Sơ đồ tư duy bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy dễ nhớ, ngắn gọn
Sơ đồ tư duy bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy dễ nhớ, ngắn gọn
Nhằm mục đích giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức, nội dung các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 10, chúng tôi biên soạn bài viết Sơ đồ tư duy bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ các nội dung như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, bố cục, dàn ý phân tích, bài văn mẫu phân tích, …. Hi vọng qua Sơ đồ tư duy bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy sẽ giúp học sinh nắm được nội dung cơ bản của Sơ đồ tư duy bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy.
Bạn đang xem bài: Sơ đồ tư duy bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy dễ nhớ, ngắn gọn
A. Sơ đồ tư duy bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy
B. Tìm hiểu bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy
I. TÁC PHẨM
1.Thể loại: Truyền thuyết.
Là các tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử (hoặc có liên quan đến lịch sử) phần lớn theo xu hướng lí tưởng hóa, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với những người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng cư dân của một vùng. Bên cạnh đó có những truyền thuyết vừa đề cao, vừa phê phán nhân vật lịch sử.
2.Vị trí đoạn trích
– “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” được trích từ “Truyện Rùa Vàng” trong “Lĩnh Nam chích quái” vào cuối thế kỉ XV.
3.Tóm tắt đoạn trích
An Dương Vương được Rùa Vàng giúp xây thành Cổ Loa, được tặng vuốt làm nỏ thần. Nỏ thần nhiều lần giúp vua thắng giặc phương Bắc. Con trai Triệu Đà là Trọng Thủy sang ở rể đã đánh cắp nỏ thần. Triệu Đà đem quân đánh Âu Lạc. An Dương Vương thua chạy, chém Mị Châu, rẽ nước xuống biển. Trọng Thủy nhớMị Châu, lao đầu xuống giếng mà chết.
4. Bố cục
+ Đoạn 1 (Từ đầu đến … bèn xin hòa):An Dương Vương xây thành, chế nỏ bảo vệ vững chắc đất nước.
+ Đoạn 2 (Tiếp theo đến … vua xuống biển): Cảnh nước mất nhà tan.
+Đoạn 3 (Còn lại): Thái độ của tác giả dân gian đối với Mị Châu.
5. Giá trị nội dung
Bài học dựng nước và bài học từ việc nước mất nhà tan.
6. Giá trị nghệ thuật
– Hình tượng nhân vật, chi tiết hư cấu nghệ thuật.
– Cốt truyện li kì hấp dẫn.
– Xây dựng hình ảnh giàu chất tư tưởng, thẫm mĩ.
DÀN Ý PHÂN TÍCH
I. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” (vị trí, thể loại, giá trị nội dung, nghệ thuật).
II. Thân bài
1. An Dương Vương xây thành, chế nỏ và bảo vệ đất nước
*Xây thành
– Thành đắp tới đâu lại lở tới đó.
– Lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần.
– Lắng nghe cụ già, mời sứ Thanh Giang giúp đỡ.
→Có lòng kiên trì quyết tâm, có ý thức đề cao cảnh giác.
*Chế nỏ
– Nhà vua băn khoăn: “Nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống”.
– Rùa Vàng cho vuốt làm lẫy nỏ.
→Được giúp đỡ vì có ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ đất nước.
*Bảo vệ đất nước: Dùng nỏ thần đánh bại quân Đà.
Sự trợ giúp của thần linh: nhân dân ca ngợi nhà vua, tự hào về những thành quả và các chiến công.
→ An Dương Vương là 1 vị vua tài trí, anh minh, sáng suốt, có trách nhiệm được thần linh và nhân dân ủng hộ.
→ Bài học: Dựng nước phải đi liền với giữ nước (dựng nước đã khó, giữ nước lại càng khó hơn).
– An Dương Vương chiến thắng quân xâm lược do:
+ Có thành ốc kiên cố.
+ Có nỏ thần kì diệu trăm phát trăm trúng.
