Văn mẫu lớp 12

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành (dàn ý – 10 mẫu)

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành (dàn ý – 10 mẫu)

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành (dàn ý – 10 mẫu)

Bài văn Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành gồm dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 5 bài văn phân tích mẫu hay nhất, ngắn gọn được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 12. Hi vọng với
5 bài phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành này các bạn sẽ yêu thích và viết văn hay hơn.

Đề bài: Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.

Bạn đang xem bài: Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành (dàn ý – 10 mẫu)

Bài giảng: Rừng Xà Nu – Cô Vũ Phương Thảo (Giáo viên cmm.edu.vn)

Dàn ý Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Trung Thành (tiểu sử, các tác phẩm chính, đặc điểm sáng tác…)

– Giới thiệu khái quát tác phẩm Rừng xà nu (hoàn cảnh ra đời, tóm tắt ngắn gọn giá trị nội dung và nghệ thuật)

2. Thân bài

a) Luận điểm 1:Hình tượng rừng xà nu

– Rừng xà nu là hình tượng xuất hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm

– Rừng xà nu có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó sâu sắc với mảnh đất Tây Nguyên:

+ Có trong mối quan hệ hằng ngày: những bếp lửa đốt bằng cây xà nu, lửa mười đầu ngón tay Tnú tẩm bằng nhựa cây xà nu, khói xà nu làm thành bảng đen cho Tnú và Mai học chữ, dân làng Xô Man sống cùng cây xà nu, hẹn hò nhau dưới bóng cây xà nu và thậm chí chết họ cũng yên nghỉ bên cạnh cây xà nu.

+ Xuất hiện cả trong những sự kiện trọng đại: cụ Mết kể chuyện cho dân làng nghe, ngọn lửa cây xà nu chiếu sáng cho cả dân làng mài giáo đánh giặc,…

+ Ăn sâu vào suy nghĩ, tiềm thức của người dân Xô Man

=> Mối quan hệ rất đặc biệt, gắn bó khăng khít và trở thành một phần máu thịt của dân làng Xô Man

– Rừng xà nu như một sinh thể, chịu sự tàn phá dữ dội của chiến tranh: cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương, có những cây bị chặt đứt đổ ào ào như trận bão, vết thương không lành được loét mãi ra năm mười hôm thì cây chết,…

– Cây xà nu có sức sống mãnh liệt, sinh sôi, nảy nở rất nhanh và rất khỏe: “cạnh cây xà nu mới gục ngã đã có 4,5 cây con mọc lên”, “cây mẹ ngã đã có cây con mọc lên”, “nó vẫn sống đấy (…) Đố nó giết hết rừng xà nu này”

=> Hình ảnh biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ và sự nối tiếp của các thế hệ con người Tây Nguyên

– Loại cây ham ánh sáng mặt trời: “Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời tới thế (…) thơm mỡ màng”. Nó cũng giống như những con người Tây Nguyên luôn khao khát tự do và có một sức sống mãnh liệt

b) Luận điểm 2:Các thế hệ anh hùng Tây Nguyên

* Cụ Mết

– Ngoại hình: râu dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má láng bóng, ngực căng như một cây xà nu lớn

– Tính cách: cụ Mết như một cây xà nu cổ thụ, luôn yêu thương và hết mực che chở cho dân làng. Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên – quả quyết, gan dạ, sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng.

* Tnú

– Tnú xuất hiện qua lời kể của cụ Mết

– Tnú là một người chiến sĩ:

+ Gan góc, gan lì, thông minh, sáng dạ: khi còn nhỏ cùng Mai vào rừng tiếp tế cho anh Quyết

+ Dũng cảm và tuyệt đối trung thành với cách mạng: bị lửa đốt mười đầu ngón tay Tnú không thèm kêu van, không khai ra, bị giặc bắt, tra tấn, lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của kẻ thù nhưng anh vẫn gan góc, trung thành

+ Tính kỉ luật cao: cấp trên cho về một đêm thì Tnú về một đêm, sáng hôm sau lại đi ngay

– Tnú là người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ, con: khi chứng kiến cảnh mẹ con Mai bị tra tấn “con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”, “Tnú nhảy xổ ra”

– Tnú là người con của buôn làng Xô Man, luôn gắn bó và đầy tình nghĩa với dân làng: xin về thăm làng một đêm, để nước suối của làng giội lên người

=> Tnú là người con ưu tú của núi rừng Tây Nguyên, là nòng cốt của cuộc kháng chiến, biết nén đau thương của cá nhân vì lợi ích của cả cộng đồng, dân tộc

* Nhân vật Dít và bé Heng

– Dít: Là người con gái gan dạ, dũng cảm, có sức chịu đựng phi thường, biết nén đau thương để nung nấu ý chí trả thù: đem gạo vào rừng cho dân làng, giặc bắn súng dọa vẫn không khai, chị mất nhưng không khóc,…

– Bé Heng: còn nhỏ tuổi nhưng đã tham gia làm nhiệm vụ cách mạng: thông thuộc từng hố chông, từng chiến điểm để dẫn đường cho cán bộ cách mạng, cho khách đến làng. Bé Heng là thế hệ tiếp nối, kế tục cha anh để đưa cuộc chiến tới thắng lợi cuối cùng.

=> Họ là một tập thể anh hùng, là sự nối tiếp nhau qua các thê hệ, biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Tây Nguyên: giàu tình yêu thương, căm thù giặc sâu sắc, trung thành với cách mạng.

3. Kết bài

– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:

+Rừng xà nu là câu chuyện về cuộc đời của Tnú, sự giác ngộ lí tưởng cách mạng và cuộc nổi dậy từ tự phát đến tự giác của dân làng Xô Man biểu trưng cho cả đất nước Việt Nam đau thương mà quật cường trong kháng chiến chống Mĩ.

+ Rừng xà nu đã xây dựng được những hình tượng mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc: cây xà nu; những thế hệ xà nu – những thế hệ của bản làng Xô Man, của mảnh đất Tây Nguyên; người anh hùng Tnú.

Sơ đồ Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành

Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành – mẫu 1

Nguyễn Trung Thành còn có bút danh khác là nhà văn Nguyên Ngọc ông viết truyện ngắn “Rừng xà nu” sau những ngày đi tìm kiếm thực tế sáng tác tại núi rừng Tây Nguyên hoang sơ. Truyện ngắn “Rừng xà nu” nhằm ca ngợi những người dân Tây Nguyên kiên cường, trung thành, bất khuất trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.

Rừng xà nu” là một truyện ngắn chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn, tình cảm và lòng yêu nước vô cùng to lớn của những người dân vùng núi đại ngàng. Tác phẩm chính là một bản hùng ca bi tráng mang đậm tính sử thi viết về những người dân Tây Nguyên gan dạ, mưu trí, yêu nước hơn yêu cả mạng sống của mình. Nhờ có tinh thần bất khuất kiên cường đó mà toàn dân ta mới chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống lại hai kẻ thù xâm lược vô cùng lớn mạnh.

Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm chính là hình ảnh những cánh rừng xà nu. Một rừng xà nu bạt ngàn xanh tươi, trải dài tới hút tầm mắt. Một rừng xà nu mà không cây nào không bị thương, bởi mỗ khi kẻ thù muốn đánh người dân nơi đây chúng đều thả rất nhiều bom đạn trút xuống cánh rừng xà nu. Nên việc xà nu bị thương là điều vô cùng dễ hiểu. Nhưng dù bị thương hay vết thương có khiến cho nhựa cây chảy ra thật nhiều thì những cây xà nu kia cũng không bao giờ chết. Chỗ vết thương theo thời gian sẽ tạo thành một vét sẹo mà thôi. Không có một loài cây nào ham sống như cây xà nu, nếu một cây to bị gục xuống thì ngay dưới chân nó lại có vài cây con mọc lên. Những cánh rừng xà nu cứ vì thế mà xanh tươi mãi mãi.

Hình ảnh những cây xà nu kia chính là biểu tượng của người dân Tây Nguyên, những con người luôn trung thành với Đảng với cách mạng và Bác Hồ. Những con người Tây Nguyên từ người già như cụ Mết, cho tới Tnú, Mai, Dít và bé Heng đều có tinh thần yêu nước. Những người dân của làng Strá dù ít dù nhiều dù lớn dù bé cũng luôn một lòng hướng về quê hương của mình, có lòng căm thù giặc sâu sắc.

Nhân vật chính trung tâm song song với hình tượng cây xà nu chính là anh Tnú một người anh hùng. Một chiến sĩ cách mạng kiên trung dù trải qua nhiều đau khổ khó khăn trong tình cảm riêng tư nhưng Tnú càng thêm kiên cường và căm thù giặc sâu sắc. Tnú vốn là một cậu bé chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống ba mẹ anh qua đời trong một trận càn quét của giặc. Tnú được cụ Mết và người dân trong làng Xô Man nuôi dưỡng nên người. Ngay từ nhỏ Tnú đã tỏ rõ tinh thần anh dũng, kiên cường của mình, Tnú làm liên lạc việc đưa thư cho các chiến sĩ cách mạng, để tránh sự truy đuổi của kẻ thù Tnú thường đi đường mới không đi những con đường mòn dễ đi. Rất nhiều nhiệm vụ khó đã được Tnú hoàn thành. Có lần Tnú bị giặc bắt được chúng tra tấn Tnú nhưng anh vẫn kiên cường không khai mà âm thầm nuốt lá thư vào bụng của mình để bảo đảm an toàn của bức thư. Ngày còn nhỏ Tnú và Mai là bạn thanh mai trúc mã, cả hai được cán bộ Quyết dạy chữ. Mai thông minh học đâu nhớ đó, còn Tnú thì cứ quên hoài nên anh đã lấy viên đá đập vào tay của mình để nhắc nhở mình phải ghi nhớ. Khi lớn lên Mai và Tnú kết hôn họ đã có thêm em bé là kết quả tình yêu của hai người. Nhưng Mai bị bọn tay sai bắt đi tra tấn dã man khiến cho Mai và em bé trong bụng tử vong. Tnú đau đớn ôm xác vợ con. Anh bị bọn chúng tra tấn dã man và đốt cháy mười ngón tay, nhưng Tnú không hề cảm thấy đau đớn nỗi đau trong lòng anh còn lớn hơn nỗi đau thể xác. Tnú như một cây xà nu trưởng thành bị giặc bắn phá bị thương, nhưng vẫn luôn kiên cường vươn lên và không bao giờ gục ngã.

Truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn vô cùng thành công của nhà văn viết về đề tài những người dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh những cây xà nu anh dũng hiên ngang tựa như những người dân làng Xô Man bất khuất trung hậu, quả cảm.

Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành – mẫu 2

Nguyễn Trung Thành, một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam. Ông sáng tác trên nhiều mảng, truyện ngắn, kí,… ở mảng nào cũng có những tác phẩm xuất sắc. Nhắc đến ông ta không thể không nhắc đến truyện Rừng xà nu, một tác phẩm mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, in đậm dấu ấn phong cách của ông.

