Văn mẫu lớp 10

Sơ đồ tư duy bài Ra-ma buộc tội dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Ra-ma buộc tội dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Ra-ma buộc tội dễ nhớ, ngắn gọn

Nhằm mục đích giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức, nội dung các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 10, chúng tôi biên soạn bài viết Sơ đồ tư duy bài Ra-ma buộc tội dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ các nội dung như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, bố cục, dàn ý phân tích, bài văn mẫu phân tích, …. Hi vọng qua Sơ đồ tư duy bài Ra-ma buộc tội sẽ giúp học sinh nắm được nội dung cơ bản của Sơ đồ tư duy bài Ra-ma buộc tội.

Bạn đang xem bài: Sơ đồ tư duy bài Ra-ma buộc tội dễ nhớ, ngắn gọn

A. Sơ đồ tư duy bài Ra-ma buộc tội

Sơ đồ tư duy bài Ra-ma buộc tội
Sơ đồ tư duy bài Ra-ma buộc tội

B. Tìm hiểu bài Ra-ma buộc tội

I. TÁC PHẨM

1.Thể loại: Sử thi.

Là các tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn từ có vần, nhịp, xây dựng các hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hay nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại.

2.Vị trí đoạn trích: Chương 79, khúc ca VI của sử thi “Ra-ma-ya-na”.

3.Tóm tắt đoạn trích

Ra-ma nghi ngờ Xi-ta không còn trong trắng khi ở trong vạt áo của Ra-va-na, chàng kết tội nàng, đuổi vợ đi. Xi-ta bước vào giàn thiêu để chứng tỏ lòng chung thủy của mình.

4. Bố cục

+ Phần 1 (Từ đầu đến được lâu): Cơn giận dữ và diễn biến tâm trạng của Ra-ma.

+ Phần 2 (Còn lại): Tự khẳng định và diễn biến tâm trạng của Xi-ta.

5. Giá trị nội dung

Quan niệm của người Ấn Độ cổ đại về người anh hùng, đức vua mẫu mực và người phụ nữ lý tưởng.

6. Giá trị nghệ thuật

Nghệ thuật của sử thi Ấn Độ: Thể hiện nội tâm nhân vật, xung đột giàu tính kịch, giọng điệu kể chuyện hấp dẫn.

DÀN Ý PHÂN TÍCH

I. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về đoạn trích “Ra-ma buộc tội” (giá trị nội dung, nghệ thuật).

II. Thân bài

1. Giới thiệu khái quát vềđoạn trích “Ra-ma buộc tội

– Vị trí đoạn trích: Chương 79, khúc ca VI của sử thi “Ra-ma-ya-na”.

– Tóm tắt đoạn trích:

Ra-ma nghi ngờ Xi-ta không còn trong trắng khi ở trong vạt áo của Ra-va-na, chàng kết tội nàng, đuổi vợ đi. Xi-ta bước vào giàn thiêu để chứng tỏ lòng chung thủy của mình.

2.Diễn biến tâm trạng của Rama

– Không gian: cộng đồng.

Ra-ma đứng trong tư cách kép:

+ Tư cách 1 người chồng.

+ Tư cách 1 vị anh hùng, 1 đức vua.

– Động cơ chiến đấu: Danh dự người anh hùng bị xúc phạm và tình chồng vợ, khao khát đoàn tụ gia đình.

– Ra-ma vẫn ruồng bỏ vợ, phủ nhận tình cảm vợ chồng vì danh dự của một vị vua.

– Ra-ma buộc tội:

+ Yêu thương xót xa người vợ.

+ Giữ bổn phận gương mẫu của một đức vua.

– Ngôn ngữ: Không thăng bằng, không chín chắn, bối rối, thiếu rành mạch, lúng túng→Mâu thuẫn tâm trạng.

– Cách xưng hô: “Ta”, “ Phu nhân cao quý”.

→ Sự xa cách về quan hệ, sự chia li trong tâm hồn.

– Lời lẽ thô bạo (Nàng có thể để tâm đến Lắc-ma-na, Bha-ra-ta, Xa-tru-na, Xu-gri-va hay nếu nàng thích, nàng có thể đi theo Vi-phi-sa-na cũng được).

– Khi Xi-ta chuẩn bị bước lên giàn hỏa thiêu:

+ “Nom chàng khủng khiếp như thần chết vậy”.

+ Ra-ma vẫn ngồi, mắt dán xuống đất.