+ Đặc biệt là có tinh thần cảnh giác cao độ, ý thức trách nhiệm cao với đất nước.
2. Cảnh nước mất nhà tan
– Nguyên nhân:
+ Nhận lời cầu hòa, gả con gái cho con trai kẻ thù.
+ Cho Trọng Thủy ở rể ngay trong Loa Thành.
→Tỏ ra mơ hồ về bản chất ngoan cố và âm mưu thâm độc của kẻ thù.
+ Khi giặc đến chân thành: vẫn mãi lo chơi cờ, cười nhạo kẻ thù.
→Chủ quan, ỷ lại vào vũ khí mà không lo phòng bị.
→ Tự chuốc lấy thất bại do tự phạm nhiều sai lầm.
– Nhờ tiếng thét lớn của Rùa Vàng → Lời kết tội đanh thép của công lý, nhà vua tỉnh ngộ và rút gươm chém đầu con gái → Hành động quyết liệt, dứt khoát, nghiêm khắc.
– Kết cục: cầm sừng tê giác rẽ nước đi xuống biển → Sự bất tử của An Dương Vương.
Thể hiện lòng kính trọng, tôn thờ và biết ơn của nhân dân.
– Ý nghĩa của những hư cấu nghệ thuật:
+ Thể hiện lòng kính trọng của nhân dân đối với thái độ dũng cảm, kiên quyết đặt nghĩa nước (cái chung) lên trên tình nhà (cái riêng) của An Dương Vương.
+ Là lời giải thích cho lí do mất nước nhằm xoa dịu nỗi đau mất nước của một dân tộc yêu nước nồng nàn nay lần đầu tiên bị mất nước (Nhân dân ta khẳng định dứt khoát rằng An Dương Vương và dân tộc Việt mất nước không do kém cỏi về tài năng mà bởi kẻ thù quá nham hiểm, dùng thủ đoạn hèn hạ (lợi dụng một người con gái ngây thơ, cả tin) và vô nhân đạo (lợi dụng tình yêu nam nữ).
+ Rùa Vàng – hiện thân của trí tuệ sáng suốt, là tiếng nói phán quyết mạnh mẽ của cha ông.
→ Những chi tiết hư cấu thể hiện thái độ nghiêm khắc cùng bài học lịch sử: luôn luôn cảnh giác với kẻ thù, sáng suốt trong mối quan hệ riệng – chung, nước – nhà.
3. Hình ảnh ngọc trai – giếng nước
a) Nhân vật Mị Châu
–Sai lầm lớn nhất:vô tình tiết lộ bí mật về nỏ thần cho Trọng Thủy.
→ Ngây thơ, cả tin, mất cảnh giác.
– Nghe lời chồng: rắc lông ngỗng đánh dấu, giúp kẻ thù truy đuổi theo hai cha con.
→Bị tình cảm làm cho lu mờ lí trí.
–Bị kết tội là giặc và bị trừng trị.
→Phải trả giá cho sự cả tin đến mù quáng của mình.
– Được minh oan:
+ Lời nguyền trước khi chết:
“Nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha…nhục thù”→ minh chứng cho tấm lòng trung hiếu, giãi bày cho nỗi oan bị lừa dối.
+ Hóa thân kiểu phân thân: máu biến thành ngọc trai →Sự cảm thông, bao dung của nhân dân.
→ Bài học lịch sử:phải đặt đúng đắn mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng, giữa tình nhà với nợ nước.
b) Nhân vật Trọng Thủy
– Ban đầu:
+ Nghe lời vua cha thực hiện âm mưu đánh tráo nỏ thần.
+ Lừa dối Mị Châu.
→ Là tên gián điệp nguy hiểm, kẻ thù của dân tộc.
– Khi Mị Châu chết:
+ Khóc lóc, ôm xác vợ về táng ở Loa Thành.
+ Lao đầu xuống giếng tự tử.