Mở đầu tác phẩm, cũng như xuyên suốt câu chuyện này là hình tượng câu xà nu. Nhưng đồi xà nu, nối tiếp nhau đến tận chân trời, mở ra một không gian mênh mông, vô tận đầy sức sống, bạt ngàn, mạnh mẽ. Bằng hình tượng cây xà nu, tác giả đã tái hiện vẻ đẹp đặc trưng, kỳ thú của mảnh đất Tây Nguyên. Đồng thời cây xà nu cũng chính là biểu tượng cho dân làng Xô Man. Cây xà nu gắn bó mật thiết với dân làng, trong đời sống hàng ngày cho đến cả những sự kiện trọng đại. Kẻ thù tra tấn dữ dội Tnú, bằng cách tẩm dầu xà nu đốt mười đầu ngón tay của anh, xà nu đã trở thành vật dụng bị kẻ thù lợi dụng để hủy hoại dân Xô Man. Nhưng cây xà nu còn cho thấy sự thay đổi của dân làng Xô Man, từ chỗ không dám cầm vũ khí đến dám cầm vũ khí đứng lên chống lại quân giặc. Và trong đêm Tnú về thăm làng: đuốc xà nu dẫn người dân làng Xô Man trên khắp nẻo đường dồn về tập trung tại nhà Ưng, họ cầm ngọn lửa của mình để ném vào đống lửa giữa nhà, mọi người quây quần quanh đống lửa lớn để nghe cụ Mết kể về cuộc đời của anh Tnú.

Không chỉ vậy, hình ảnh cây xà nu còn là biểu tượng cho số phận, phẩm chất của người dân Tây Nguyên. Hình ảnh cả cánh rừng xà nu đầy thương tích, mỗi ngày giặc bắn đại bác hai lần, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng, hàng ngàn cây xa nu không cây nào không bị thương. Có những cây chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, ở chỗ vết thương nhựa ứa ra… bầm lại đen, quện thành cục máu lớn. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi,… Hình ảnh cây xà nu bị thương cũng chính là biểu tượng cho những đau thương mất mát mà dân làng Xô Man phải gánh chịu. Dân làng đem cả tính mạng mình nuôi giấu cán bộ, chịu bao hi sinh, những vẫn đồng lòng bảo vệ cách mạng. Và rừng xà nu chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất tốt đẹp của dân làng Xô Man. Không có loài cây nào khao khát ánh sáng như xà nu, chúng có sức vươn lên mạnh mẽ, giống như sức sống tiềm tàng của người dân Tây Nguyên. Không chỉ vậy, chúng còn có sức sống bất diệt, không gì cỏ thể tiêu diệt được. Xây dựng hình tượng cây xà nu tác giả đã gián tiếp nói lên những phẩm chất anh hùng, cốt cách đẹp đẽ của con người Tây Nguyên, đồng thời cũng hé mớ cảnh cửa bước vào thế giới và khám phá con người nơi đây.

Nổi bật nhất trong tác phẩm là nhân vật Tnú hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của con người Tây Nguyên. Ngay từ bé, Tnú đã tỏ ra là một cậu bé hết sức dũng cảm, cậu nuôi giấu cán bộ, sẵn sàng cầm đá đập vào đầu khi không học được. Khi làm nhiệm vụ cậu không đi đường bằng phẳng mà tìm những con đường rừng, lội qua thác mạnh, để địch không bắt được. Khi trưởng thành, đã là một chiến sĩ cách mạng, sự gan góc, dũng cảm càng được bộc lộ rõ hơn. Bị bắt giam, Tnú vượt ngục trở về, khi vợ con bị đe dọa tính mạng, Tnú sẵn sàng xông vào cứu vợ con. Và dù bị giặc tra tấn, Tnú không hề van xin, mà chịu đựng đau đớn cho đến cùng. Không chỉ vậy, Tnú còn là một người có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã có tình yêu và niềm tin với cách mạng, cậu nuôi giấu cán bộ và mang trong mình mong muốn được trở thành chiến sĩ cách mạng để giải phóng bản làng. Tính kỉ luật của Tnú còn được thể hiện rõ trong việc tuân thủ mệnh lệnh cấp trên, được nghỉ phép cậu chỉ về thăm làng đúng một đêm, sau đó ra đi ngay, dù trong lòng còn biết bao lưu luyến, bịn rịn. Nhưng bên trong một con người có vẻ bề ngoài sắt đá, có tính kỉ luật cao như vậy là lại người có trái tim yêu thương nồng nàn. Tình yêu đó được thể hiện trước hết là với buôn làng, Tnú lớn lên trong sự săn sóc của dân làng, bởi vậy Tnú coi mọi người như người thân của mình. Cũng chính vì vậy, dù thời gian nghỉ phép vô cùng ngắn ngủi Tnú vẫn háo hức trở về, xúc động khi được gặp lại mọi người và được ở trong vòng tay thân thương của những người cùng bản làng. Trái tim yêu thương đó càng được thể hiện rõ hơn với vợ con của anh. Khi Mai sinh con, anh không thể đi mua vải được anh đã xé đôi tấm dồ của mình ra làm tấm choàng cho Mai địu con. Và trong khoảnh khắc, nhìn thấy vợ con bị tra tấn dã man, không thể xông vào cứu, Tnú đau đớn đến tột cùng. Nhưng cuối cùng tình yêu thương vợ con vượt lên trên tất cả, tình cảm đã lấn át lí trí, Tnú đã lao vào cứu vợ con dù biết chắc mình có thể sẽ phải hi sinh. Bởi anh hiểu rằng, khi ấy vợ con cần anh biết nhường nào.

Tình yêu thương càng nồng nàn thì lòng căm thù giặc càng sục sôi, sâu sắc. Tnú mang trong mình ba mối thú lớn: mối thù đầu tiên là với bản thân, sau lần bị giặc tra tấn, mỗi ngón tay đều cụt một đốt, lòng căm thù giặc trong Tnú càng trở nên sâu sắc hơn. Nhưng mối thù của bản thân vẫn không bằng mối thù của gia đình, vợ con anh – những người mà anh yêu thương nhất đã bị giặc tra tấn dã man và chết, điều đó sẽ ám ánh trong tâm can anh đến hết cuộc đời, khiến cho lòng căm thù giặc càng sục sôi hơn. Và cuối cùng là mối thù chung với dân làng, dân làng bị tan sát dã màn. Từ khối thù chung và riêng ấy đã thức tỉnh tinh thần chiến đấu trong Tnú.

Hình tượng nhân vật Tnú là điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ chân lí thời đại: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” – chủ động đánh giặc, muốn dành được độc lập chỉ có con đường duy nhất là đấu tranh vũ trang. Không chỉ vậy Tnú còn tiêu biểu cho vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Ngoài hình tượng nhân vật Tnú, tác phẩm còn nổi bật với tập thể anh hùng làng Xô Man. Mỗi người là một chiến sĩ, mang trong mình niềm tin với Đảng, với cách mạng và lòng trung thành với cách mạng. Nhưng bên cạnh những đặc điểm chung đó, mỗi người lại có những nét đẹp riêng. Trước hết là nhân vật cụ Mết, cụ là hiện thân của vẻ đẹp núi rừng và con người Tây Nguyên. Cụ Mết là người chỉ huy trực tiếp cuộc kháng chiến của dân làng Xô Man, cụ lãnh đạo nhân dân, xây dựng làng Xô Man thành làng kháng chiến để đấu tranh lâu dài với giặc Mĩ. Không chỉ vậy, cụ còn giáo dục lòng yêu nước ở thế hệ sau, truyền nhiết huyết và quyết tâm giết giặc cho thế hệ trẻ. Dít và Heng có thể coi là thế hệ trẻ tiêu biểu của làng Xô Man. Dít mang trong mình sự gai góc, quyết đoán, sẽ là thế hệ tiếp bước cha ông xuất sắc.

Tác phẩm mang tính sử thi Tây Nguyên đậm nét. Nghệ thuật xây dựng hình tượng đặc sắc, mỗi nhân vật có số phận và tính cách riêng, nhưng ở họ đều ngời sáng lòng yêu nước và dũng cảm. Lối kể chuyện hấp dẫn : tác giả sử dụng kết cấu chuyện lồng trong chuyện: câu chuyện cuộc đời anh Tnú và chuyện của dân làng Xô Man. Ngôn ngữ trần thuật đậm chất Tây Nguyên, đem lại dấu ấn riêng cho tác phẩm.

Tác phẩm là bài ca ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Tây Nguyên hùng vĩ, anh hùng. Không chỉ vậy Rừng xà nu còn là khúc tráng ca ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất anh hùng, bất khuất của người dân Tây Nguyên. Kết hợp với ngôn ngữ và lối kể chuyện hấp dẫn đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.

Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành – mẫu 3

Tây Nguyên hùng vĩ núi non, Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những con người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng. Chính vùng đất sản sinh ra vố số những anh hùng dân tộc đi vào sử sách thì nơi đây cũng chính là vùng đất mang đến cảm hứng sáng tác cho tác giả Nguyễn Trung Thành. Trong những năm tháng của mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây Nguyên khơi nguồn cảm hứng cho ông viết truyện ngắnRừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.

Rừng xu nu là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và kiên cường. Nó chỉ là truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực to lớn mà giá trị lịch sử khẳng định. “Rừng xà nu” viết về những anh hùng ở làng Xô Man của người Strá trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ gắn với hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên. Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà – một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên. Và đặc biệt đó cũng là một rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó. Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu đều mang dụng ý của tác giả Nguyên Ngọc.

Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại tạo cảm giác như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu… Mọi thứ dường như đều xoay quanh loại cây đặc biệt này. Ngược đọc không khó nhận ra ý nghĩa của rừng xà nu là để nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất. Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là các hình ảnh “đồi xà nu” (4 lần), “rừng xà nu” (5 lần), với “hàng vạn cây” “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện như cách mở đầu của bức tranh đấu tranh quyết liệt của dân làng và nó cũng là một hình ảnh mang tính dự báo. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống. Tác giả Nguyễn Trung thành đã có dụng ý miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ, chắt lọc và tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong phú cho người đọc. Hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực một rừng cây “ham ánh sáng mặt trời”, vừa là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mĩ. Kết hợp bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa hiệu lực cua nó. Rừng xà nu hiện lên như một người bạn trung thành che chở cho dân làng Xô Man, như những con người đẹp của buôn làng. Và có thể nói rừng xà nu chính là biểu tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam.