+ Kiên quyết hi sinh tình yêu.

+ Chịu thử thách dữ dội.

→Ra-ma chọn bổn phận danh dự của người anh hùng, đức vua mẫu mực.

3.Diễn biến tâm trạng Xi-ta

– Ngạc nhiên sững sờ, xấu hổ trước mọi người.

– Đau khổ không thể nào kìm chế “đau đớn đến nghẹt thở, như một dây leo bị vòi voi vụt nát…”.

– Thanh minh: Lấy lại tự chủ, lời nói dịu dàng, rõ ràng thấu tình đạt lý.

– Bình thản bước vào giàn hỏa thiêu.

Người phụ nữ có phẩm chất cao đẹp sẵn sàng lấy cái chết để chứng minh cho tình yêu và đức hạnh.

III. Kết bài

– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật.

+ Nội dung:Xây dựng hình tượng người anh hùng gần gũi với đời thường, trọng danh dự (sẵn sàng hi sinh tình yêu để bảo vệ danh dự). Xây dựng hình tượng người phụ nữ lí tưởng mạnh mẽ: Sẵn sàng hi sinh mạng sống để chứng minh tình yêu và đức hạnh của mình.

+ Nghệ thuật:Tạo dựng tình huống kịch tính, hấp dẫn. Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc. Lời văn linh hoạt (kể, tả, đối thoại).

IV. MỘT SỐ CÂU HỎI ĐỌC HIỂU VÀ BÀI PHÂN TÍCH

Câu hỏi:Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi từ 1 đến 4:

Đọc những câu văn sau đây và trả lời câu hỏi:

“Nói dứt lời, Gia-na-ki lượn quanh giàn thiêu rồi dũng cảm bước vào ngọn lửa. Ai nấy, già cũng như trẻ, đau lòng đứt ruột xem nàng Gia-na-ki đứng trong giàn hỏa. Trước mặt mọi người, trang tuyệt thế giai nhân đó nạp mình cho lửa. Các bậc thánh, các chư thần nhìn Gia-na-ki bước vào lửa, chẳng khác một lễ vật trong lễ tế sinh.”

(Trích “Ra-ma buộc tội”, SGK, Ngữ văn 10, tập 1, tr.59)

  1. Xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn trích trên?
  2. Thái độ của công chúng trước cảnh bước vào giàn lửanhư thế nào?
  3. Viết đoạn văn ngắn (5 đến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ về hình ảnh Xi-ta (Gia-na-ki) bước vào giàn lửa dể chứng tỏ sự trong sạch của mình?

Trả lời:

1/ Phương thức biểu đạt chính trong đoạn trích trên là tự sự.

2/ Thái độ của công chúng trước cảnh bước vào giàn lửa: già cũng như trẻ, đau lòng đứt ruột, Các bậc thánh, các chư thần nhìn Gia-na-ki bước vào lửa, chẳng khác một lễ vật trong lễ tế sinh.

3/ Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu:

-Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, cảm xúc chân thành.

-Nội dung:

+ Hình ảnh Xi-ta (Gia-na-ki) bước vào giàn lửa cho thấy sự dũng cảm, coi trọng nhân phẩm của một người vợ cao hơn mạng sống của mình.

+ Hơn nữa, cho thấy tấm lòng trinh bạch, trong sáng, nổi bật đức hạnh của người vợ.

+ Hình ảnh Xi-ta bước vào giàn lửanhư tỏa ánh hào quang càng đẹp đẽ, cao cả hơn trong mắt mọi người chứng kiến.

Bài phân tích

Phân tích đoạn trích “Ra-ma buộc tội”

Ra-ma-ya-na là thiên sử thi Ấn Độ nổi tiếng thế giới, ra đời vào khoảng thế kỉ thứ III trước Công Nguyên. Tác phẩm liên tục được nhiều thế hệ tu sĩ – thi nhân bổ sung về nội dung, trau chuốt về nghệ thuật và đạo sĩ Van-mi-ki là người hoàn thiện cuối cùng.

