Văn mẫu lớp 8

Thuyết minh về chiếc đồng hồ (dàn ý – 10 mẫu) – Ngữ văn lớp 8

Thuyết minh về chiếc đồng hồ (dàn ý – 10 mẫu) – Ngữ văn lớp 8

Thuyết minh về chiếc đồng hồ (dàn ý – 10 mẫu)

Đề bài:Thuyết minh về chiếc đồng hồ

Bạn đang xem bài: Thuyết minh về chiếc đồng hồ (dàn ý – 10 mẫu) – Ngữ văn lớp 8

Dàn ý Thuyết minh về tranh Đông Hồ

I. Mở bài

– Từ bao đời nay, người dân Việt Nam đã quen cái tên Đông Hồ gắn liền nghề với tranh dân gian nổi tiếng.

II. Thân bài

1. Nguồn gốc, xuất xứ

– Làng tranh Đông Hồ thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh

– Căn cứ vào các gia phả trong làng thì muộn nhất là vào đời Lê, tức là cách đây khoảng 500 năm.

– Còn theo lịch sử của làng thì gia đình đã gắn bó với nghề lâu nhất ở đây là gia đình ông Nguyễn Đăng Chế. Đến nay, gia đình ông đã có 20 đời làm nghề. Cả đại gia đình ông ba thế hệ đều tâm huyết với tranh Đông Hồ.

2. Cách làm

– Khác với nhiều loại tranh trên thị trường hiện nay, tranh làng Đông Hồ không phải vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà là dùng ván để in.

– Để có những bản khắc đạt đến trình độ tinh xảo phải có người vẽ mẫu.

– Những người vẽ mẫu vào bản khắc ván đòi hỏi họ phải có lòng yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có trình độ kỹ thuật cao.

– Công đoạn in tranh có lẽ không khó lắm bởi lẽ ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in.

– Giấy dùng in tranh là loại giấy dó mịn mặt.

– Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chất điệp óng ánh lấy từ vỏ con sò, con hến đã tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh dân gian Đông Hồ.

– Để có được một bức tranh đẹp, các màu in tranh thường được lấy từ chất liệu thiên nhiên: màu đen người ta phải đốt lá tre rồi lấy than của nó, màu xanh lấy từ vỏ lá tràm, màu vàng lấy từ hoa hòe, màu đỏ thắm lấy từ thân, rễ cây vang, màu sơn lấy từ sỏi núi, màu trắng là điệp.

– Những năm gần đây có một số người khi in tranh đã từng dùng một số màu và hóa chất hiện đại, như thế sản phẩm có tăng nhưng chất liệu màu của tranh không tươi màu, sắc nét như tranh làm truyền thống. Đã thế, chỉ trong một thời gian ngắn màu sắc sẽ bị phai nhạt, không bền màu.

– Tranh dân gian Đông Hồ không áp dụng chặt chẽ về cơ thể học, các nguyên tắc về ánh sáng hay luật xa gần như tranh hiện đại. Những nghệ sĩ sáng tác tranh dân gian mang nhiều tính ước lệ trong bố cục, trong cách miêu tả về màu sắc.

– Tất cả đều sử dụng lối vẽ đơn tuyến bình đồ để thế hiện, do đó xem tranh dân gian ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng hợp lý hợp tình.

III. Kết bài

– Cần có những phương án để bảo tồn và phát triển loại tranh dân gian này.

Thuyết minh về chiếc đồng hồ – mẫu 1

Tích tắc tích tắc… nghe tiếng kêu này chắc hẳn đã rất quen thuộc với các bạn . Đó chính là tiếng kêu của đồng hồ – một vật dụng đã rất quen thuộc với đời sống hàng ngày. Ngày xưa vì chưa có đồng hồ nên người ta toàn phải dựa vào tiếng gà gáy để đếm canh tính giờ. Bây giờ cuộc sống phát triển nên có đồng hồ cũng rất tiện lợi.

Nhà em có rất nhiều đồng hồ, nhưng em thích nhất là chiếc đồng hồ ba treo tuờng ngay phía giữa gian nhà. Mẹ bảo chiếc đồng hồ treo ngay phòng khách sẽ giúp con biết giờ mà học tập, lao động và nghỉ ngơi.