→Tình cảm thực sự với vợ mới xuất hiện, nhưng tất cả đã quá muộn màng.
→ Là nạn nhân của vua cha, của chiến tranh xâm lược.
c) Hình ảnh ngọc trai – giếng nước
–Không nhằm ca ngợi kẻ thù cũng như tình yêu chung thủy.
– Là sự minh oan cho tấm lòng trong sáng của Mị Châu.
– Nhân dân mong muốn hóa giải tội lỗi cho Trọng Thủy.
→ Cách ứng xử thấu tình đạt lí của nhân dân.
III. Kết bài
– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật.
+ Nội dung: Bi kịch nước mất nhà tan và bi kịch tình yêu tan vỡ được phản ánh trong truyền thuyết Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, bài học lịch sử về tinh thần cảnh giác với kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng với chung, nhà với nước, cá nhân với cộng đồng.
+ Nghệ thuật: Cốt truyện li kì hấp dẫn, xây dựng hình ảnh giàu chất tư tưởng, thẫm mĩ.
IV. MỘT SỐ CÂU HỎI ĐỌC HIỂU VÀ BÀI PHÂN TÍCH
Câu hỏi:Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi từ 1 đến 4:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu…
( Trích bài thơ Tâm sự– Tố Hữu)
- Nêu những ý chính của văn bản.
- Các từ ngữ: lầm chỗ, vô ý đạt hiệu quả nghệ thuật như thế nào khi nhắc đến nhân vật Mỵ Châu?
- Từ văn bản trên, nêu ngắn gọn bài học rút ra qua nhân vật Mỵ Châu trong Truyện An Dương Vương, Mỵ Châu và Trọng Thuỷ?
- Viết đoạn văn ngắn (5 đến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ về trách nhiệm của tuổi trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc?
Trả lời:
1.Ý chính của văn bản: Nhà thơ Tố Hữu đã nhắc lại chuyện Mỵ Châu đã cho Trọng Thuỷ xem trộm nỏ thần để cuối cùng hậu quả xảy ra là bi kịch nước mất nhà tan.
2. Các từ ngữ: lầm chỗ, vô ý có hiệu quả nghệ thuật: thấy được sai lầm lớn của Mỵ Châu là vì tình yêu với Trọng Thuỷ mà quên đi trách nhiệm công dân, mất cảnh giác để gây ra thảm kịch lịch sử cho nước Âu Lạc. Đồng thời thể hiện niềm cảm thông của đời sau với hành động của nàng.
3. Bài học rút ra từ nhân vật Mỵ Châu là phải cảnh giác trước âm mưu của kẻ thù; phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tình yêu cá nhân và lợi ích dân tộc.
4. Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu:
– Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, cảm xúc chân thành.
-Nội dung: Thí sinh bày tỏ suy nghĩ:
+ Hiểu được tình hình đất nước hiện nay.
+ Trách nhiệm của tuổi trẻ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Phê phán và nêu hậu quả của một bộ phận giới trẻ thờ ơ, vô trách nhiệm với đất nước.
+ Bài học nhận thức và hành động.
Bài phân tích
Phân tích TruyệnAn Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy
Nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim nhầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.
Những câu thơ ấy của Tố Hữu đã gợi lên trong mỗi chúng ta thật nhiều suy nghĩ về “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” – một trong số những truyền thuyết với những lời răn dạy có ý nghĩa sâu sắc và to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước, giữ nước và giải quyết mối quan hệ riêng chung.