Truyện ngắn hiện lên như một bức tranh tái hiện chân thực toàn bộ cuộc chiến đấu đầy gian khó nhưng không thiếu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man. Tnú nhân vật chính của Rừng xà nuđã mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người con của núi rừng Tây Nguyên ấy lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng, nuôi dạy khôn lớn. Đó là người anh hùng dân tộc lớn lên, trưởng thành và kiên cường bất khuất từ trong lòng của nhân dân, của dân tộc. Tnú đến với cách mạng ngay từ khi còn rất nhất vào thời điểm của những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Chính Tnú đã chững kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng. Khi Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống qua sự chỉ bảo của anh cán bộ Quyết. Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn về làng, tra tấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo, chỉ điềm tĩnh chỏ và bụng mình để trả lời câu hỏi cùa kẻ thù: “Cộng sản ở đây này”. Câu trả lời ấy đâu chỉ đơn giản là một câu trả lời mà đó là cả một lời thách thức, sự dũng cảm! Và chính lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù. Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách. Anh hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná…” chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó. Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh. Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Dác Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con. Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh, “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, răng cắn chặt môi, không một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giận vào kẻ thù. Có thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ thù đã lên tới tột đỉnh và nhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó. Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh… Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn.

Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng Xô Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dít“còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ…”. Vậy mà, khi Tnú trở về, cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên mà là quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ. Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dít. Váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”. Không chỉ gan góc Dít còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dít “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già, đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, có sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với “đôi mắt mở to bình thản trong suốt”. Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh khi hỏi “đồng chí có giấy không?”, khi tuyên bố dứt khoát “không có giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về có một đêm thôi”. Con người Dít như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê hương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.

Tnú và Díttiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến với cuộc chiến đấu của dân tộc và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng của cha ông. Đặc biệt sự trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền thông anh hùng của người Strá. Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man.

Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quắc thước như xưa… ngực cũng như một tấm xà nu lớn… tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực”, vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc đời cụ đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên cụ luôn luôn nhắc nhờ con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất của quê hương. Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít… có sự trưởng thành lớn lao.

Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là “Rừng xà nu”… Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện “Rừng xà nu” thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.

Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành – mẫu 4

Truyện ngắn “Rừng xà nu” được tác giả Nguyễn Trung Thành sáng tác vào năm 1965 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, đặc biệt là ở chiến trường Tây Nguyên Mỹ đang đổ quân vào để khủng bố và giết chóc. Ra đời trong hoàn cảnh đó, tác phẩm mang ý nghĩa quan trọng như nguồn cổ vũ và động viên lớn lao dành cho con người Việt Nam, là động lực để quân và dân ta kiên cường trong chiến tranh gian khổ.

Trong truyện ngắn “Rừng xà nu” tác giả đã xây dựng hai hình ảnh lớn mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc đó là hình ảnh cây xà nu và hình ảnh những con người anh hùng đại diện cho sức mạnh và vẻ đẹp của người dân làng Xô Man. Hình ảnh cây xà nu được xuất hiện xuyên suốt tác phẩm. Cây xà nu là một loài cây đặc trưng của vùng đất Tây Nguyên, gắn bó với cuộc sống sinh hoạt của người dân làng Xô Man: lửa xà nu trong mỗi bếp, trong đống lửa nhà ưng,… cây xà nu còn chứng kiến quá trình đấu tranh của dân làng Xô Man “đuốc xà nu được thắp lên trong những đêm người dân mài vũ khí” …. Dưới tầm bắn của đại bác rừng xà nu đã ưỡn tấm thân lớn của mình ra che chở cho làng, gánh chịu đau thương để rồi “cả rừng hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Cây xà nu còn là nhân chứng trong cuộc nổi dậy của dân làng trong đêm Tnú bị tra tấn, cây xà nu đã kề vai sát cánh cùng con người chiến đấu. Cây xà nu còn mang những vẻ đẹp biểu tượng cho phẩm chất, tâm hồn và ý chí của người dân Tây Nguyên nói chung và dân làng Xô Man nói riêng. Loài cây này có sức sinh sôi nảy nở rất khoẻ, lớn rất nhanh để thay thế những cây đã ngã, vẻ đẹp ấy tượng trưng cho sức sống bất diệt của người dân làng Xô Man, bên cạnh đó xà nu lại rất ham ánh sáng mặt trời nên thường vươn cao, thẳng tắp giống như tinh thần yêu cách mạng, quý tự do của người dân làng Xô Man, từ người già đến trẻ nhỏ đều một lòng tin vào lời dạy của cụ Mết: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Cây xà nu thường mọc thành rừng biểu tượng cho tinh thần đoàn kết của dân làng Xô Man, trong mọi hoàn cảnh gian khổ, đau thương và mất mát các thế hệ người dân làng Xô Man luôn kề vai sát cánh bên nhau, trên dưới đồng lòng và tuyệt đối trung thành với lời của cụ Mết.

Dưới tán rừng xà nu ấy là nơi có những con người anh hùng với những phẩm chất tốt đẹp, đại diện cho vẻ đẹp những con người dân làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung. Nổi bật nhất là hình tượng nhân vật Tnú, đời thường Tnú là một chàng trai chung thuỷ và có tình yêu sâu sắc với Mai, bên cạnh đó anh cũng yêu quê hương tha thiết, trước khi là một người anh hùng, Tnú là một người con ưu tú của làng Xô Man. Tnú nổi bật với tinh thần bất khuất gan góc, dũng cảm và trung thành với cách mạng. Khi còn nhỏ Tnú đã bộc lộ bản lĩnh cách mạng kiên cường, có đóng góp lớn cho sự nghiệp chung như tham gia phong trào nuôi giấu cán bộ trong rừng, quyết tâm học chữ để làm cán bộ giỏi, rồi làm liên lạc cho anh Quyết để đưa thư. Khi lớn lên Tnú cùng dân làng nung nấu ý chí đánh giặc bằng cách mài vũ khí giấu ở trong rừng, khi giặc khủng bố giết chóc Tnú tận mắt nhìn thấy vợ và con bị giết nhưng vẫn phải nén nỗi đau riêng, quyết không phản bội lại cách mạnh. Ngay cả khi bị giặc tra tấn “một ngón tay… răng anh đã cắn nát môi anh rồi”, bản lĩnh cách mạng giúp Tnú có sức chịu đựng phi thường.

Tnú chính là thế hệ tiếp bước con đường của cha anh, người anh hùng tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man. Bên cạnh nhân vật Tnú, cụ Mết là người có vai trò quan trọng đối với dân làng Xô Man, là người già làng cụ luôn có tinh thần giáo dục truyền thống, dẫn dắt dân làng đi lên, cụ dạy dân làng “chúng nó có súng mình phải cầm giáo mác”, rồi cụ định hướng cho dân làng “đánh thằng Mỹ phải đánh dài”, cũng chính cụ thường xuyên kể chuyện về Tnú cho dân làng và các thế hệ con cháu nghe. Như vậy cụ Mết là người có vai trò quan trọng trong cuộc nổi dậy của người dân làng Xô Man, cụ đã giáo dục, định hướng và dẫn dắt để dân làng đi lên, cụ Mết là biểu tượng cho sức chiến đấu kiên cường, bất khuất. Dít là người con gái đầy bản lĩnh, ngay từ nhỏ đã bộc lộ bản chất gan góc và tinh thần trung thành với cách mạng: lẻn vào rừng tiếp tế lương thực cho du kích, khi bị giặc bắt và khủng bố tinh thần Dít nhìn bọn giặc bằng ánh mắt bình thản, lạnh lùng. Khi lớn lên đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng Dít làm việc rất nghiêm túc, biết kìm nén tình cảm riêng và đặt nhiệm vụ chung lên trên hết. Dít và bé Heng giống như thế hệ cây xanh mới mọc và lớn rất nhanh, bé Heng trông nhỏ con nhưng thuộc hết những vị trí hầm chông, hố châm, biết tham gia và công cuộc chung của dân làng, tỏ ra mình là một người lính thực sự. Nhà văn đã xây dựng hệ thống nhân vật với ba thế hệ, tầng lớp cha anh (cụ Mết), tầng lớp thanh niên (Tnú), tầng lớp măng non (Dít và bé Heng), tất cả họ đều mang những phẩm chất đại diện cho phẩm chất của cộng đồng, là những con người mang tầm vóc lịch sử.

Truyện ngắn “Rừng xà nu” với sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về hình tượng cây xà nu và những con người “anh hùng dân tộc” của làng Xô Man trong thời chiến tranh chống Mỹ. Tô đậm truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất của dân tộc ta đồng thời cổ vũ và ca ngợi thế hệ con em noi gương cha anh tiếp bước gìn giữ non sông.

Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành – mẫu 5

Nguyễn Trung Thành là nhà văn sinh ra ở vùng đất Thăng Bình, Quảng Nam, tên khai sinh của ông là Nguyên Ngọc. Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước lầm than khi phải trải qua hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc, hơn ai hết, ông trân quý và khâm phục những con người hy sinh hết mình cho cách mạng, cho Tổ quốc thân yêu. Đặc biệt đối với vùng đất Tây Nguyên anh dũng cùng những con người bộc trực, dũng cảm, kiên trung một lòng gắn bó cách mạng được ông ưu ái và dành nhiều niềm thương yêu. Bởi vậy mà bao nhiêu cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên anh hùng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận để ông viết nên tác phẩm Rừng xà nu đầy thành công, trở thành một kiệt tác gắn bó với tên tuổi của mình.

Rừng xà nu được viết vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt. Tác phẩm được in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng, trích trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Đây là bài ca ca ngợi bản lĩnh, ý chí sắt đá, bất khuất kiên cường của đồng bào Tây Nguyên.