Đồng hồ có mặt trong gia đình em từ lâu lắm. Đồng hồ là một khối hình hộp chữ nhật, vỏ bằng nhựa màu trắng sữa, đế nhựa màu cánh gián bóng loáng. Mặt số màu trắng, quanh mặt số có viền màu đen. Có bốn kim, kim giờ to ngắn, kim phút nhỏ, dài hơn kim giờ. Kim giây bé nhất. Kim báo thức màu xanh nhạt.

Phía sau của đồng hồ có các nút để lấy’giờ. Mở nắp nhỏ phía sau là chỗ gắn pin. Tiếng kim chạy rất êm, đến gần nghe tích tắc, tích tắc. Tiếng nhạc chuông báo thức trong trẻo, ngân vang. Chiếc đồng hồ luôn lặng lẽ đếm thời gian rất có ích trong đời sống hàng ngày.Nó báo giờ, báo thức giúp em đi học đúng giờ. Nó còn nhắc nhở mọi người phải biết quý trọng thời gian và dùng thời gian vào những việc có ích.

Em thấy rất quý chiếc đồng hồ này, em sẽ mua pin thay cho nó để nó có thể hoạt động thường xuyên và cho gia đình biết chính xác giờ trong ngày và để có một ngày làm việc và học tập có hiệu quả hơn.

Thuyết minh về chiếc đồng hồ – mẫu 2

Đồng hồlà một dụng cụ thường dùng để đo khoảngthời giandưới mộtngày; khác vớilịch, là một dụng cụ đo thời gian một ngày trở lên. Có những loại đồng hồ tân tiến và cấu trúc phức tạp đạt kỹ thuật đo thời gian rất chính xác. Ngoài những loại đồng hồ lớn đặt ở vị trí cố định, người ta cũng đã tạo ra loại đồng hồ nhỏ dễ dàng mang theo bên mình gọi làđồng hồ đeo tay, ngoài chức năng ghi giờ giấc còn là món hàng mỹ thuật có tínhthời trang.

Con người ghi nhận và đặt tên cho các khoảng thời gian là buổi,ngày,tháng,năm… nhưng những khoảng thời gian dưới một ngày thì trước khi có đồng hồ, việc đo đạc thiếu chính xác. Dễ nhất là ước tính vị trí củamặt trờitrênbầu trờimà cho là sáng, trưa, chiều, tối. Ngắn hơn một buổi thì thuở trước người ta đốtnhanghayđèn cầy, mà tính lâu hay mau. Một loại bình đựng dùng cát hay nước cho chảy ra cũng là cách đo thời gian từ thời cổ đạivăn minh Ai Cậpvà Trung Hoa.

Loại đồng hồ cơ như chúng ta biết đến ngày nay hình thành vào khoảngthế kỷ 17, xuất phát từchâu Âu. Đến thế kỷ 18 thìđồng hồ treo tườngđã phổ biến là món hàng gia dụng của mọi giai cấp ở Âu châu. Kế tiếp làđồng hồ đeo tayđược nhiều người dùng làm món trang sức cá nhân.

Đồng hồ cơ thể hiện thời gian sử dụng các góc. Mặt đồng hồ có những con số từ 1 đến 12 và sử dụng kim để chỉ giờ và cả phút. Từ một số đến một con số kế cận là 5 phút (đối với kim phút), 1 giờ (đối với kim giờ) hay 5 giây (đối với kim giây).

Ứng dụng của đồng hồ hiện nay là khá đa dạng. Đồng hồ treo tường được dùng trong nhà và văn phòng, đồng hồ đeo tay được mang trên tay, những loại đồng hồ lớn được đặt ở những nơi công cộng (nhà thờ hay bến xe). Hầu hết những máy tính và điện thoại di động cũng đều có góc dưới màn hình hiển thị giờ.

Thuyết minh về chiếc đồng hồ – mẫu 3

Thay cho tiếng gà gáy hàng ngày, đồng hồ treo tường vừa thông báo giờ vừa có thể báo thức cho con người mỗi sớm.

Đó là chiếc đồng hồ bằng gỗ được bố em mua về từ một người thợ mộc lành nghề. Thứ gỗ của đồng hồ cũng là gỗ tốt, bền chắc. Đây là đồng hồ quả lắc, mỗi tuần, bố em phải kên dây đồng hồ một lần để đồng hồ có thể tiếp tục chạy.

