Văn mẫu lớp 9

Phân tích bài thơ Ngụ hứng ở quán Trung Tân

Phân tích bài thơ Ngụ hứng ở quán Trung Tân

Đề bài: Phân tích bài thơ “Ngụ hứng ở quán Trung Tân” của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bạn đang xem bài: Phân tích bài thơ Ngụ hứng ở quán Trung Tân

Bài văn mẫu

Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, học giỏi, đỗ Trạng Nguyên. Ông có câu thơ “Văn khôi tam thượng tiểu tài sơ” nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường. Làm quan dười triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoann (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ, …Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, ẩn chứa triết lý, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu thơ viết thế thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong “Bạch Vân quốc ngữ thi tập” và trên 1000 bài thơ chữ Hán trong “Bạch Vân Am thi tập”.

Năm Nhân Dầm (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoái quan về sống giữa xóm làng, quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão lập quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong bài “Bài bia ở quán Trung Tân”, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

Có người hỏi ta rằng: “Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?” Ta trả lời rằng: “Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đậu là bến mê vậy” …

Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề “Trung Tân ngu hứng”. Bài thơ thứ nhất này gồm hai tư câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc-thực-sắc..) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

Hai câu thơ đầu nói lên vị trí của quán Trung Tân:

"Sông ngòi vòng tây bắc
Làng xóm bọc tây nam"

Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong “Bài bia ở quán Trung Tân” , tác giả cho biết rất cụ thể:”bến Trung Tân, trông sang phía đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía tây nhìn Tây Kinh, bên nam trông sang Ngư Khê thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu, một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này”.

Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ “xe ngựa bụi không đến” mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, tự tại, dung hòa với thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ … lòng càng thêm “tiêu dao, khoan khoái”. Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:

"Hoa, trúc tay tự giồng
Gậy, dép bên mùi hoa
Chén, cốc ánh sáng hồng
Rửa nghiên, cá nuốt mực
Pha trà, chim lánh lót
Ngâm thơ thừa tiêu dao
Uống rượu thêm khoan khoái"

Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có được như Trạng Trình?

"Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín
Sách được câu thần dạ những ngoong".
                        (Bài 111)
"Trà sen, sáng đãi người đưa khát
Rượu thánh hôm mời khách uống say".
                        (Bài 140)
"Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép
Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền"
               ("Ngụ ý" - thơ dịch)

Giọng thơ pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về “vụng” và “xảo”. Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?

"Người xảo thì ta vụng
Ấy vụng thế mà hay!
Ta vụng, người thì xảo
Ấy xảo thế mà gay!"

Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về hai laoị người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:

"Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chỗ lao xao..."

Nơi vắng vẻ là nơi sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành dật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đánh trọng, có kẻ đáng khinh!

Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần , nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện danh lợi ở đời với tâm thế kẻ sĩ:

"Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao!
Đám phồn hoa chót bước chân vào
Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết"
           ("Thoát vòng danh lợi")

Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lý, nhân sinh: “Đường đời rất gập ghềnh …Lòng người rất hiểm ác”. Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:

"Quân tử biết răn mình,
Chí thiện làm mẫu mực".

“Chí thiện” là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở sự đời. Biết sống đẹp và hương thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ca ngợi là Ông thầy của cả một thời đại.

Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vẫn còn bức đại tự sơn son thiếp vàng với bốn chữ “Như nhật trung thiên” – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên:”Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng”, phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư”. Đó cũng là chí thiện vậy. bài học về “chí thiện” vẫn nhiều điều mới mẻ với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sang muôn đời ngợi ca.

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 9

Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Cách đây 40 năm về trước, mặc dù miền Bắc XHCN khi đó đang nặng hai vai gánh cả non sông vượt dặm dài, vừa là hậu phương lớn chi viện tích cực cho các chiến trường với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, vừa là tiền tuyến đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo vẫn không ngừng phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt và sự nghiệp tái thiết đất nước lâu dài sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu của công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch các vùng kinh tế mới,vùng chuyên canh, xây dựng các nông trường, Bộ Nông trường ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) đã có Quyết định số 115 QĐ/TC ngày 05 th áng 9 năm 1968 về việc mở Lớp công nhân đo dạc - tiền thân của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung ngày nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button