Trước hết, truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” đã tái hiện lại công cuộc xây thành, chế nỏ, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước của An Dương Vương. Để tiếp tục công cuộc dựng nước và giữ nước, vua An Dương Vương đã cho xây thành ở đất Việt Thường nhưng đáng tiếc thay, công cuộc xây thành lại gặp phải thật nhiều những khó khăn, thành cứ xây cao tới đâu là lại lở ngay đến đấy. Điều đó đã khiến cho An Dương Vương không khỏi suy nghĩ, lo lắng và vì vậy, ông đã cho “lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần”. Dường như, cảm nhận được tấm lòng của An Dương Vương, ngày mồng bảy tháng ba có một cụ già từ phương Đông tới và được vua tiếp đón rất chu đáo, đồng thời, cụ già ấy đã nói với vua sẽ có sứ Thanh Giang tới giúp xây thành. Và quả nhiên, sau đó với sự giúp đỡ của Rùa Vàng – sứ Thanh Giang vua An Dương Vương đã có thể xây xong thành chỉ trong vòng nửa tháng. Hành động “lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần” và sự tiếp đón niềm nở, nồng hậu của An Dương Vương xét đến cùng là biểu hiện ở tấm lòng trọng người hiền tài của ông. Không chỉ trọng người hiền tài, An Dương Vương còn là người luôn lo lắng, suy nghĩ cho vận mệnh, tương lai của đất nước. Điều này được thể hiện rõ nét qua câu hỏi của An Dương Vương với Rùa Vàng trước lúc từ biệt Rùa Vàng về với biển cả: “Nếu nay có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”. Khi được Rùa Vàng cho chiếc vuốt phòng khi có giặc ngoại xâm, An Dương Vương đã sai Cao Lỗ lấy chiếc vuốt làm thành lẫy nỏ.
Và với chiếc nỏ thần này, về sau, khi Triệu Đà đưa quân sang xâm lược, quân và dân ta đã đánh thắng quân Triệu Đà, buộc chúng phải xin hòa. Chiến thắng của An Dương Vương trước quân Triệu Đà cho thấy sức mạnh quân sự cùng ý chí và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta lúc bấy giờ. Như vậy, với những chi tiết tưởng tượng, kì ảo, truyện đã cho chúng ta thấy những công lao to lớn của An Dương Vương trong sự nghiệp xây dựng đất nước và chống giặc ngoại xâm.
Tuy nhiên, truyện không chỉ ngợi ca công lao to lớn của An Dương Vương mà nó còn cho chúng ta thấy được bi kịch nước mất nhà tan của vua An Dương Vương và bi kịch trong tình yêu của Mị Châu và Trọng Thủy. Trước hết, trong tác phẩm chúng ta thấy được bi kịch nước mất nhà tan. Sau chiến thắng trước quân Triệu Đà xâm lược, An Dương Vương đã mất cảnh giác, vô tình gả con gái của mình là Mị Châu và cho Trọng Thủy ở rể mà không nhận thấy được âm mưu của kẻ thù. Thêm vào đó, khi quân của Triệu Đà kéo sang xâm lược, An Dương Vương vẫn cậy có nỏ thần mà điềm nhiên ngồi chơi cờ, không chút lo lắng, chuẩn bị phòng ngự và đánh trả. Và để rồi, chính thái độ chủ quan, coi thường giặc này của An Dương Vương đã khiến cho ông nhanh chóng đi đến thất bại thảm hại. Cuối cùng, khi giặc đã kéo vào, vua An Dương Vương không còn có sự lựa chọn nào khác nên đành phải đem theo con gái lên lưng ngựa và chạy về phía hướng Nam. Nhưng thật đáng tiếc thay, khi ngồi trên lưng ngựa sau cha, Mị Châu vẫn rải áo lông ngỗng của mình làm dấu và để rồi quân giặc cứ thế đuổi theo. Đến cùng đường, không còn lối nào để chạy thoát, vua cha ngửa mặt lên trời, hét lớn, tìm sứ Thanh Giang, lúc đấy Rùa Vàng hiện lên và nói “kẻ ngồi sau lưng ngươi chính là giặc đấy’. Câu nói của Rùa Vàng như một lời kết tội đanh thép, đó cũng là lúc An Dương Vương nhận ra mọi thứ nhưng có lẽ đã quá muộn rồi, ông rút gươm và tự tay chém chết Mị Châu – người con gái mà ông nhất mực yêu thương. Hành động rút gươm và chém chết Mị Châu của An Dương Vương cho thấy sự tỉnh ngộ muộn màng của ông, đồng thời, qua đó cũng cho thấy ông là người luôn đứng về công lí, về lẽ phải và luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết.