Đồng hồ được làm tinh xảo với kim giờ kim phút chạy đều nhau, mỗi kim mảnh như tờ giấy nhuộm vàng. Cứ nửa tiếng trôi qua, đồng hồ lại đổ chuông một lần, mỗi lần đổ chuông đều theo số giờ ở thời điểm đó. Nếu giờ không tròn số, đồng hồ chỉ đánh ba hồi chuông rồi thôi. Âm thanh vang lên nghe trong trẻo nhẹ nhàng lại lảnh lót.

Bố em bảo đồng hồ quả lắc này đắt ở chỗ tiếng kêu của nó, mỗicái lại có một âm thanh khác nhau cái trầm bổng, êm dịu, cái lại thánh thót, có cái nhẹ nhàng trong trẻo. Tiếng nghe như tiếng sáo làm người chơi đồng hồ thích thú. Mỗi sớm chuông đồng hồ báo giờ, như tiếng gà gáy mỗi sáng báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Từ ngày bố em mua đồng hồ này, em cũng dậy đúng giờ và đi học đúng giờ hơn không cần phải vội vàng chuẩn bị nữa.

Em rất thích cái đồng hồ treo tường nhà em. Em mong nõ có thể bền bỉ gắn bó với gia định em.

Thuyết minh về chiếc đồng hồ – mẫu 4

Vào hôm sinh nhật vừa rồi, mẹ tặng cho em một chiếc đồng hồ báo thức rất đẹp. Ngay khi nhìn thấy là em đã phải reo lên vì sung sướng.

Chiếc đồng hồ báo thức to như một chiếc bánh bao, có hình vuông giống như hộp quà. Màu sắc chủ đạo là màu hồng của hoa đào – màu mà em yêu thích nhất. Mặt phía trước là mặt chính của đồng hồ, được vẽ một hình tròn lớn màu hồng nhạt hơn vỏ, chiếm gần hết diện tích. Ở trên hình tròn đó, các số từ một đến mười hai được xếp dọc theo viền đường tròn, cách nhau đều tăm tắp.

Ở giữa là một hình trái tim nhỏ xíu màu đỏ, làm tâm của hình tròn. Chính nó là gốc của ba chiếc kim đồng hồ. Kim giờ ngắn và to nhất, cũng là kim chạy chậm nhất, cứ một giờ chú mới nhích một số. Kim dài tiếp theo, nhỏ hơn kim giờ một chút là kim phút. Nhanh nhất chính là anh kim giây, dài và thân nhỏ nhất nhưng anh ta chạy thoăn thoắt. Cứ tích tắc tích tắc liên tục.

Phía trên đầu chiếc đồng hồ là hai cái tai tròn xoe. Thực ra, đó chính là nút bấm dùng để hẹn giờ. Mặt phía sau thì có một hộc nhỏ, dùng để lắp pin – nguồn sống của đồng hồ. Bên cạnh đó, có một cái nút nhỏ, có thể xoay vòng tròn. Nó giúp em điều chỉnh các kim của đồng hồ đến giờ mình mong muốn. Thật là tiện lợi.

Em đặt chiếc đồng hồ vào góc đẹp nhất của giá sách. Từ đây, chiếc đồng hồ đáng yêu này sẽ là người bạn đồng hành của em. Em sẽ giữ gìn nó thật cẩn thận, để đồng hồ luôn xinh đẹp như bây giờ.

Thuyết minh về chiếc đồng hồ – mẫu 5

Đồng hồ treo tường là một vật dụng rất phổ biến trong đời sống con người. Nhờ có đồng hồ mà mọi hoạt động của xã hội loài người diễn ra chính xác và đều đặn.

Chúng ta tính thời gian bằng giây, phút, giờ, ngày, tháng, năm,thập kỷ,thế kỷvàthiên niên kỷ. Trước khi chưa có phát minh về đồng hồ, con người sử dụng nhiều thứ khác nhau để tính thời gian như: nhang, đèn cầy, lịch. Con người còn sử dụng mặt trời, cát để chia một ngày ra thành nhiều giờ.

Chiếc đồng hồ đầu tiên được phát triển bởi những người sùng đạo ở châu Âu vào thế kỷ thứ 17. Họ cần biết thời gian chính xác để gặp nhau tại nhà thờ nên đã nghĩ đến việc chế tạo một thiết bị đo đếm thời gian. Chiếc đồng hồ treo tường ra đời thời kì đó đã chính xác đến từng giây. Từ đó đến nay, chiếc đồng hồ đã qua rất nhiều lần cải tiến ngày càng trở nên tiện dụng và chính xác hơn.