Rừng xà nu quanh làng Xô man được tác giả giới thiệu trong đoạn đầu tác phẩm đầy độc đáo. Một rừng cây luôn “nằm trong tầm đại bác của đồn giặc”, bị súng đạn bắn phá liên tục, sự hủy diệt vô cùng tàn bạo của quân giặc trước sức sống của thiên nhiên – ” Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Một cảnh tượng đầy đau thương hiện ra trước mắt, bao nhiêu cây xà nu không cây nào là không bị trúng đạn, cây nào cũng bị vết thương loang lổ, loét mãi ra rồi chết. Đạn đại bác hung tàn, không nhân nhượng trước vẻ đẹp kiêu hùng thiên nhiên, cây vừa lớn đã bị chặt làm đôi rồi đổ ào. Song, rừng xà nu ấy vẫn không chịu khuất phục, những cây cường tráng nhanh chóng tự chữa lành vết thương. Chúng vẫn tiếp tục sức sống mạnh mẽ của mình để dang rộng vòng tay mà che chở cho ngôi làng thân yêu. Cây nọ tiếp cây kia vẫn sinh sôi nảy nở, sự sống vẫn đâm chồi trước sự tàn phá của quân thù “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên”. Cây xà nu tự mình đứng lên, trường tồn và phát triển, dũng cảm hiên ngang trước bom đạn kẻ thù “hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Hình ảnh rừng xà nu hiện lên thật đẹp, thật đáng tự hào biết bao. Cây xà nu chính là biểu trưng cho vùng đất Tây Nguyên, là đại diện tiêu biểu cho con người Tây Nguyên, là hình ảnh ẩn dụ cho cốt cách, sức sống của đồng bào Tây Nguyên từ trước đến nay. Trong đau thương vẫn ánh dũng kiên cường, trong áp bức vẫn tràn trề hy vọng, vẫn mang ý chí đấu tranh, nguyện theo gương cách mạng, là sự sống bất diệt của buôn làng Xô man. Sau hình ảnh xà nu, tác giả tiếp tục tái hiện chân thực cuộc sống và chiến đấu của người dân nơi đây. Họ là những thế hệ giàu lòng yêu nước, có niềm tin lớn lao vào cách mạng, là những gương anh hùng sáng chói với non sông, Tổ quốc. Đó là một Cụ Mết đại diện cho những thế hệ anh hùng đi trước đầy kinh nghiệm, bản lĩnh và giàu lòng yêu nước, luôn hướng cho dân làng những bước đi đúng đắn trong chiến đấu. Là một người nhìn xa, thấu hiểu dân làng, là một chỗ dựa tinh thần không thể thiếu của làng Xôman. Với cụ “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Chân lý “Chúng nó dùng súng, mình phải cầm giáo” của cụ như một lời tuyên ngôn trong cuộc chiến của dân tộc. Đó còn là một Tnú với những phẩm chất anh hùng. Khi còn nhỏ, anh sớm đã giác ngộ cách mạng, phấn đấu để trở thành những người như anh Quyết lãnh đạo cách mạng. Một cậu bé gan góc và đầy dũng cảm, giữa bao chiến trận đầy súng đạn của giặc, cậu bé giao liên vẫn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Khi bị bắt, Tnú vẫn một lòng trung thành dù bị tra tấn đầy ác độc, nhưng vẫn nhất quyết giữ bí mật. Sau khi vượt ngục, những tưởng được hạnh phúc bên vợ con thì giặc tiến vào diệt phong trào nổi dậy, một lần nữa Tnú phải chịu đau thương trước sự tra tấn và khổ đau khi vợ con bị giết mà không làm gì được. Càng trong đau thương, phẩm chất anh hùng càng ngời sáng trong Tnú, càng trong áp bức càng kiên cường đứng lên trả mối thù lớn cho vợ con, cho chính mình và cho dân làng Xô man yêu dấu. Tiếng thét căm hờn là tiếng căm phẫn, xé lòng giữa cuộc chiến, là tiếng hiệu triệu người người đứng lên giết chết quân thù, bè lũ cướp nước. Bàn tay bị đốt mười ngón nhưng không thiêu rụi được ý chí của người con Tây Nguyên. Cuối cùng, Tnú cũng đã giết chết được thằng Dục, kẻ đã thẳng tay giết người thân của anh, trả mối thù sâu nặng bấy lâu. Tnú tiêu biểu cho thế hệ thanh niên trưởng thành trong cách mạng, tin yêu và đem hết sức mình phục vụ quân giải phóng.

Đó còn là những Dít, bé Heng,… thế hệ tiếp nối bao chiến công cha anh để cùng nhau chung sức đưa thắng lợi đi đến cuối cùng. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, ngày càng trưởng thành, kiên cường chiến đấu xứng đáng với hi sinh của cha anh. Dường như, trong cuộc chiến khốc liệt, con người Tây Nguyên càng khẳng định được chính mình. Trong lầm than, đen tối, họ lại càng kiên dũng, ngời sáng tuyệt vời.

Rừng xà nu và nhân dân làng Xô man như hai mà một, đều chịu nhiều đau thương, đều vươn mình mạnh mẽ. Đó là sức sống bất diệt, là tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.

Bằng sự kết hợp tài tình giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, Nguyễn Trung Thành không chỉ ngợi ca vẻ đẹp trong nhân cách của người con Tây Nguyên mà qua đó còn đặt ra một vấn đề mang tính thời đại: Để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ tự do cho đất nước trước nhất phải cầm vũ khí đứng lên.

Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành – mẫu 6

Rừng xà nu chỉ là một truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực của nó thật lớn lao. Đó là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trường thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung, nhiệt tình, mưu trí và kiên trung.

Mỗi nhà văn, dường như đều có một vùng quê sáng tác. Đối với Nguyên Ngọc, Tây Nguyên hùng vĩ núi non, Tây Nguyên bất khuất kiên cường và những người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng chính là vùng đất mà ông gắn bó, trăn trở trong sáng tác của mình. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông bám trụ ở Tây Nguyên để rồi viết nên tiểu thuyết “Đấtnước đứng lên”. Những năm đánh Mỹ. Nguyên Ngọc lại trở về với vùng đất gian khổ này từ đầu những năm sáu mươi, ngay sau những ngày đồng khởi của cách mạng miền Nam. Cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây Nguyên đã khơi lòng cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu – một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mỹ.

Rừng xà nu chỉ là một truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực của nó thật lớn lao. Đó là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trường thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung, nhiệt tình, mưu trí và kiên trung.

Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà nu quanh làng Xô Man của người Strá. Một rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình. Một rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác của đồn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó.

Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương, có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình… ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn… Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi… năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đại bác không kết nối chúng, những vết thương của chúng chóng lành như một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã. Cứ thế ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”…

Nguyên Ngọc miêu tả Rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ chắt lọc và tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong phú cho người đọc. Hình ảnh Rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực của một rừng cây ” ham ánh mặt trời”, vừa là hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mỹ, bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân cách hóa đã phát huy tối đa hiệu lực của nó. RÌ/IIỊỊ xù nu hiện lên như mội người bạn trung ihành che chở cho dần làng Xô Man, như những con người đẹp nhất của buôn làng. Và có thể nói Rừng xà nu chính là hiểu iượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của COI1 người Viội Nam.

Tái hiện chân thực cuộc chiến đâu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mỹ, nhà văn tập trung miêu tả hình thành của một thê hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông, và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mỹ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man.

Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được dân làng đùm học, nuôi dạy lớn khôn. Cậu bé Tnú đến với cách mạng ngay từ những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi mà Mỹ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Chính Tnú đã chứng kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng… giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng. Ngày ngày Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức và lẽ sống ở đời qua sự chỉ bảo của anh cán bộ Quyết. Dũng cảm, mưu trí, lanh lợi là phẩm chất nổi bật của Tnú. “Nó liên lạc cho anh Quyết từ xã lên huyện. Không bao giờ nó đi đường mòn. Giặc vây các ngả đường nó leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt tất cả vòng vây. Qua sông nó không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một cá kình” bởi vì Tnú hiểu rằng “qua chỗ nước êm thằng Mỹ Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ. Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được. Chúng dẫn em về làng, tra lấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém. Nhưng Tnú vẫn không khai báo, chỉ điềm tĩnh chỉ vào bụng mình để trả lời câu hỏi của kẻ thù: “Cộng sản ở đây này”. Đó không phải là câu trả lời mà là một lời thách thức, dũng cảm! Với lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù.

Thoát ngục Công Tum trở về, Tnú đã là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhận thức. Anh hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăn trối của anh Quyết. Anh trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná…”, chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc chiến đấu sắp lới. Và hạnh phúc cũng đến với anh trong những ngày đó. Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh.

Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Đắc Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trưởc cảnh giặc tra tấn vợ con, Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh. “Mười ngón tay anh đã thành mười ngọn đuốc” răng cắn nát môi, không một tiếng kêu van, Tnú trừng trừng ném căm giận vào chúng, tiếng hét của Tnú như một lời hiệu triệu dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân người đạp nhà ưng ào ào, tiếng bọn lính kêu thất thanh… Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú để rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải phóng đất nước với một nhận thức sâu sắc hơn. Điều này có thể thấy rõ qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ba năm đi lực lượng”, anh kể rằng anh giết được thằng Dục – tên chỉ huy đồn giặc ở Đắc Hà, kẻ đã giết vợ con anh, kẻ đi gieo đau thương cho làng Xô Man và theo anh thằng giặc nào “cũng là thằng Dục cả”. Rõ ràng, với anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước cũng là mối thù của gia đình, của quê hương anh; giết được giặc ở bất cứ nơi nào trên đất nước cũng là giết được thằng Dục, kẻ thù của gia đình anh, của quê hương anh. Đó là một nhận thức sâu sắc – nhận thức mà Tnú rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng, của đất nước và của cuộc chiến đấu của quê hương.

Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên đội làng Xô Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi, Dít “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ…”. Vậy mà, khi Tnú trở về, cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kỳ lạ của Dít không phải là ngẫu nhiên mà là một quá trình tự rèn luyện vượt qua nhiều thử thách. Lúc còn nhỏ, Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé giữa sân, lên đạn tôm xong rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sướt qua tai, sém tóc, cày đất dưới hai chân nhỏ của Dít. Váy nó rách tượt từng mảnh. Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mãnh dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt của nó vẫn nhìn bóng giặc bình thản lạ lùng…”. Không chỉ gan góc, Dít còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dít “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già, đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng. Dít cũng tỏ ra là người có bản lĩnh, có sức thu phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít không khỏi xúc động, nhìn anh rất lâu “đôi mắt mở to bình thản trong suốt”. Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của mình khi hỏi “đồng chí về có giấy không”, khi tuyên bố dứt khoát “không có giấy về thì không được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi xem kĩ giấy của Tnú chị lại buồn tiếc “sao anh về có một đêm thôi”. Con người Dít là như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết yêu thương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.

Tnú và Dít tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù họ đến với cuộc chiến đấu của dân tộc, và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn của nó một mặt là do tự họ vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt của cách mạng, của cha ông. Đặc biệt sự trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền thống anh hùng của người Strá. Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man. Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh thần của buôn làng. Tuy già nhưng cụ “vẫn quắc thước như xưa… ngực cũng như một tấm xà nu lớn… Tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực” vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng.

Có lẽ cuộc đời cụ đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên cụ luôn luôn nhắc nhở cháu con nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất của quê hương. Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai và sự bất lực của Tnú trước sự dã man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiểu: đối với kẻ thù “chỉ có hai bàn tay trắng, chỉ với hai bàn tay không” thì không thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm vũ khí đứng lên! Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ mai sau “nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tao chết rồi, bây còn sống phải nói lại cho con cháu. Chúng nó đã cầm súng, mình phủi cầm giáo!”. Lời cụ rành rẽ vang lên trong ánh lửa bập bùng ở nhà ưng.

Xậy dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ. Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ với truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít… có sự trưởng thành lớn lao.

Và không chỉ có lớp người nhưTnú, lớp sau Tnú như bé Heng cũng lớn lên, lớn lên cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xô Man. Với nhân vật bé Heng, Nguyên Ngọc chỉ phác họa bằng vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Tuổi của bé Heng, lẽ ra là tuổi đến trường với những trang sách, với những trò chơi vui nhộn nhưng đất nước còn giặc, bé cũng còn nhỏ, bé Heng đã có dáng vẻ của “một người lính thật sự. Nó đội chiếc mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc một chiếc áo be ba dùi phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng…”. Hơn thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú năm xưa. Thật là tự hào và tin tưởng với một lớp người như bé Heng! Lớp người ấy đang lớn lên, trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh.

