Giáo dục

Phân tích khổ 3 4 bài thơ về Tiểu đội xe không kính

Đề bài: Phân tích khổ 3 4 bài thơ về Tiểu đội xe không kính

phan tich kho 3 4 bai tho ve tieu doi xe khong kinh

Bạn đang xem bài: Phân tích khổ 3 4 bài thơ về Tiểu đội xe không kính

Phân tích khổ 3 4 bài thơ về Tiểu đội xe không kính

I. Dàn ýPhân tích khổ 3 4 bài thơ về Tiểu đội xe không kính (Chuẩn)

1. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả Phạm Tiến Duật, tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” và khổ 3 và 4 bài thơ

2. Thân bài:

a. Những khó khăn, gian khổ mà người lính phải trải qua:

– Điệp ngữ “không có kính”: gợi ra hiện thực về những chiếc xe méo mó, biến dạng và sự gian khổ mà người lính lái xe gặp phải.
– Các điệp từ “bụi”, “mưa” được lặp lại liên tiếp cùng các động từ mạnh như “phun”, “tuôn”, “xối”: cho thấy sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên trên đường hành quân.

– Những liên tưởng so sánh độc đáo:
+ Nhà thơ so sánh “bụi” trên tóc những người lính trẻ “trắng như người già”
+ Những cơn mưa rừng tuôn xối xả vào xe “như ngoài trời”.
→ Cho thấy sự gian khổ mà những người lính lái xe phải đối mặt.

b. Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ của những người lính:

– Điệp ngữ “ừ thì”: thể hiện thái độ ngang tàng, bất chấp mọi khó khăn của những người chiến sĩ lái xe.
– “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”, câu thơ 7 tiếng nhưng có tới 6 tiếng là vần bằng, cho thấy thái độ ung dung, thoải mái chấp nhận tất cả mọi khó khăn.
→ Những câu thơ chứa đựng tinh thần lạc quan, ngang tàng, ung dung, dũng cảm trước mọi khó khăn.

c. Đánh giá nội dung, nghệ thuật:

– Nội dung:
+ Tái hiện những khó khăn, gian khổ mà những người lính lái xe Trường Sơn phải đối mặt.
+ Bộc lộ tinh thần lạc quan bất chấp mọi khó khăn của những người lính trẻ.

– Nghệ thuật:
+ Giọng điệu thơ sôi nổi, mang nét ngang tàng của tuổi trẻ.
+ Các biện pháp như điệp từ cùng sự so sánh liên tưởng độc đáo, ngôn ngữ thơ bình dị, quen thuộc đã xây dựng nên hình tượng những người chiến sĩ Trường Sơn rất thành công.

3. Kết bài:

– Khẳng định giá trị của bài thơ.

II. Bài văn mẫuPhân tích khổ 3 4 bài thơ về Tiểu đội xe không kính (Chuẩn)

Phạm Tiến Duật là một gương mặt tiêu biểu trong lớp những nhà thơ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các tác phẩm của Phạm Tiến Duật thường viết về những người lính, những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử. Một trong số đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Bài thơ đã khắc hoạ thành công hình ảnh của những người lính lái xe Trường Sơn năm nào với giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, tinh nghịch, đặc biệt là hai khổ thơ thứ ba và thứ tư.

Phạm Tiến Duật là một người lính trên tuyến đường Trường Sơn, vậy nên ông am hiểu về những người lính lái xe trong chiến tranh, am hiểu về đời sống của họ. Những câu thơ đậm chất hiện thực đã tạo cho người đọc ấn tượng sâu sắc về những người lính lái xe cùng những chiếc xe “không kính” của họ.

Ở hai khổ thơ thứ 3 và thứ 4, đầu tiên ta thấy được là những khó khăn vất vả mà người lính phải trải qua khi lái xe không kính. Đó là “bụi” đất mù mịt trên đường hành quân và những cơn mưa rừng chợt đến chợt đi dữ dội. Nếu như ở hai khổ đầu, những khó khăn trong sự nghiệp lái xe không kính của họ chỉ được diễn tả rất mơ hồ, không rõ thì ở những dòng thơ này, những thử thách, khó khăn đã ập tới rất cụ thể:

“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già”

Và:

“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”

Để có thể hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính phải trải qua hết thảy những khó khăn, gian khổ. Khi là những chặng đường với bụi trắng xoá, làm mái đầu xanh giờ đây trở nên “trắng như người già”, rồi thì những cơn mưa rừng bất chợt ào tới, xối xả rót xuống những chiếc xe không kính… Nhà thơ đã bắt đầu hai khổ thơ bằng điệp từ “không có kính” để nhấn mạnh sự thiếu thốn, sự dị thường của những chiếc xe băng qua Trường Sơn. Từ đó, ta có thể thấy được những gian khổ vô cùng mà những người lính gặp phải khi tiến về miền Nam. Những chiếc xe chở đạn dược vũ khí mất đi bộ phận che chắn khiến cho người và xe đi trong bụi trong gió trong mưa. Điệp từ “bụi” và “mưa” lặp lại hai lần trong hai câu thơ liên tiếp cùng các động từ mạnh như “phun”, “tuôn”, “xối” cho ta thấy được sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên trên đường hành quân mà những người lính lái xe phải đối mặt trên chặng đường tiến về miền Nam. Thêm vào đó, Phạm Tiến Duật còn có những so sánh liên tưởng vô cùng độc đáo để diễn tả những khó khăn mà người lính lái xe gặp phải, nào là những cơn gió bụi thổi áo vào xe qua khung cửa kính vỡ, phủ đầy lên tóc, lên gương mặt lấm lem của những người lính, thế nhưng trong mắt nhà thơ, họ như họ trở thành những “người già” đầy đáng yêu và tinh nghịch. Hay những cơn mưa rừng vội vã ào đến bất chợt tuôn xối xả qua những khung cửa vỡ khiến những người lính ướt đẫm thân mình. Chặng đường tiến về miền Nam quả thực đầy những gian khổ và khó khăn! Không chỉ có bom đạn của quân giặc mà còn có cả những thiếu thốn vật chất thiết yếu và cả những gian lao, khắc nghiệt của thiên nhiên nữa.