Đồng hồ treo tườngđược du nhập vào Việt Nam theo con đường truyền giáo do người Pháp mang sang vào cuối thế kỉ 18, đầu thế kỉ 19. Nó xuất hiện đầu tiên và nhiều nhất ở các vùng ven biển của nước ta, nơi có rất nhiều nhà thờ thánh đường của người dân công giáo.

Một chiếc đồng hồ treo tường thường bao gồm: thân hộp đựng, mặt số, tổ hợp kim, trục, hệ thống truyền động, nguồn năng lượng, chuông báo…

Năng lượng được nạp vào đồng hồ bằng cách vặn cót, bộ quay trên đồng hồ tự động hoặc từ nguồn pin. Năng lượng sau đó được truyền qua ổ cót tới các bánh răng. Các bánh răng quay và truyền động cho nhau. Để ngăn các bánh răng chuyển động xoay tròn hỗn loạn, đồng hồ cần có một bộ thoát (hồi). Bộ thoát này chạy theo nhịp, liên tục khóa và mở bánh thoát để bánh răng chạy theo nhịp.

Trục của các bánh răng được nối với các kim chỉ thời gian (giờ, phút hoặc giây). Khi đặt các kim này lên mặt đồng hồ, chúng ta sẽ biết được thời gian.Với cơ chế hoạt động đã đề cập ở trên, có thể nói một chiếc đồng hồ cơ đơn giản nhất cũng có rất nhiều “máy móc” thú vị ở bên trong và được cấu tạo từ những bộ phận rất tinh xảo. Đó là chưa kể đến những cỗ máy đồng hồ phức tạp hơn như tourbillon, chronograph… Những chiếc đồng hồ phức tạp nhất có thể tốn tới hàng trăm giờ công để thực hiện.

Những đồng hồ chạy bằng năng lượng dự trữ từ pin sẽ tự hoạt động đều đặn, cho đến khi nguồn năng lượng pin hết người ta sẽ thay pin khác. Còn những chiếc đồng hồ lên dây cót thì phải thường xuyên lên dây để chúng hoạt động chính xác.

Đồng hồ là thiết bị đo đếm thời gian, đảm bảo mọi hoạt động trong xã hội diễn ra chính xác và đều đặn. Ở vai trò này có thể ví chiếc đồng hồ giống như vị thần canh giữ thời gian. Ngoài ra đồng hồ còn là vật trang trí làm đẹp thêm không gian. Nhiều chiếc đồng hồ được sản xuất tỉ mỉ rất đắt tiền trở thành vật trang trí cho các tòa nhà sang trọng và công trình tôn giáo.

Có thể nói đồng hồ treo tường gần như điều khiển toàn bộ các hoạt động của con người trên trái đất. Chúng ta sẽ không thể làm việc hiệu quả mà không cần có đồng hồ. Thật không thể hình dung cuộc sống loài người sẽ khó khăn thế nào nếu một ngày không còn nhìn thấy chiếc đồng hồ nào trong cuộc sống này nữa.

Thuyết minh về chiếc đồng hồ – mẫu 6

“Thời gian quý hơn vàng”. Ý thức được điều đó, từ xưa con người đã trân trọng và có nhiều cách thức để đo đếm thời gian. Trong đó, đồng hồ là một phát minh đầy sáng tạo và ý nghĩa. Chiếc đồng hồ vẫn luôn là người bạn thân thiết, gắn bó với mỗi người trong cuộc sống hằng ngày. Với tôi, chiếc đồng hồ báo thức lại càng đặc biệt hơn bởi nó là món quà sinh nhật tôi được tặng từ người bạn thân thiết nhất.

Chiếc đồng hồ của tôi có xuất xứ từ Hong Kong và thuộc loại đồng hồ Analog. Gọi như thế để phân biệt với đồng hồ số, tức đồng hồ điện tử và đồng hồ kĩ thuật số, hiển thị được cả ngày, tháng, năm bằng chữ rất thông dụng hiện nay.

Chiếc đồng hồ không có kích cỡ to lớn, không có cấu tạo quá phức tạp hay cũng không quá sang trọng, cầu kì. vẻ ngoài của nó khá giản dị và xinh xắn. Bao phủ toàn bộ lớp vỏ nhựa bên ngoài chiếc đồng hồ là một màu xanh dương, bóng và đẹp rất phù hợp với sở thích của tôi. Dưới cùng có hai chân bằng kim loại để đồng hồ có thể đứng thẳng một cách tiện lợi mà không cần phải treo hay dựa vào vật gì khác. Trên cùng có trang trí hai quả chuông bằng sắt và một cần kim loại có thể di chuyển sang hai bên.