Đoạn trích “Ra-ma buộc tội” kể về sự kiện hoàng tử Ra-ma sau khi hạ gục quỷ vương Ra-va-na đã giành lại được người vợ yêu quý là nàng Xi-ta kiều diễm. Vợ chồng gặp lại nhau, Xi-ta vui mừng khôn xiết. Nhưng hoàng tử Ra-ma nghi ngờ vợ mình không giữ được trọn vẹn danh tiết trong thời gian bị quỷ Ra-va-na bắt cóc nên đã tuyên bố từ bỏ nàng. Xi-ta không thể thanh minh nên đành bước lên giàn hoả thiêu, nhờ thần Lửa A-nhi chứng giám cho đức hạnh trung trinh của mình. Qua nội dung đoạn trích, các tác giả đã thể hiện quan điểm về Vị vua mẫu mực (Ra-ma) và về người phụ nữ lí tưởng (Xi-ta) của dân tộc Ấn Độ cổ xưa.

Có thể nói Ra-ma là nhân vật hội tụ đẩy đủ những nét tính cách của một vị vua anh hùng như ao ước của dân chúng thời đại đó. Tính cách cao quý của chàng được thể hiện rõ trong mọi tình huống và tình huống ở đoạn trích này là khá đặc biệt. Theo quy luật tâm lí thông thường thì lẽ ra gặp lại vợ sau một thời gian dài xa cách Ra-ma phải hết sức vui mừng và niềm vui to lớn ấy sẽ chi phối mọi suy nghĩ cùng hành động của chàng. Thế nhưng Ra-ma lại không như vậy. Chàng nói với Xi-ta: “Hỡi phu nhân cao quý! Ta đưa nàng tới đây sau khi đã đánh bại kẻ thù. Ta đã làm tất cả bằng khả năng của mình. Ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta và cơn giận của ta đã hả. Ngày hôm nay, ai nấy đều đả được chứng kiến tài nghệ của ta. Ta đã làm tròn lời , và giờ đây không còn gì vướng mắc với chính mình. Nàng đã bị gã Rắc-sa-xa tâm địa xảo trá bắt cóc khi vắng mặt ta, đó là do số phận của nàng xui nên, nhưng ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu khống. Kẻ nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra trả thù là kẻ tầm thường.” Rõ ràng là khẩu khí của người anh hùng tài ba và coi trọng danh dự hơn cả mạng sống của bản thân. Ra-ma đã chiến đấu và chiến thắng quỷ vương Ra-va-na trước hết là vì danh dự dòng dõi cao quý của mình, vốn là người thẳng thắn, trung thực, chàng không giấu diếm suy nghĩ về người vợ mà chàng vừa giành lại được từ tay quỷ vương:… “Phải biết chắc điều này: chẳng phải vì nàng mà ta đã đánh thắng kẻ thù với sự giúp đỡ của bạn bè. Ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta, để xóa bỏ vết ô nhục, để bảo vệ uy tín và danh dự của dòng họ lừng lẫy tiếng tăm của ta. Ta làm điều đó chính là để chứng tỏ ta không thuộc về một gia đình bình thường.” Cuộc gặp gỡ giữa Ra-ma và Xi-ta không chỉ có hai người mà diễn ra trước đông đảo anh em, bạn hữu và dân chúng. Vì thế Ra-ma không thể chỉ cư xử với tư cách của một người chồng mà còn với tư cách của một vị anh hùng vừa chiến thắng kẻ thù một cách vinh quang và cao hơn nữa là tư cách của một đấng quân vương. Do vậy ta không thể trách Ra-ma quá lạnh lùng, tàn nhẫn, vì con người của giai cấp, con người của xã hội trong chàng buộc chàng phải cư xử như vậy với người vợ mà chàng trân trọng gọi là phu nhân cao quý. Suy nghĩ của hoàng tử Ra-ma tiêu biểu cho quan điểm đạo đức của giai cấp quý tộc Ấn Độ thời đó. Tuy nhiên, nó cũng có những điều gần gũi với suy nghĩ của phần lớn đàn ông trong xã hội phong kiến với rất nhiều ràng buộc khắt khe. Đối với Ra-ma thì danh dự của bản thân, gia đình và dòng tộc là quan trọng nhất, cho nên dẫu yêu thương người vợ hiền thục, xinh đẹp đến mấy đi chăng nữa thì chàng vẫn phải chối từ vì không thể vượt lên trên dư luận.

