đó là một lũ lí dịch làng Đông Xá với đủ cả lí trưởng, phó lí, chánh hội, lí cụ… hống hách, thô lỗ, tham ăn, tục uống, nốc rượu và cãi chửi nhau về ăn chia tiền thuế lạm thu rồi nôn thốc nôn tháo ở đình làng…, còn các quan phụ mẫu như: quan phủ Tư Ân có bộ râu mới lạ làm sao và cái mặt phèn phẹt như sắp sửa rơi xuống sân đình đánh huỵch, quan trên công đường và quan trong tư thất, quan ông và quan bà, lại còn cả quan cụ dê già trên tỉnh và quan cố, bố quan cụ, uống sữa người cho bổ… Trong cái đám đông ấy, cai lệ chỉ là một nhân vật “chạy cờ”,một gã tay sai mạt hạng, vô danh. Nhưng bộ mặt hung dữ, đểu cáng của hắn vẫn có một giá trị tiêu biểu cho cái tàn ác của chế độ tàn bạo ấy.

Bên cạnh hình ảnh điển hình của chị Dậu, hình ảnh cái Tí ăn cơm thừa của chó cũng làấn tượng không phai trong lòng người đọc. Cái Tí vừa là nạn nhân của sưu thuế, vừa bị bà Nghị chà đạp lên nhân phẩm, chà đạp lên quyên trẻ em của một đứa bé mới bảy tuổi đầu!

Đắng cay chồng thêm cay đắng, bao lần vì bảo vệ chồng hay vì giữ gìn phẩm hạnh mà chị phải lâm vào cảnh nguy nan, như một bầu trời tối như mực, tối như cái tiền đồ của chị”.

Hai cảnh đời trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao là hai kiếp sống cơ cực của những người nông dân nghèo, không ruộng đất. Con trai lão Hạc là nạn nhân của hủ tục thách cưới nặng nề. Khi người yêu đã đi lấy chồng giàu có, anh ta sinh phẫn chí, ra tỉnh đến sở mộ phu, kí giấy đi làm đồn điền cao su, chấp nhận cuộc đời tha hương cầu thực. Từ nạn nhân của nghèo đói và hủ tục, con trai lão Hạc trở thành nạn nhân của thực dân Pháp trong các đồn điền cao su. Anh ra đi, để lại người cha côi cút, nghèo nàn và héo hon vì nhớ thương con, lão Hạc chỉ còn cách chọn cái chết mới giữ được cho con một mảnh vườn nhỏ. Còn lão Hạc thì tự chọn con đường âm thầm mà đớn đau nhất là ăn bả chó để từ giã cõi đời trong sự hi sinh lương thiện: “Lão vật vã trên giường,đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra. Khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên…:Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết”!

Nói đến cảnh đời lầm than trước Cách mạng tháng Tám, ta làm sao quên được hình ảnh-mẹ Nuôi mà của cải tiền bạc của chị đã bị trộm vét sạch! Thế mà khốn nạ thay cho chị, để được vào cửa quan, chị đã mất toi hai hào cho thằng xỏ lá là cậu lệ khi vào cửa. Đến lúc gặp quan vội vàng, lóng cóng lo, quan gắt nên năm đồng hào xổ ra, loẻng xoẻng rơi tiệt cả xuống gạch. Cảnh nhặt tiền rơi của mẹ Nuôi thật thương tâm! Tiền của chị đánh rơi ngay trong nhà quan chỉ có chị và quan, chị lại tìm để biếu quan thế mà lạ thay và như cách nói của Nguyễn Công Hoan khôn nạn thay cho mẹ Nuôi, cái đồng hào đôi cuối cùng ấy đã biến đi đâu chóng thế được!

Nhà văn đi sâu vào tâm trạng nhân vật để ta cảm thông với tình cảnh khốn khổ đáng thương của mẹ Nuôi và qua đó tố cáo hai bộ mặt của một “quan lớn”. Bề ngoài là một quan lớn im lặng dửng dưng trước sự lúng túng của mẹ Nuôi, bên trong, quan đang đợi lúc mẹ Nuôi đi khuất mới dịch chiếc giầy ra một nhặt đồng hào đôi sáng loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở đế giầy bám vào, rồi bỏ tọt vào túi. Đó là bộ mặt của tên trộm mang danh một ông quan lớn! Thương thay mẹ Nuôi, người dân khốn khổ, nạn nhân của một đám trộm từ hợp pháp đến bất hợp pháp.

Còn nhiều nữa những kiếp lầm than, những đứa trẻ con của những bà mẹ khốn cùng. Thằng Cúc, Thằng Xuân, con Tí, con Túc và trong Gió lạnh đầu mùa, vẫn những bộ quần áo nâu bạc đã rách và nhiều chỗ và qua những chỗ áo rách da thịt thâm đi, mỗi cơn gió đến chúng nó lại run lên, hai hàm răng đập vào nhau. Cái Hiên rất nghèo, chỉ có nghề đi mò cua, bắt ốc. Những đứa trẻ như bé Hồng đã so sánh hình ảnh cùa mẹ mình như một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người khách bộ hành ngã gục giữa sa mạc! Nỗi khắc khoải chờ mong mẹ của chú bé thật tha thiết. Nỗi khổ tâm của chú bé Hồng, còn sâu hơn nữa, chú bé luôn bị giày vò vì mẹ đi xa, phải sống nhờ họ hàng, tủi cục, bị hắt hủi, luôn luôn khát khao một chút hơi ấm tình mẹ mà không được ( Những ngày thơ ấu – Nguyên Hồng).

Qua những tác phẩm tiêu biểu trên, ta thấy tấm lòng và tài năng của tác giả đã phản ánh nỗi khổ đau của những kiếp sống lầm than trong xã hội nước ta trước Cách mạng tháng Tám. Đọc những tác phẩm đó, chúng ta thấy xúc động sâu sắc. Bao con người, bấy nhiêu số phận cứ hiện ra trước mắt và in đậm trong tâm những xót xa, ngậm ngùi. Nhìn ra xã hội hiện tại, ta vừa vui mừng vì đất nước thoát cảnh đói nghèo lầm than, vừa tiếc cho những thanh niên không biết hưởng tự do hạnh phúc, để xây dựng tương lai, mà họ đang sa vào cảnh ăn chơi trụy lạc, gây bao tội lỗi trên đời.

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 8

Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Cách đây 40 năm về trước, mặc dù miền Bắc XHCN khi đó đang nặng hai vai gánh cả non sông vượt dặm dài, vừa là hậu phương lớn chi viện tích cực cho các chiến trường với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, vừa là tiền tuyến đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo vẫn không ngừng phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt và sự nghiệp tái thiết đất nước lâu dài sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu của công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch các vùng kinh tế mới,vùng chuyên canh, xây dựng các nông trường, Bộ Nông trường ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) đã có Quyết định số 115 QĐ/TC ngày 05 th áng 9 năm 1968 về việc mở Lớp công nhân đo dạc - tiền thân của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung ngày nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button