Hai cái chuông này vừa khiến cho đồng hồ trông sinh động hơn, vừa là bộ phận âm thanh quan trọng. Khi báo thức, chiếc cần này di chuyển va vào hai quả chuông tạo ra tiếng chuông báo thức vô cùng hiệu quả. Trên hai quả chuông còn đính thêm tay cầm để chiếc đồng hồ có thể treo được trên tường tùy theo ý muốn của người sử dụng. Về cấu tạo, chiếc đồng hồ báo thức bao gồm thân hộp, mặt số, tổ hợp kim, trục, hệ thống truyền động, nguồn năng lượng và chuông báo.

Rất đơn giản và tiện lợi cho người dùng nhưng nguyên lí hoạt động của đồng hồ báo thức lại không hề đơn giản chút nào. Năng lượng được nạp vào từ pin sẽ truyền qua ổ cót tới các bánh răng. Các bánh răng quay và truyền động cho nhau, bên cạnh đó còn có sự hỗ trợ của bộ thoát để các bánh răng không bị hỗn loạn. Trục của các bánh răng nối với các kim chỉ thời gian. Khi kim chỉ giờ trùng với kim hẹn giờ, móc khóa cần gạt bên trên được mở, kích hoạt cần gạt phía trên chuyển động về hai bên, chạm vào hai quả chuông và phát ra âm thanh báo thức.

Chiếc đồng hồ xinh xắn, tiện lợi giống như vị thần canh giữ thời gian, đảm bảo cho tôi tránh những bất cẩn để không bị lãng phí thời giờ và là một người bạn thân thiết ở bên tôi mỗi ngày. Không chỉ là một vật dụng hữu ích, chiếc đồng hồ báo thức còn là một vật trang trí trên bàn học và là vật kỉ niệm hạnh phúc trong sinh nhật dạ,qua của tôi. Nó mãi mãi gợi nhắc về người bạn thân thiết suốt thời thơ ấu của tôi.

Thuyết minh về chiếc đồng hồ – mẫu 7

Về căn bản, cấu tạo bên ngoài của một chiếc đồng hồ đeo ta gồm: phần hộp thân vỏ chứa bộ máy và dây đeo. Phần hộp chứa bộ máy gồm có mặt hiển thị thời gian, hộp đựng và nắp đậy lưng.

Mặt kính bảo vệ tổ hợp kim chạy bên trong. Kích cỡ thông thường của mặt đồng hồ nam thường từ 36mm đến 48mm, phù hợp với cổ tay khá to của nam giới. Kích cỡ mặt đồng hồ đeo tay nữ thường từ 24mm đến 40mm, phù hợp với cổ tay nhỏ gọn của nữ giới. Kính thường được làm từ sapphire cứng, chống trầy xước, hoặc bằng khoáng chất. Kính khoáng chất rất ít bị trầy. Nhưng dù có bị trầy cũng dễ đánh bóng, phục hồi độ bóng như ban đầu.

Mặt số chứa tổ hợp số đếm. Mặt số thường là một tấm kim loại hoặc vật liệu khác như carbon, nhôm, nhựa cứng, thủy tinh. Với những đồng hồ đắt tiền, mặt số làm bằng xà cừ, vàng, … Trên mặt có các vạch số. Mốc chỉ giờ có thể được đính bằng các loại đá quý, màu sắc sang trọng, rực rỡ. Ngoài giờ, phút, giây tiêu chuẩn, trên mặt đồng hồ còn có lịch, mức dự trữ năng lượng, bộ chuyển đổi, thang đếm,…

Tổ hợp kim là bộ phận đếm, chỉ giờ của đồng hồ. Ở đồng hồ điện tử, tổ hợp kim được thay thế bằng bộ đếm điện tử. Phần lớn tổ hợp kim gồm ba chiếc: kim chỉ giờ, kim chỉ phút, kim chỉ giây. Kim được làm từ kim loại nhẹ dát mỏng hoặc bằng nhựa cứng. Nhiều hình dạng của kim được sử dụng để tăng tính thẩm mỹ của chiếc đồng hồ.