Đọc Rừng xù nu ta có cảm tưởng như được xem một bộ phim truyện về số phận một con người với biết bao sự kiện. Truyện bắt đầu từ hiện tại từ cái thời điểm anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú đặt chân lên mảnh đất quê hương sau “ba năm đi lực lượng” rồi ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tưởng của Tnú. trong lời kể của tác giả, trong lời kể của cụ Mết. Những mảnh đời quá khứ, những mảnh đời hiện tại, cứ đan nhau, soi tỏ cho nhau để cắt nghĩa sự trưởng thành của thê hệ Tnú, sự trưởng thành của làng Xô Man trong cuộc chiến đấu với kè thù, để làm nổi rõ chủ đề của truyện. Từ nỗi đau riêng và nỗi đau chung. Tnú và làng Xô Man phải cầm vũ khí để tự cứu mình, để giải phóng dân tộc và cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc đã sản sinh ra một thế hệ trẻ kế tục xứng đáng cha ông. Chính cái tư tưởng này đã chi phối kết cấu của Rừng xà nu. Hệ thống sự kiện trong truyện, chủ yếu được tổ chức theo sự phát triển tâm lý tính cách nhân vật trung tâm, chứ không theo trât tự thời gian thông thường. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn có điều kiện tập trung miêu tả những tình huống gay cấn làm nổi bật tính cách nhân vật, và mặt khác cũng phù hợp với ý nghĩa chính luận của tác phẩm. Hai lần đối đầu trực tiếp với kẻ thù là hai lần Tnú thể hiện rõ phẩm chất kiên cường của anh, tất nhiên phẩm chất này thể hiện ở mỗi lần có khác nhau và có sự phát triển. Sa vào tay giặc khi còn là một cậu bé, Tnú đã chứng tỏ đức tính quả cảm kiên trung của mình. Còn lần đối đầu với ke thù, Tnú rực sáng kiên cường bất khuất trước bóng đen tàn bạo của kè thù.

Khắc họa tính cách nhân vật, Nguyên Ngọc có sở trường trong việc lựa chọn những chi tiết tiêu biểu có ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết giàu chất tạo hình, giàu chất thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình ảnh cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: Một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn. Và cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay chùi hai giọt nước mắt lớn khi lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong Rừng xà nu không chỉ rung cảm người đọc bởi sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ mà còn ở những xúc động, những tình cảm thầm kín ở nơi họ.

Trên những trang viết của mình, Nguyên Ngọc thường trải những cảm xúc trữ tình của ông về con người, đất nước quê hương. Giọng văn của Rừng xà nu đằm chìm chất trữ tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà ưng trong lời kể trang nghiêm xúc động về quá khứ đau thương của cụ Mết, khi tha thiết luôn chảy theo dòng hồi tưởng về người thân, theo dòng suy tưởng về quê hương của Tnú… Lời văn của Rừng xà nu giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, mượt óng như ngôn ngữ của một bài thơ (Ví dụ: Đoạn mở đầu tác phẩm).

Rừng xà nu là truyện của một con người nhưng qua đó ta thấy số phận của một dân tộc. Từ câu truyện của Tnú và làng Xô Man, tác giả nói tới sự trưởng thành của cách mạng miền Nam trong những ngày trước và sau đồng khởi. Đọc Rừng xà nu hôm nay, vẫn thấy âm vang cái hào hùng của một thời chống Mỹ, một thời có những con người đẹp như cụ Mết, như Tnú, như Dít, như Mai.

Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành – mẫu 7

Một trong những bản anh hùng ca nổi tiếng thời kỳ kháng chiến chống Mỹ là truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Nguyễn Trung Thành là nhà văn chiến sĩ gắn liền với Tây Nguyên và viết thành công về đề tài miền núi. “Rừng xà nu” là dẫn chứng hùng hồn cho nhận định ấy. Truyện ngắn được viết năm 1965 in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Nhà văn đặt tên nhan đề của tác phẩm là “rừng xà nu” không phải là một sự ngẫu nhiên mà là có dụng ý. Đối với ông cây xà nu là một hình ảnh gắn bó máu thịt “trước mắt tôi là một rừng xà nu nối tít tắp, tôi yêu xà nu từ dạo ấy”. Nhà văn viết về xà nu như một biểu tượng của cuộc sống đau thương nhưng kiên cường bất khuất của các dân tộc Tây Nguyên mà cụ thể là những người làng Xô Man.

“Rừng xà nu” là hình tượng nổi bật và xuyên suốt tác phẩm. Đọc xong truyện ngắn này mà hồi tưởng lại chắc chắn bạn đọc nào cunggx tưởng tượng ra một cánh rừng xà nu xanh bát ngát đến tận chân trời. Mở đầu tác phẩm là cảnh rừng xà nu nối nhau tít tắp đến tận chân trời và kết thúc cũng là “cảnh rừng xà nu như một vĩ thanh cứ xa mờ dần bất tận”. Cây xà nu, rừng xà nu phủ kín từ đầu đến cuối tác phẩm. Bằng kết cấu hô ứng, Nguyễn Trung Thành đã tạo nên một hình tượng xuyên suốt tác phẩm và để lại dư âm vang vọng trong lòng người đọc. Hình tượng cây xà nu vừa mang tính cụ thể, một hình ảnh đặc trưng của miền đất Tây Nguyên; vừa mang tính ý nghĩa biểu tượng cho cuộc sống đau thương nhưng kiên cường bền bỉ diệu kỳ của dân làng Xô Man và nhân dân Tây Nguyên.

Xà nu hiện lên trong trang văn của Nguyễn Trung Thành vừa đau thương nhưng vô cùng đẹp đẽ. Bước vào tác phẩm, nhà văn đã miêu tả xà nu trong đau thương lửa đạn của chiến tranh. “Cả rừng à nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần đặc lại, bầm lại đặc quyện như từng cục máu lớn”. Giặc bắn đã thành lệ cứ mỗi lần bắn đạn đại bác trút xuống cánh rừng xà nu. Những câu văn miêu tả cánh rừng xà nu trong “tầm đại bác của giặc” đã đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Từng câu văn, từng từ ngữ đều cho ta cảm nhận được sự khốc liệt của chiến tranh. Nhưng không vì thế mà xà nu chùn bước. Nó vẫn mang trong mình sức sống kỳ diệu. “Nó phóng lên rất nhanh để lấy thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao từng luồng lớn thẳng tắp, lấp lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra thơm mỡ màng. Có thể nói, xà nu là loài cây khao khát sống, háo hức phóng mạnh lên bầu trời rộng lớn. Không gì có thể ngăn nổi tình yêu tự do và ánh sáng của xà nu.

Không chỉ là hình ảnh xuyên suốt tác phẩm và hiện lên đau thương nhưng vô cùng đẹp đẽ, xà nu còn như một dũng sĩ biểu tượng cho vẻ đẹp kiên cường bất khuất của con người Tây Nguyên. Trong tác phẩm, nhà văn sử dụng thủ pháp nghệ thuật tượng trưng nhân hóa để xây dựng cây xà nu, rừng xa nu như một nhân vật anh hùng. Ngay phần đầu tác phẩm nhà văn đã đặt hiện tượng xà nu trong thế đối lập giữa sự sống và cái chết. Cả rừng xà nu được được đặt trong tầm đại bác của giặc mà mỗi ngày chúng bắn hai lần khiến cho cả cánh rừng xầ nu mang đầy thương tích, nổi đau thương hiện lên với muôn hình muôn vẻ. Những cây non tựa như những đứa trẻ thơ, “nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được cứ loét ra, năm mười hôm sau thì cây chết”. Lại có những cây đang ở tuổi thanh xuân bị chặt đứt ngang mình đổ ào ào như một trận bão. Nhưng bên cạnh đó có những cây cường tráng, vết thương chóng lành mà đạn đại bác không thể nào giết nổi chúng. Đó là ấn tượng sâu đậm đọng lại trong lòng người đọc về rừng xà nu với một sức sống bất diệt không thể nào hủy diệt được cho dù bom đạn của kẻ thù có thể gây ra hàng ngàn, hàng vạn, nỗi đau thương mỗi ngày. Viết về rừng xà nu, tác giả đã dành cho loài cây này những câu văn, trang văn, đầy hào hứng và tha thiết. Điều đó cho thấy trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh sự sống mạnh hơn cái chết, luôn bất diệt trong cả sự hủy diệt. Trong tác phẩm ấn tượng về rừng xà nu như một điệp khúc ngân mãi. Nó như một sức sống man dại, mênh mông, bất tận. Xà nu không chỉ là cảnh sắc thiên hùng vĩ, là cảnh tượng chiến trường bi tráng mà còn biểu hiện cho khí phách anh hùng của làng Xô Man qua các thế hệ. Cây xà nu ham ánh sáng khí trời như dân làng Xô Man yêu và khao khát tự do. Cây xà nu chịu nhiều đau thương cũng như làng Xô Man sống dưới tầm đại bác của giặc. Họ chịu nhiều hi sinh mất mát nhưng vẫn khao khát sống và ham sống mãnh liệt. Người này ngã xuống người kia đứng lên, thế hệ này đi qua, thế hệ khác kế tiếp. Họ không chỉ sống đời thường mà họ còn sống để đánh giặc, diệt cái ác bảo vệ quê hương khiến kẻ thù phải khiếp sợ. Anh Quyết hi sinh đã có T nú thay thế. Mai ngã xuống có Dít trưởng thành và bé Heng đang lớn lên. Phẩm chất con người nơi đây trong sạch như nhựa cây xà nu. Sức sống của họ bền bỉ dẻo dai, kiên cường mãnh liệt như rừng xà nu. Họ yêu Đảng, yêu cách mạng như cây xà nu vươn lên tìm ánh sáng Mặt Trời. Nhà văn đã dành hết bút lực của mình để ngợi ca cuộc sống, vẻ đẹp hiên ngang bất khuất của cả thiên nhiên và con người nơi đây.

Xà nu không chỉ mang ý nghĩa biểu tượng mà còn gắn bó với cộc sống và cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Xà nu gắn bó với người dân Tây Nguyên, ngọn lửa xà nu giữ lửa, giữ ấm trong mỗi bếp. Đuốc xà nu soi sáng đường đi và trong nhà Ưng khi tập hợp dân làng. Khói xà nu làm cho lũ trẻ mặt mày lem luốc, gỗ xà nu làm bảng cho lũ trẻ học bài. Cây xà nu, rừng xà nu còn gắn bó với cuộc chiến đấu, là một chứng nhân lịch sử tham gia trực tiếp vào những sự kiện trọng đại của dân làng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ngọn đuốc xà nu soi sáng cho dân làng mài gươm giáo chuẩn bị khởi nghĩa. Ngọn đuốc xà nu soi sáng cho cụ Mết và thanh niên đ vào rừng. Ánh đuốc xà nu tỏa sáng trong đêm Đồng Khởi soi tỏ mười tên giặc. Nhựa xà nu tẩm đốt mười đầu ngón tay T nú. Đặc biệt hình tượng xà nu được miêu tả như một dũng sĩ luôn che chở cho dân làng Xô Man. “Hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng”. Giữa xà nu và con người có sự đan xen lẫn nhau. Cụ Mết như một cây xà nu đại thụ, T nú như một cây xà nu trưởng thành, Dít là cây xà nu mới lớn, còn bé Heng là cây con mới nhú. Với xây dựng cốt truyện ‘truyện lồng truyện”, xà nu và người luôn đan xen lẫn nhau.