Không chỉ dừng lại ở bi kịch nước mất nhà tan, trong tác phẩm tác giả dân gian còn thể hiện bi kịch trong tình yêu của Mị Châu và Trọng Thủy. Mị Châu là công chúa của một nước nhưng vì nhẹ dạ cả tin, nàng đã cưới Trọng Thủy và còn lén cho chàng xem trộm nỏ thần để rồi kết quả là bị Trọng Thủy tráo chiếc nỏ và kết quả cuối cùng là đất nước lâm vào cảnh khốn cùng. Không chỉ nhẹ dạ, cả tin, Mị Châu vì tình yêu mù quáng với Trọng Thủy nàng đã rải lông ngỗng làm áo dọc đường cùng cha bỏ trốn, khiến quân giặc đuổi theo và hai cha con nàng không còn đường để thoát thân. Như vậy, Mị Châu vì tình yêu mù quáng và sự cả tin với Trọng Thủy đã vô tình tiếp tay cho bọn giặc và có lẽ không sai khi Rùa Vàng gọi nàng là giặc. Yêu và tin Trọng Thủy nhưng đến cuối cùng, Mị Châu lại vô tình hại cha, hại đất nước, hại nhân dân vào cảnh khốn cùng, đấy chính là bi kịch của nàng. Không riêng gì Mị Châu, Trọng Thủy cũng là một nhân vật phải chịu bi kịch của tình yêu. Thoạt đầu, Trọng Thủy lấy Mị Châu chỉ để thực hiện ý đồ xâm lược của cha mình, để thực hiện âm mưu tráo nỏ thần về cho cha mình. Tuy nhiên, trong suốt quãng thời gian sống với Mị Châu ở Loa Thành, Trọng Thủy đã thực sự cảm mến tình yêu, sự hồn nhiên, ngây thơ của Mị Châu và yêu nàng. Nhưng giữa tham vọng lấy nỏ thần để đánh thắng nước Âu Lạc và khát vọng tình yêu không đi cùng một hướng, buộc Trọng Thủy phải lựa chọn. Chàng chấp nhận hi sinh tình yêu vì sự nghiệp của cha nhưng đến cuối cùng khi đã giành được chiến thắng, vì yêu Mị Châu và rất nhớ thương nàng, “lúc đi tắm tưởng tượng thấy bóng của Mị Châu chàng lao đầu xuống giếng mà chết”. Như vậy, tình yêu giữa Mị Châu và Trọng Thủy là một mối tình thắm thiết nhưng đầy éo le và bi kịch, không đem đến sự vẹn tròn cho các nhân vật. Thêm vào đó, trong phần cuối của tác phẩm, tác giả dân gian còn thể hiện thái độ, cách đánh giá của mình đối với các nhân vật được kể đến. Trước hết, thông qua hình ảnh An Dương Vương “cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua xuống biển” tác giả đã bất tử hóa cái chết của An Dương Vương, từ đó, thể hiện sự kính trọng, yêu mến và có phần tiếc thương đối với vị vua này. Đồng thời, qua tác phẩm, nhân dân cũng thể hiện thái độ, tình cảm của mình đối với công chúa Mị Châu.
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa sự thật lịch sử và yếu tố kì ảo, tác phẩm là một cách giải thích nguyên nhân mất nước Âu Lạc. Đồng thời, qua tác phẩm cũng gửi gắm bài học lịch sử sâu sắc cho các thế hệ muôn đời: bài học về tinh thần cảnh giác và bài học về cách xử lí đúng đắn giữa việc chung và việc riêng, giữa tình nhà và việc nước, giữa cá nhân và cộng đồng.
Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 10