Bộ máy đồng hồ đeo tay là một cơ cấu và hệ thống thiết bị được lắp ráp theo một trật tự nhất định. Nó được thu gọn nằm trong thân vỏ chắc chắn, nhỏ gọn nhưng vẫn đảm bảo đúng vị trí giúp các bộ phận hoạt đông tốt.Về căn bản, bộ máy gồm: nguồn cung cấp năng lượng (thường là pin), dây cót, hệ thống truyền động, cơ cấu hồi, chân kính,…Trong đó pin đóng vai trò là năng lượng giúp đồng hồ có thể hoạt động được chính xác từng giây.

Pin là nguồn cung cấp năng lượng giúp đồng hồ hoạt động đều đặn và chính xác. Năng lượng được tích sẵn trong pin hoặc chuyển hóa từ năng lượng mặt trời. Khi pin hết năng lượng cần thay pin để tránh bị rò rỉ làm hư đồng hồ.

Vì đồng hồ đeo tay vừa có tác dụng xem giờ vừa là một vật dụng thời trang, chính vì vậy phải bảo quản thật cẩn thận nếu không chúng sẽ rất dễ bị hỏng. Đồng hồ đeo tay dùng để đeo trên tay. Không nên thử độ cứng và chống xước của kính đồng hồ bằng các vật có tính chất cứng. Sự va chạm cơ học dễ khiến đồng hồ bị biến dạng.

Đồng hồ giúp con người nhận biết thời gian mọi lúc mọi nơi. Nếu không có chiếc đồng hồ đeo tay có lẽ việc xác định thời gian của con người trở nên khó khăn hơn nhiều. Đồng hồ đeo tay giúp con người làm chủ thời gian, công việc và điều phối cuộc sống một cách hiệu quả nhất. Tiện lợi khi di chuyển, nhỏ, gọn, mang tính thẩm mĩ cao. Đồng hồ đeo tay còn là một món đồ trang sức tôn vinh vẻ đẹp con người. Ngoài ra, đồng hồ đeo tay còn là một thiết bị báo thức, nhắc giờ, nhắc việc, xem ngày tháng,…

Thuyết minh về chiếc đồng hồ – mẫu 8

Một người bạn thân thiết của em là chiếc đồng hồ báo thức. Sáng sáng, cứ đúng 5 giờ 30 phút là một hồi chuông lanh lảnh vang lên. Em mở bừng mắt, vươn vai mấy cái cho tỉnh ngủ rồi chạy xuống sân tập thể dục. Sau khi báo thức, chiếc đồng hồ lại cần mẫn làm công việc đếm thời gian của mình: tích tắc, tích tắc, tích tắc…

Chiếc đồng hồ đã có mặt trong gia đình em từ lâu lắm rồi. Ông nội kể lại rằng khi bố em chuẩn bị thi vào đại học, ông đã mua chiếc đồng hồ này để cho bố em chủ động giờ giấc ôn bài. Bao năm tháng đã qua, chiếc đồng hồ vẫn đứng nguyên trên mặt bàn học kê gần cửa sổ.

Đồng hồ này hiệu Jacke của Pháp, hình tròn, lớn bằng chiếc bát ăn cơm. Lớp vỏ bằng sắt tráng bạc. Mặt số gồm mười hai chữ số và ba cây kim. Kim chỉ giờ ngắn và to nhất, kế đến là kim phút dài và mảnh. Kim giây chỉ nhỏ bằng cây tăm, chuyển động nhanh nhất; Phía trên là một mặt số thu nhỏ chỉ có cây kim giờ. Muốn đồng hồ báo thức vào giờ nào, chỉ cần lên giây cót và để kim đúng vào giờ đó.

Tuy già nua cũ kĩ thế nhưng chiếc đồng hồ làm việc rất cần mẫn và chính xác. Nó chẳng đòi hỏi gì nhiều. Mỗi năm, bố em lại mang ra hiệu sửa đồng hồ lau dầu cho nó một lần.

Các đồ vật trong nhà tuy bình thường, giản dị nhưng đều có ích cho cuộc sống lao động và học tập của mỗi người. Em yêu quý và giữ gìn chúng thật cẩn thận.

Thuyết minh về chiếc đồng hồ – mẫu 9

Đồng hồ đeo tay là một kiệt tác vĩ đại của những nhà thiết kế. Bằng sự tỉ mỉ đáng khâm phục, từ chiếc đồng hồ treo tường cồng kềnh,các nhà kĩ thuật đã chế tác ra những chiếc đồng hồ nhỏ gọn đeo trên tay, không chỉ đếm giờ chính xác mà còn mang lại vẻ đẹp sang trọng, quyến rũ cho những ai sở hữu nó.