Đối với tác phẩm, hình tượng xà nu góp phần tăng tính sử thi. Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, tác giả Nguyễn Trung Thành đã vẻ lên một bức tranh thiên nhiên về cây xà nu, rừng xà nu. Một hình tượng mang vẻ đẹp anh hùng của nhân dân Tây Nguyên. Một loài cây hùng vĩ man dại cao thượng và trong sạch được tác giả chọn để làm nền và xuyên suốt tác phẩm.

Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành – mẫu 8

Nguyễn Trung Thành là nhà văn của mảnh đất cồng chiêng Tây Nguyên. Truyện ngắn “Rừng xà nu” cũng đã để lại nhiều dấu ấn của một người nghệ sĩ gắn mình với mảnh đất và con người nơi đây. Tác phẩm ra đời năm 1965 tại khu căn cứ của quân giải phóng ở miền Trung Trung Bộ. Những nhân vật trong tác phẩm đều có nguyên mẫu ngoài đời nhưng khi vào trong tác phẩm đã mang ý nghĩa khái quát, cả hình tượng cây xà nu cũng như vậy, đều là hiện thân của một đất nước anh hùng.

Truyện bắt đầu bằng việc khắc họa hình tượng những cây xà nu dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù. Có một điều không thể tránh khỏi, ấy là “hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” rồi “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão” cũng bởi lẽ chiến tranh quá dữ dội và tàn khốc. Hình ảnh “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lướn” lại càng cho thấy rõ hiện thực khốc liệt của chiến tranh dữ dội đến nhường nào. Nhưng dù hiện thực có dữ dội đến đâu đi chăng nữa thì hàng ngàn cây xà nu kia vẫn vươn mình lên trong lửa đạn “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn, mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Dường như xà nu sẽ không bao giờ ngã gục trong chiến tranh và nếu có bị hạ xuống thì nó sẽ lấy cái chết của cây mẹ để làm tiền đề phát triển cho thế hệ cây con. Dưới ngòi bút của Nguyễn Trung Thành hình ảnh những cây xà nu vẫn hiện lên thật đẹp, thật khỏe khoắn. “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng…những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người”. Đến đây, bạn đọc nhận ra hình ảnh những cây xà nu cũng chính là hình ảnh đại diện cho những người dân trên mảnh đất Tây Nguyên, dù chiến tranh có dữ dội, mưa bom bão đạn của kè thù có hủy diệt đi tính mạng của bất kì ai thì những người con của mảnh đất Tây Nguyên vẫn luôn kiên cường, bền bỉ vươn lên một lòng quyết tâm đánh giặc.

Sau ba năm đi lực lượng Tnú mới có cơ hội trở về. Trong đêm hôm ấy tại nhà ưng, toàn bộ câu chuyện về Tnú và những con người anh dũng trên dải đất Tây Nguyên hiện lên thật rõ nét, cụ thể chi tiết qua lời kể của cụ Mết.

Tnú là người con của dân tộc Strá làng Xô Man ở Tây Nguyên. Anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lớn lên trong tình yêu thương, che chở của buôn làng Xô Man, nơi ấy có những cánh rừng xà nu bát ngát đến chân trời. Vì thế, anh có tình yêu làng tha thiết. Tnú mang theo những phẩm chất chung đáng quý của các bậc anh hùng cứu nước thời xưa và cũng có những nét riêng dễ nhận thấy. Ở anh thấm nhuần chất Tây Nguyên từ lời nói cho đến hành động. Anh nói dứt khoát, chắc như đinh đóng cột, hành động thì quả cảm và kiên quyết. Anh hiện lên trong bộ ngực rộng, hai cánh tay chắc nịch, thân thể cường tráng như một cây xà nu lớn. Ngày nhỏ, Tnú cùng Mai đi làm liên lạc được anh Quyết dạy học chữ. Khi học chữ thua Mai Tnú đã “đập bể cái bảng nứa trước mặt Mai và anh Quyết”, “cầm hòn đá tự đập vào đầu chảy máu ròng”. Khi đi làm liên lạc “không bao giờ nó đi đường mòn…xé rừng mà đi…Qua sông nó không thích lội chỗ nước êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang”. Khi bị địch bắt Tnú nhanh trí nuốt luôn lá thư vào bụng dõng dạc trả lời “Cộng sản ở đây này”. Khi lớn lên, Tnú cùng dân làng mài vũ khí để chiến đấu. Tin này đến tai thằng Dục, nó đã tìm cách để bắt Tnú. Không bắt được Tnú, bọn chúng bắt mẹ con Mai hành hạ, đánh đập hết sức dã man. Tnú nấp trong gốc cây cạnh máng nước, anh nghe và nhìn thấy tất cả những gì mà thằng Dục đã nói, đã làm với mẹ con Mai. Dù không có vũ khí trong tay nhưng anh không thể kìm lòng, quyết xông ra. Thế nhưng Tnú không cứu được vợ con. “Tnú không cứu được vợ con” – câu nói mà cụ Mết cứ nhắc đi nhắc lại vang lên như một điệp khúc đau thương. Tnú thì bị bọn giặc thiêu đốt mười đầu ngón tay bằng giẻ tẩm nhựa xà nu. Thế nhưng anh không hề van xin vì anh luôn tâm niệm lời của anh Quyết “Người cộng sản không thèm van xin”. Sau đó cụ Mết đã chỉ huy dân làng cùng xông ra tiêu diệt bọn giặc hung tợn. “Tiếng cụ Mết ồ ồ “Chém! Chém hết!”.

Cuộc nổi dậy của dân làng chứng tỏ câu nói của cụ Mết “Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo” và “Đảng còn, núi nước này còn”. Sự xuất hiện của cụ Mết trong truyện ngắn giống như một kim chỉ nam soi sáng cho tâm hồn buôn làng Xô Man và cuộc nổi dậy của con người nơi đây. Tác giả cũng nhắc đến Dít và bé Heng – những thế hệ xung phong tiếp bước cha anh sau này.

Tất cả góp phần làm bật lên chủ đề của truyện ngắn: thông qua hình ảnh về những con người ơ một bản làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận là lời gửi gắm “để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác”.

“Rừng xà nu” là một thiên truyện mang ý nghĩa và vẻ đẹp của một khúc sử thi trong văn xuôi hiện đại. Với lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, cách xây dựng nhân vật mang chiều sâu hình tượng tác giả đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, của con người và của truyền thống văn hóa Tây Nguyên và làm sáng mãi câu nói của cụ Mết “Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.

Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành – mẫu 9

Rừng xà nu là một truyện ngắn tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi. Cái chất sử thi ấy không chỉ ngấm vào tính cách, số phận của từng nhân vật mà nó còn len lỏi, trú ngụ ở cả dáng hình của những cây xà nu. Không phải ngẫu nhiên tác giả lại chọn hình ảnh cây xà nu để làm nền cho tác phẩm mà chính bởi xà nu là loại cây luôn biểu hiện cho sự sông. Đó là loại cây không bao giờ chịu cúi đầu, nó chỉ biết vươn cao mình để hứng lấy ánh nắng mặt trời. Ân tượng về màu xanh của rừng xà nu là một phần cảm hứng giúp tác giả xây dựng nên hình tượng cây xà nu mang đầy tính nghệ thuật trong truyện ngắn này.

Mở đầu tác phẩm hiện lên hình ảnh rừng xà nu đau thương nhưng quật cường “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương nhựa ứa ra, tràn trề thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”. Với một mở đầu bằng những hình ảnh mất mát đớn đau của rừng xà nu gợi lên trong ta hình ảnh hào hùng về một cuộc chiến tranh bi tráng. Mỗi cây xà nu là một con người “hàng ngàn cây không có cây nào không bị thương” cũng như những con người Việt Nam không có con người nào sông trong chiến tranh mà không đau thương mất mát. Ớ đây, nghệ thuật miêu tả của tác giả đã tới độ chín muồi, hội tụ đầy đủ màu sắc, âm thanh hình khối, hương vị… để tạo nên một bức tranh hoành tráng về rừng xà nu. Hình ảnh những cây xà nu bất khuất, kiên cường vươn lên thẳng tắp mỡ màng lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời được tác giả đổ lên như những chàng trai cường tráng xông pha nơi trận mạc. vẻ đẹp oai linh hùng vĩ đó khó có một tác giả nào có thể khắc họa thành công như Nguyễn Trung Thành. Mặc cho đại bác Mỹ cứ bắn cứ phá – sau mỗi cây gục xuống những mầm cây non lại nhú lên mạnh mẽ hơn.

Hình tượng cây xà nu được tác giả nghiên cứu một cách, tỉ mỉ bằng thị giác, cảm giác, vị giác, xúc giác khiến cho bức tranh hình khối màu sắc hiện lên lung linh lấp lánh mà kì vĩ: “Trong rừng có ít loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như cây xà nu. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô sô’ hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng… ơ đó nhựa còn trong, chất dầu còn loáng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”. Tác giả đã khéo miêu tả nỗi đau của cây như chính nỗi đau của con người; nhức nhối, quằn quại trước khi ra đi. Trái tim ông như ngưng đập, rỉ máu trước những thân cây ngã xuống “bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.” Phải nói Nguyễn Trung Thành đã tạo nên cái độc đáo bậc nhất trong hình tượng cây rừng xà nu nằm đằng sau là hình ảnh ẩn dụ của một dân tộc tràn đầy sức sống đang vươn lên bất tử, phản kháng và ghìm chặt lịch sử để xây nên một trang mới hào hùng, vốn dĩ truyện ngắn Rừng xà nu ra đời vào thời điểm đất nước Việt Nam sục sôi đánh Mỹ, ý chí và lòng hận thù kẻ đã gây tang tóc đau thương cho dân tộc kết tinh lại khiến cho Nguyễn Trung Thành gặt hái được thành công rực rỡ khi thâm nhập vào thế giới của núi rừng cao nguyên. Không phải vô tình mà hình tượng cây xà nu được tác giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong truyện. Đặc biệt là hai hình ảnh mở đầu và kết thúc cũng bằng chính cái hình tượng ám ảnh nghệ thuật đó.