Những lời nói của hoàng tử Ra-ma khiến Xi-ta tan nát cả cõi lòng; nàng “đau đớn đến nghẹt thở, như một dây leo bị vòi voi quật nát. Nghe những lời tố cáo chưa từng có, trước mặt đông đủ mọi người, Gia-na-ki xấu hổ cho số kiếp của nàng. Nàng muốn tự chôn vùi cả hình hài thân xác của mình. Mỗi lời nói của Ra-ma xuyên vào trái tim nàng như một mũi tên. Nước mắt nàng đổ ra như suối. Lấy tà áo lau nước mắt, rồi bằng giọng nghẹn ngào, nức nở, nàng nói: “Cớ sao chàng lại dùng những lời lẽ gay gắt khó tả như vậy đối với thiếp, giống như một kẻ thấp hèn chửi mắng một con mụ thấp hèn? Thiếp đâu phải là người như chàng tưởng! Thiếp có thể lấy tư cách của thiếp ra mà thề, hãy tin vào danh dự của thiếp. Suy từ hành vi của loại phụ nữ thấp hèn, chàng đã ngờ vực tất cả giới phụ nữ, nhưng như thế đâu có phải. Nếu chàng có hiểu biết thiếp chút đỉnh thì xin hãy từ bỏ mối ngờ vực không căn cứ đó đi.” Trong đau đớn và tủi nhục vì bị chồng nghi ngờ và từ bỏ, nàng Xi-ta xinh đẹp vẫn khẳng khái lạ lùng. Giống như hoàng tử Ra-ma, nàng cũng coi danh dự là điều cao quý nhất. Nàng không ngại ngần so sánh chàng với những kẻ thấp hèn vì nàng cho rằng chàng không nên nói những lời ngờ vực không căn cứ như vậy với nàng – một con người có dòng dõi cao quý không kém gì chàng, bởi nàng chính là con gái của thần Đất Mẹ Pri-thi-vi được tôn thờ. Nàng (trách móc Ra-ma: Vì không thể suy xét cho đúng đắn, chàng đã không hiểu được bản chất của thiếp. Chàng không nghĩ đến vì sao hồi còn thanh niên chàng đã cưới thiếp. Tình yêu của thiếp, lòng trung thành của thiếp nay xem ra hoàn toàn vô ích. Trong cơn tuyệt vọng trước thái độ khó lay chuyển của hoàng tử Ra-ma, Xi-ta chi còn cách duy nhất là nhờ thần Lửa A-nhi minh oan cho mình: “Nếu con trước sau một lòng một dạ với Ra-ma thì cúi xin thần hãy tìm cách bảo vệ con. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối, nhưng nếu con trong trắng, xin thần A-nhi phù hộ cho con.” Như vậy là đức hạnh trung trinh cùng lòng dũng cảm tuyệt vời của nàng Xi-ta đã làm chấn động cả thần thánh, con người và ma quỷ. Tất thảy đều rơi lệ trước nỗi oan của nàng. Cuối cùng, đúng như lời cầu xin của Xi-ta, thần Lửa A-nhi đã giải oan và bảo vệ nàng nguyên vẹn.

Đoạn trích “Ra-ma buộc tội” giống như một màn kịch ngắn mà kịch tính được đẩy lên cao độ. Hai nhân vật chính là Ra-ma và Xi-ta đều bị đặt trước những thử thách ngặt nghèo, đòi hỏi sự lựa chọn quyết liệt, bộc lộ sâu sắc cá tính và bản chất của mình. Hoàng tử Ra-ma đem hết sức mạnh và tài năng để chiến đấu với quỷ vương Ra-va-na để giành lại người vợ yêu quý, nhưng chàng cũng dám hi sinh tình yêu vì danh dự, bổn phận của một người anh hùng, một đức vua mẫu mực. Nàng Xi-ta xinh đẹp, trong trắng cũng là hình ảnh của một người phụ nữ lí tưởng. Nàng đã can đảm bước vào lửa để chứng minh tình yêu tha thiết cùng đức hạnh thủy chung của mình đối với hoàng tử Ra-ma cao quý.

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 10

Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Cách đây 40 năm về trước, mặc dù miền Bắc XHCN khi đó đang nặng hai vai gánh cả non sông vượt dặm dài, vừa là hậu phương lớn chi viện tích cực cho các chiến trường với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, vừa là tiền tuyến đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo vẫn không ngừng phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt và sự nghiệp tái thiết đất nước lâu dài sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu của công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch các vùng kinh tế mới,vùng chuyên canh, xây dựng các nông trường, Bộ Nông trường ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) đã có Quyết định số 115 QĐ/TC ngày 05 th áng 9 năm 1968 về việc mở Lớp công nhân đo dạc - tiền thân của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung ngày nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button