Do nhu cầu xem thời gian mọi lúc mọi nơi của con người, các nhà kĩ thuật đã tiến hành thu nhỏ chiếc đồng hồ treo tường nhưng vẫn đảm bảo chức năng chỉ giờ chính xác của nó. Chiếc đồng hồ đeo tay đã ra đời trên cơ sở đó. Ban đầu nó chỉ có mặt chỉ giờ hết sức đơn giản. Sau người ta mới thiết kế dây đeo và trang trí cho nó đẹp hơn.

Năm 1571, đánh dấu sự xuất hiện cảu đồng hồ đeo tay. Đến năm 1880, Thụy Sĩ sản xuất hàng loạt đồng hồ đeo tay và phổ biến ra khắp thế giới. Kể từ đó, đồng hồ đeo tay được sử dụng phổ biến. Nó không ngừng được cải tiến ngày càng nhỏ gọn hơn. Không những nhiều tính năng hơn và rất sang trọng lại phù hợp hơn với điều kiện sử dụng và thị hiếu của con người.

Về căn bản, cấu tạo bên ngoài của một chiếc đồng hồ đeo tay gồm: phần hộp thân vỏ chứa bộ máy và dây đeo. Phần hộp chứa bộ máy gồm có mặt hiển thị thời gian, hộp đựng và nắp đậy lưng. Những yếu tố này tạo nên dáng vẻ và phong cách cho chiếc đồng hồ. Vỏ thân máy thường được đúc bằng nhựa cứng hoặc bằng kim loại. Hộp có thể phủ mạ kim loại quý hoặc đính đá quý. Nắp đậy lưng có thể rời hoặc liền, thường làm trơn nhẵn để không gây tổn thương phần cổ tay.

Mặt kính bảo vệ tổ hợp kim chạy bên trong. Kích cỡ thông thường của mặt đồng hồ nam thường từ 36mm đến 48mm, phù hợp với cổ tay khá to của nam giới. Kích cỡ mặt đồng hồ đeo tay nữ thường từ 24mm đến 40mm, phù hợp với cổ tay nhỏ gọn của nữ giới. Kính thường được làm từ sapphire cứng, chống trầy xước, hoặc bằng khoáng chất. Kính khoáng chất rất ít bị trầy. Nhưng dù có bị trầy cũng dễ đánh bóng, phục hồi độ bóng như ban đầu.

Dây đeo là bộ phận gắn đồng hồ và cổ tay. Dây đeo có thể là dây vải dày, dây da động vật, dây nhựa dẻo, dây kim loại mắc xích không rỉ,… Dây đeo thường được thiết kế nhiều màu sắc, bền, nhẹ, an toàn với cổ tay. Dây có thể co dãn, nới rộng hoặc siết chặt phù hợp với cổ tay người sử dụng.

Đồng hồ đeo tay giúp con người nhận biết thời gian mọi lúc mọi nơi. Nếu không có chiếc đồng hồ đeo tay có lẽ việc xác định thời gian của con người trở nên khó khăn hơn nhiều. Đồng hồ đeo tay giúp con người làm chủ thời gian, công việc và điều phối cuộc sống một cách hiệu quả nhất.

Thuyết minh về chiếc đồng hồ – mẫu 10

Đồng hồ là một công cụ để đo đạc những mốc thời gian nhỏ hơn một ngày; đối lập với lịch, là một công cụ để đo thời gian dài hơn một ngày. Những loại đồng hồ dùng trong kĩ thuật thường có độ chính xác rất cao và cấu tạo rất phức tạp. Trong khi đó, người ta có thể tạo ra những loại đồng hồ nhỏ để dễ dàng mang theo bên mình. Những loại đồng hồ hiện đại từ thế kỉ 14 trở đi

Chúng ta nói về thời gian mỗi ngày. Chúng ta tính nó bằng giây, phút, giờ, ngày, tháng, năm, thập kỷ, thế kỷ và thiên niên kỷ. Trước khi chưa có phát minh về đồng hồ, con người sử dụng nhiều thứ khác nhau để tính thời gian như: nhang, đèn cầy, lịch. Con người còn sử dụng mặt trời, cát để chia một ngày ra thành nhiều giờ.