Bằng ngòi bút tài hoa và lòng yêu quê hương, đất nước tha thiết, Nguyễn Trung Thành đã tố cáo tội ác của giặc Mỹ thông qua hình ảnh sinh động của rừng xà nu. Mỗi cây xà nu là bóng dáng của một con người: là một Mai, một Dít, một Heng, một Xút…, những cây cao lớn quật cường là một cụ Mết, một anh Quyết và đó cũng chính là hình tượng gắn liền với con người dũng mãnh gan dạ: Tnú. Tất cả những con người đó làm thành một dân tộc bất khuất cũng như tất cả những cây đó làm thành một rừng xà nu bạt ngàn xanh tốt.

Trơ lì với nỗi đau tận cùng, Tnú đã quay lại làng quê cũng là nơi cất lên nỗi bất hạnh cho vợ con anh dưới ánh lửa bập bùng và niềm sung sướng của dân làng Xô Man. Anh trở lại thăm làng trong một đêm. Diễn biến câu chuyện cũng là chuyện một đêm nhưng đó là chuyện của một đời người; chuyện của một người nhưng cũng là chuyện của một dân tộc. Trong thời gian ngắn, một không gian hẹp, Nguyễn Trung Thành đã vẽ nên hình tượng một dân tộc không ngủ, một dân tộc thao thức vì vận mệnh ngày mai trước bình minh. Khúc lịch sử Xô Man dược cụ Mết kể suốt một đêm dài bên bếp lửa đó là một chuỗi dài của những đau thương bắt đầu bằng cái chết của anh Xút bị chúng treo cổ trên cây vả đầu làng, tiếp theo là những cái chết thảm của bà Nhan, chúng chặt đầu, cột tóctreo đầu súng. Sự hi sinh của anh Quyết, rồi bao nhiêu cái chết nữa… cuối cùng là sự ra đi của đứa con mới một tháng tuổi và của Mai dưới bàn tay tra tấn dã man tàn bạo của giặc. Tất cả như “đặc quyện thành từng cục máu lớn” nhức nhôi, rực lửa trong trái tim Tnú. Nguyễn Trung Thành đã dày công xây dựng nên nhân “át Tnú một người con của núi rừng Tây Nguyên vùng dậy công phá trước sức mạnh hung tàn của quân thù. Anh là một con người dũng cảm gan dạ bat chấp gian khổ hiểm nguy vì cách mạng. Anh có một tình cảm son sắt thủy chung với cách mạng và sớm hiểu ra rằng vận mênh của dân tộc một phần bé nhỏ tùy thuộc vào những con người như anh, trông đợi vào lòng can đảm và ý chí phục thù, rửa nhục nơi anh.

Cùng với Mai, Tnú đã có một lí tưdng chân chính: lí tưởng cách mạng dưới sự dìu dắt của anh Quyết và cũng là sự dìu dắt của Đảng, Tnú sông chiến đấu và bảo vệ cho lí tưởng thiêng liêng cao cả của mình. Những ngày đầu trước thời gian nổi dậy là những ngày khó khăn đôi với Tnú khi phổi học chữ. Anh đã lặng lẽ khóc trong đêm vì sự bất lực, bất tài của mình, vì sự kém cỏi đôi với Mai. Nhưng nhân vật anh Quyết đã đem lại ánh sáng vá quyết tâm lớn cho Tnú. “Tnú phải làm cán hộ thay anh. Khổng học chữ sao lầm được cán hộ giỏi”. Tnú là hiện thân của một sức mạnh nào có thể khuất phục được” nổi. Không phải ngẫu nhiên mà cụ Mết lại mở đầu câu chuyện kể về cuộc đời Tnú, về hình ảnh hai bàn tay cụt ngón. Nó như chứng tích vẫn còn đó thôi thúc ngọn lửa đấu tranh trong lòng người dân Xô Man của mọi tầng lớp già trẻ gái trai đứng lên chiến đấu cho ngày mai. Đứa con ưu tú ấy trưởng thành như đêm nay đã trải qua biết bao khổ đau, biết bao oán thù với tấm lưng làn sâu những dọc ngang vết chém với đôi bàn tav cụt ngón và một trái tim bầm tím vì thương tích vì sự ra đi quằn quại của những người thân. Nơi con người anh hội tụ đầy đủ một sức mạnh cường tráng, một ý chí sắt đá, một tinh thần dũng cảm nhưng anh phải chứng kiến kẻ thù giết hai vợ con một cách hung bạo. Anh không cứu được mẹ con Mai. Trong tột cùng đớn đau, anh cảm thấy không còn gì có thể đớn đau hơn được nữa. Và ngọn lửa kia chỉ có thể đốt cháy những đầu ngón tay anh, không thể đốt được lòng căm thù ngút ngàn trong anh, anh không kêu, không van vì chúng dường như chẳng có nghĩa lí gì đối với một trái tim cũng đang bốc lửa ngùn ngụt.

Những lời anh Quyết lại vang lên “Người cộng sản không thèm kêu van…”. Sức dồn nén đã đến lúc công phá và anh thét lên “Giết”. Đó cũng là hệ quả từ lời kêu gọi của cụ Mết “Hãy nhớ lấy, chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo mác”. Ngay khi đó, Tnú hiểu ra rằng “Tnú không cứu sống được vợ con” vì anh chỉ có bàn tay không mà chúng nó thì cầm súng. Đó làchân lí hiển nhiên của thời đại. Hình ảnh mười ngón tay Tnú bốc cháy “thành mười ngọn đuốc” bằng chính chất nhựa của quên hương mình thật đớn đau và nghịch lí. Lũ giặc điên cuồng kia gieo lên tội ác và chúng đã phải đền tội bằng hậu quả của những chứng tích để lại. Chính cái bàn tay cụt ngón đó lại cầm súng, cầm giáo, cầm mác và bằng chính nó siết chết những kẻ bạo tàn. Đây cũng là triết lí sinh tồn của’người Việt Nam mà Nguyễn Trung Thành đã lấy hình ảnh của Tnú để nói lên sức mạnh của dân tộc: dù bị tàn nhưng không phế mà ngược lại lại vùng lên khốc liệt hơn, mạnh mẽ hơn, sục sôi hơn. Nguyễn Trung Thành buộc Tnú phải giết chết thằng Dục bằng chính bàn tay cụt đốt của mình chứ không phải bằng súng, bằng giáo, cũng là câu trả lời đơn giản cho một cuộc chiến tranh không cân sức giữa một bên là súng đạn với những vũ khí tôi tân và một bên ý chí chiến đấu cộng lại với giáo, mác, gậy gộc…, một bên là những nông dán hiền như đất. Nhân vật Tnú là sự hóa thân của hình tượng Núp trong Đất nước đứng lèn và xa hơn là bóng dáng của những anh hùng trong những bản trường ca Đam San, Xinh Nhã và cũng chính là bóng dáng của những anh hùng đã trưởng thành trong cuộc chiến đấu khốc liệt vì tự do độc lập trong những năm tháng hào hùng của lịch sử dân tộc.

Bên cạnh nhân vật Tnú là nhân vật cụ Mết được tác giả khắc họa đậm nét đầy ấn tượng. Vừa là nhân vật chính, vừa là nhân vật biểu trưng cho văn hóa núi rừng Tây Nguyên, mở đầu bằng sự miêu tả về hình ảnh bằng hình thức cụ thể hóa nhân vật, bằng một chất giọng trầm ấm vang lên trong đêm giữa vùng núi hoang vu hẻo lánh “già làng” Xô Man nhắc nhở những đứa con của đất nước phải nhớ lấy lịch sử của dân tộc, không được phép quên: “Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tao chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe”. Lời cụ Mết cũng như lời kêu gọi của Đảng, như một chân lí chiến đâu “chúng nó đã cầm súng, chứng ta phải cầm giáo”. Nhân vật cụ Mết có ý nghĩa như một mắt xích nối liền quá khứ và hiện tại, là người thẩp đuốc cho ngọn lửa đâu tranh truyền lại lớp lớp thế hệ sau. Một con người dày dạn bất: khuất, kiên cường lúc nào cũng trăn trở trước vận mệnh của dân tộc, luôn dõi theo từng bước đi, từng chiến thắng, thất bại của mỗi người con cụ, vừa đầm ấm chân tình thiết tha nhưng cũng nghiêm khắc đúng mực “Cấp chỉ huy cho về mấy đêm?… Phải chấp hành cho đúng”.

Chúng ta không thể bỏ qua nhân vật Quyết. Dù chỉ xuất hiện rất ngắn trong truyện nhưng nhân vật anh Quyết là hiện thân của Đảng, của cách mạng đã dẫn dắt Tnú và Mai đi nhũng bước chập chững đầu tiên trong con đường đấu tranh vì độc lập của dân tộc. Lời của anh Quyết như một lời nhắc nhủ của Đảng, của cách mạng “Không học chữ làm sao làm được cán bộ giỏi”. Và anh Quyết đã thay Đảng đặt bổn phận, nghĩa vụ lớn lao, thiêng liêng và cao cả lên đôi vai Tnú. “Tnú phải học chữ giỏi thay tui làm cán bộ…”. Sự có mặt của nhân vật Quyết mang đến cho tác phẩm về chiều sâu khái quát. Anh Quyết đã cống hiến cuộc đời mình bất chấp gian khổ hi sinh đấu tranh cho hạnh phúc của núi rừng Tây Nguyên, mở đường cho phong trào kháng chiến mang tính tự giác dưới sự lãnh đạo của Đảng, gắn bó với cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của đất nước.

Mỗi nhân vật hiện lên trong truyện đều được Nguyễn Trung Thành gắn cho một ý nghĩa nhất định. Với Mai, là một người phụ nữ thông minh, trọn tình với cách mạng, là người vợ thủy chung son sắt. Mai cũng là điển hình của người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh, gan dạ, dũng cảm, quật cường dám hi sinh vì Tổ quốc. Dít và Heng là những thế hệ nối tiếp với sức sông và hi vọng tràn trề như những mầm xà nu non mới trỗi dậy và muôn “phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ảnh nắng…”.

Và đây, chúng ta hãy quay lại với tình đoàn kết dân tộc – sức mạnh vô biên của cao nguyên trong đêm Tnú về thăm làng. “Cả làng vây chặt quang Tnú”, “những cặp mắt tròn xoe, những tiếng ré lên, những tiếng reo… […] Những bà già, các cô… ngồi trong nhà cười rúc rích…, một lủ trẻ lau nhau…”. Mỗi khi có chuyện trong làng thì tất thảy đều tập trung để nghe cụ Mết đại diện cho già làng chủ trì. Còn nữa một đêm tập kết đáng nhớ của dân làng Xô Man trong tiếng chiêng trống, trong tiếng đáp lại của vũ khí với sự vùng lên của dân làng giải thoát sự bức bách của cuộc sông, đòi lại sự sinh tồn từ kẻ thù.