Đồng hồ là một trong những phát minh cổ nhất của con người, khi con người có yêu cầu xác định một tiến trình xảy ra trong một khoảng thời gian mau hay nhanh. Trong khi Mặt Trăng và các ngôi sao có thể được sử dụng để đo những khoảng thời gian dài thì những khoảng thời gian ngắn lại là một vấn đề khác. Một trong những giải pháp đầu tiên mà con người biết đến là đồng hồ mặt trời, nhưng chỉ có thể để đo những khoảng thời gian nhỏ vào ban ngày bằng cách sử dụng bóng của Mặt Trời chiếu lên qua những cột mốc.

Về sau, đèn cầy và các loại nhang được sử dụng để đo thời gian. Khoảng thời gian để chúng cháy hết xấp xỉ bằng nhau và thường được dùng để ước tính thời gian. Ngoài ra còn có những loại đồng hồ cát. Ở đó, cát mịn được cho chảy qua một cái lỗ nhỏ ở một tốc độ nhất định từ đó xác định một khoảng thời gian.

Đồng hồ như chúng ta biết đến ngày nay được phát triển bởi những người sùng đạo ở châu Âu vào thế kỷ thứ 17. Họ cần biết thời gian chính xác để gặp nhau tại nhà thờ. Người Trung Quốc phát minh ra đồng hồ nước vào thế kỷ thứ 17, nhưng người Ai Cập cổ đại đã có chúng trước đó lâu rồi. Vào những thập niên 1700, con người đã có đồng hồ treo tường và đồng hồ đeo tay, chính xác đến từng phút.

Những người thợ làm đồng hồ đã cải tiến phát minh của mình dưới nhiều hình thức khác nhau. Thiết kế những loại đồng hồ càng lúc càng nhỏ dần dần trở thành một thách thức lớn, bởi vì họ còn phải bảo đảm tính chính xác và bền bỉ của đồng hồ. Đồng hồ có thể là một tác phẩm nghệ thuật của một nghệ sĩ tài năng nhưng cũng có thể được sản xuất hàng loạt để sử dụng trong nhà.

Trong suốt thế kỉ 15 và 16, nghệ thuật làm đồng hồ phát triển ở những thị trấn như Nürnberg, Augsburg, Blois. Một số đồng hồ chỉ có một kim và bề mặt đồng hồ được chia làm 4 khoảng để người đọc dễ dàng theo dõi đồng hồ. Một hệ thống hồi hoàn chỉnh được thiết kế bởi Jobst Burgi vào năm 1585. Những chiếc đồng hồ chính xác của ông đã giúp Johannes Kepler và Tycho Brahe quan sát thiên văn với độ chính xác cao hơn.

Mãi đến năm 1653, Galileo Galilei mới phát minh ra con lắc dẫn đến sự ra đời của đồng hồ quả lắc do Christiaan Huygens chế tạo. Ông đã xác định nếu con lắc có độ dài là 99,38 cm thì một chu kì của nó sẽ là đúng 1 giây. Vào năm 1670, William Clement phát minh ra hệ thống hồi dạng mỏ neo giúp nâng độ chính xác. Từ đó, kim phút và kim giây xuất hiện ở hầu hết những loại đồng hồ.

Ngày nay, thời gian trong đồng hồ được đo bằng nhiều cách khác nhau, từ những tinh thể thạch anh cho đến chu kì bán rã của một chất phóng xạ. Ngay cả những đồng hồ cơ học trước kia, chúng ta chỉ cần sử dụng pin chứ không cần phải lên dây cót như trước. Nhìn chung thị trường đồng hồ hiện nay rất đa dạng, bạn có thể chọn bất kỳ loại nào theo sở thích của mình.

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Văn mẫu lớp 8

Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Cách đây 40 năm về trước, mặc dù miền Bắc XHCN khi đó đang nặng hai vai gánh cả non sông vượt dặm dài, vừa là hậu phương lớn chi viện tích cực cho các chiến trường với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, vừa là tiền tuyến đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo vẫn không ngừng phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt và sự nghiệp tái thiết đất nước lâu dài sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu của công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch các vùng kinh tế mới,vùng chuyên canh, xây dựng các nông trường, Bộ Nông trường ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) đã có Quyết định số 115 QĐ/TC ngày 05 th áng 9 năm 1968 về việc mở Lớp công nhân đo dạc - tiền thân của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung ngày nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button