Tác phẩm Rừng xà nu như một bản trường ca sử thi vang lên đẫm chất Tây Nguyên, từ tên làng Xô Man, người Strá, Tnú, Dít, Heng… đến “con suối nhỏ có một khúc nứa dẫn nước từ trong lòng đá”, “tiếng chày dồn dập”, “những bà già lụm cụm bò xuống thang”, “món canh tàu môn bạc hà nấu lạt trong ống nứa”… Nguyễn.Trung Thành đã phải tỉ mẩn lắm với những chi tiết nhỏ nhặt lặt vặt để vun đúc lên một khái quát tổng thể về con người và tính cách người Tây Nguyên. Huyền thoại về làng Xô Man sông hẻo lánh hun hút có phần ẩn dật giữa núi rừng dưới sự đùm bọc che chở của rừng xà nu nổi dậy công phá trước sức mạnh hủy diệt của kẻ thù đi qua tầm ngắm của Nguyễn Trung Thành và được nâng lên với vị thế lớn lao hơn với tầm vóc nhân loại.

Tác phẩm đọng lại với hình ảnh rừng xà nu lại trở về, vẫn trong cảm hứng sử thi thấp thoáng dưới bóng dáng hùng vĩ, vạm vỡ và hoành tráng của núi rừng trải dài hút tầm mắt trong màu xanh bạt ngàn xà nu hứa hẹn một tương lai mới lấp lánh như ánh nắng hè.

Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành – mẫu 10

Nguyễn Trung Thành (bút danh khác là Nguyên Ngọc) là cây bút gắn bó với con người và vùng đất Tây Nguyên kiên cường, bất khuất. Ông đặc biệt thành công khi viết về Tây Nguyên qua tiểu thuyết Đất nước đứng lên và truyện ngắn Rừng xà nu. Rừng xà nu được ra đời trong những năm tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ (năm 1965), tác phẩm đã đưa người đọc trở về với vùng đất Tây Nguyên đau thương mà anh dũng, kiên cường. Với Rừng xà nu dường như ông đã khẳng định được vị trí số một của mình trong mảng đề tài viết về Tây Nguyên. Bởi đây là một tác phẩm kết tinh được những vẻ đẹp truyền thống của Tây Nguyên hùng vĩ. Vẻ đẹp đó không chỉ được thể hiện ở hình tượng đặc sắc cây xà nu mà còn ở cả một hệ thống các nhân vật được người đọc trân trọng, yêu mến như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít và bé Heng.

Điểm giống nhau của các nhân vật được nhà văn thể hiện trong truyện là ở chỗ tất cả họ đều là những dũng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh của thế trận chiến tranh nhân dân ở Tây Nguyên thời chống Mĩ. Họ đều là những con người có lòng yêu nước nồng nàn, có chí căm thù giặc sâu sắc, có tinh thần gan dạ, dũng cảm, có khí phách hiên ngang, bất khuất trước kẻ thù và sống gắn bó, trung thành tuyệt đối với cách mạng.

Bên cạnh những phẩm chất chung ấy, mỗi người trong số họ còn mang những vẻ đẹp riêng khác nhau gắn với các thế hệ con người Tây Nguyên. Theo cách miêu tả của nhà văn, cụ Mết, một già làng 60 tuổi là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ thứ nhất – thế hệ cha anh. Ở cụ còn in đậm những dấu ấn siêu phàm của những người già bản trong các truyện thần thoại, các khan ở Tây Nguyên. Đó là một người quắc thước, có tiếng nói ồ ồ vang dội trong lồng ngực, có bàn tay nặng trịch, rắn chắc như một kìm sắt, râu đen bóng dài tới ngực, cặp mắt sáng và xếch, vết sẹo ở má phải láng bóng. Cụ ở trần ngực căng như một cây xà nu lớn. Cụ được xem là linh hồn trong cuộc chiến đấu của dân làng Xô-man, là người nuôi dưỡng ngọn lửa khát vọng tự do, là cầu nối giữa dân làng Xô-man với Đảng. Cụ hiểu rõ và có ý thức sâu sắc về đường lối cách mạng của Đảng. Cụ đã nói với Tnú và dân làng Xô Man: phải dự trữ gạo cho mỗi bếp được ba năm, đánh Mĩ là phải đánh dài. Và từ những trải nghiệm bằng máu và nước mắt cụ đã căn dặn lũ làng một chân lí lịch sử: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo. Rồi chính cụ đã chỉ huy tất cả thanh niên làng Xô-man cầm giáo, mác, dao, rựa bất ngờ xông ra chém ngục mười tên ác ôn sau những tiếng hô sắc lạnh: Chém, chém hết! Cũng chính cụ đã chống giáo xuống nền nhà rông như một lời thề quyết đánh và vang vang truyền hịch: Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Nếu không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên! Ngay sau đó, lập tức chiêng trống nổi lên, lửa cháy khắp rừng, suốt đêm cả rừng Xô-man ào ào rung động. Không chỉ thế, cụ Mết còn được xem như một cuốn biên niên sử của dân Xô-man. Cụ kể chuyện Tnú cho dân làng nghe, tưởng như cụ đang kể để người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ.

Ở cụ, từ hình dáng, diện mạo đến giọng nói, tư tưởng và hành động đều mang đậm màu sắc huyền thoại, phi thường. Và nói như Nguyễn Trung Thành thì cụ là cội nguồn, là Tây Nguyên thời Đất nước đứng lên còn trường tồn đến ngày hôm nay. Cụ như lịch sử bao trùm nhưng không che lấp đi sự mãnh liệt, sôi nổi và tự giác của thế hệ sau.

Cùng với Tnú là Dít – một cô bí thư chi bộ mới chừng 17-18 tuổi nhưng rất có bản lĩnh. Dít là người dũng cảm kế tiếp con đường của Mai. Ngay từ nhỏ cô đã tỏ ra rất gan dạ: khi Mai cùng đứa con nhỏ bị giặc giết hại, dân làng ai cùng khóc nhưng Dít câm lặng, mắt ráo hoảnh, nuốt hận vào bên trong. Rồi khi dân làng Xô-man bị bao vây, thằng Dục khát máu ra lệnh: Đứa nào ra khỏi làng, bắt được, bắn chết ngay tại chỗ nhưng Dít vẫn bò theo mang nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết và lũ thanh niên. Giặc bắt được Dít, chúng nó biến Dít thành một tấm bia sống. Nghĩa là giặc không bắn trúng mà bắn hăm dọa, nó im bặt và nhìn lũ giặc bằng ánh mắt thản nhiên lạ lùng. Dít nén đau thương và căm thù, cô tích cực tham gia cách mạng, trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội, rất chững chạc và nghiêm túc trong công việc. Điều này được thể hiện ở chi tiết Tnú về thăm làng một đêm, với cương vị của mình Dít đã giữ đúng nguyên tắc là hỏi giấy và ngay sau đó thì lại rất tình cảm. Cô nói với Tnú: Sao anh về có một đêm thôi? Bọn em đứa nào cũng nhớ anh. Càng lớn Dít càng giống Mai: cái mũi hơi tròn, lông mày đậm, đôi mắt mở to bình thản, trong suốt, khiến cho Tnú xúc động. Anh cảm thấy trước mắt anh là Mai đấy và Tnú bất chợt nghe một luồng lạnh rân rân ở mặt và ngực. Đối với dân làng và bé Heng, Dít cũng luôn chiếm được tình cảm quý trọng và sự ủng hộ tích cực. Trong suy nghĩ của bé Heng, dường như chị Dít nói gì cũng đúng và phải thực hiện nghiêm chỉnh. Ví như, bé Heng nói với Tnú: Rửa chân đi, nhưng đừng uống nước lạnh, về chị Dít phê bình cho đấy. Có thể nói, nhà văn đã dành những tình cảm trân trọng, yêu mến xen lẫn với sự khâm phục khi nói về Mai và Dít. Họ là những người phụ nữ Tây Nguyên tiêu biểu thể hiện được vai trò của mình trong chiến tranh cách mạng. Và đây cũng là một bước phát triển mới đáng ghi nhận trong quan điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật của nhà văn -khi viết về đề tài Tây Nguyên.

Còn bé Heng là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ măng non ở núi rừng Tây Nguyên. Heng là nhân vật phụ nhưng thiếu nó thì bức tranh về vẻ đẹp truyền thống ở Tây Nguyên sẽ không hoàn chỉnh. Heng tuy tuổi đời còn nhỏ nhưng đã có dáng vẻ của một tiểu anh hùng. Em luôn khao khát và rất mong được như những anh chị du kích, như những chiến sĩ giải phóng (em muốn có một bộ quân phục như một người lính thực sự). Em hăng hái và nhiệt tình tham gia cách mạng. Em thông thuộc từng hố chông, từng chiến điểm khi dẫn Tnú về làng. Sự năng nổ, háo hức và sự nhiệt tình của bé Heng đã khiến cho người đọc tin tưởng rằng, đó sẽ là lớp người kế tục xứng đáng những truyền thống anh hùng bất khuất của cha ông, của Tây Nguyên hùng vĩ.

Thế hệ trẻ Tây nguyên được Nguyễn Trung Thành thể hiện trong tác phẩm là những con người gan góc dũng cảm, nhiệt thành yêu nước, sớm giác ngộ lí tưởng cách mạng, không ngại khó khăn gian khổ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Tuy ở họ còn có nhược điểm là thiếu kinh nghiệm trong đấu tranh với kẻ thù nhưng dù sao qua tác phẩm này, nhà văn vẫn khẳng định họ là những người kế thừa xứng đáng truyền thống của cha ông, là lực lượng nòng cốt nhất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc.

Đọc Rừng xà nu chúng ta thực sự xúc động trước cảnh vật và con người Tây Nguyên. Chúng ta càng thêm yêu mến, trân trọng hơn những con người Tây nguyên anh hùng, bất khuất, có tâm hồn trong sáng, giàu tình cảm thủy chung, nhiệt tình tham gia cách mạng. Có được tình cảm đó, một phần không nhỏ là do chúng ta tiếp nhận được qua vẻ đẹp của các nhân vật như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng mà nhà văn đã thể hiện trong tác phẩm. Việc khắc họa thành công vẻ đẹp riêng của các nhân vật này đã tái hiện lại cái không khí hào hùng của một thời kì lịch sử, chứng tỏ Nguyễn Trung Thành là một cây bút già dặn, giàu cảm xúc, giàu tài năng và sáng tạo. Sự thành công đó chính là một yếu tố quan trọng làm nên tầm vóc giá trị và sức sống lâu bền của tác phẩm.

Bài giảng: Rừng Xà Nu – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên cmm.edu.vn)

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 12

Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Cách đây 40 năm về trước, mặc dù miền Bắc XHCN khi đó đang nặng hai vai gánh cả non sông vượt dặm dài, vừa là hậu phương lớn chi viện tích cực cho các chiến trường với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, vừa là tiền tuyến đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo vẫn không ngừng phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt và sự nghiệp tái thiết đất nước lâu dài sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu của công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch các vùng kinh tế mới,vùng chuyên canh, xây dựng các nông trường, Bộ Nông trường ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) đã có Quyết định số 115 QĐ/TC ngày 05 th áng 9 năm 1968 về việc mở Lớp công nhân đo dạc - tiền thân của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung ngày nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button