Thế nhưng vượt lên trên tất cả những gian lao ấy, những khó khăn thử thách ấy là tình thần lạc quan, bất chấp gian khó của những người lính lái xe Trường Sơn. Điệp từ “ừ thì” đã thể hiện tinh thần bất chấp, sẵn sàng chịu đựng cùng thái độ lạc quan cứng cỏi của những người lính lái xe. Dường như với họ, những khó khăn đó chẳng có chút ảnh hưởng gì tới họ, tất cả chỉ là những “chuyện nhỏ”. Hoàn cảnh của những người lính được miêu tả hết sức chân thực, sống động, những người chiến sĩ đã biến những điều “bất thường” trở thành những điều bình thường đơn giản. Họ đã vượt qua tất cả bằng tinh thần lạc quan, hiên ngang, ý chí trách nhiệm vững vàng. Những người lính đối mặt với khó khăn bằng tiếng cười đùa đầy sảng khoái:

“Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

Nhịp thơ 3/2/3, 4/3 chứa đầy niềm vui phơi phới của những chàng thanh niên trẻ lên đường cứu quốc. Đọc câu thơ nhưng người ta có thể thấy được cả tiếng cười sảng khoái, hết mình của những người lính lái xe Trường Sơn. Thêm vào đó, ở câu thơ cuối khổ thơ thứ 4, ta có thể thấy một câu thơ 7 tiếng mà có tới 6 tiếng thanh bằng “mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi” gợi lên cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, rất ung dung, lạc quan. Những câu thơ của chàng lính trẻ Phạm Tiến Duật chứa đựng sự sôi nổi, tinh nghịch của những người chiến sĩ, ta như thấy họ đang đùa giỡn, đang vui vẻ cùng nhau trong đoạn đường lái xe gian khổ ấy. Tất cả những gian khổ, khó khăn đều được xoá nhoà bằng nụ cười sảng khoái, trẻ trung, ngang tàng trên môi những người chiến sĩ. Chính Phạm Tiến Duật cũng là một người lính lái xe, vậy nên có lẽ ông hiểu được những hiện thực gần gũi của đời sống người lính và đưa vào thơ một cách đầy táo bạo. Những vần thơ của ông không hề chau chuốt nhưng lại làm nổi bật lên hình ảnh của những người lính trẻ hồn nhiên, lạc quan, rất yêu đời, sẵn sàng cống hiến tuổi xuân cho Tổ quốc và đối diện với khó khăn bằng một tinh thần rất đỗi ngang tàng, dũng cảm.

Hai khổ thơ 3 và 4 trong tác phẩm “Bài thơ về Tiểu đội xe không kính” đã cho chúng ta thấy được những gian khổ, thiếu thốn mà người lính lái xe đã phải đối mặt trong chặng đường tiến về miền Nam. Bằng giọng thơ trẻ trung, sôi nổi, có chút ngang tàng, Phạm Tiến Duật đã làm nổi bật lên tinh thần lạc quan của những người lính trẻ năm nào. Các biện pháp như điệp từ cùng sự so sánh liên tưởng độc đáo, ngôn ngữ thơ bình dị, quen thuộc đã xây dựng nên hình tượng những người chiến sĩ Trường Sơn rất thành công.

“Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, đặc biệt là khổ 3 và 4 đã cho chúng ta thấy được một hình ảnh rất độc đáo – những chiếc xe không kính. Thông qua đó, tác giả đã làm nổi bật hình tượng những người lính lái xe trẻ tuổi với tư thế hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, bất chấp mọi khó khăn, một lòng hướng về miền Nam phía trước. Họ là những tấm gương tiêu biểu cho thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

—————–HẾT—————–

Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật là một bài thơ rất hay về những người lính lái xe trên đường Trường Sơn những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cùng tìm hiểu thêm về những gian lao mà người lính phải vượt qua cùng tinh thần lạc quan, trẻ trung yêu đời của họ thông qua các bài viết phân tích khác như: Phân tích khổ 1 2 Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phân tích khổ 5, 6 Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phân tích hình ảnh người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

Trích nguồn: Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung
Danh mục: Giáo dục

Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Cách đây 40 năm về trước, mặc dù miền Bắc XHCN khi đó đang nặng hai vai gánh cả non sông vượt dặm dài, vừa là hậu phương lớn chi viện tích cực cho các chiến trường với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, vừa là tiền tuyến đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo vẫn không ngừng phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu trước mắt và sự nghiệp tái thiết đất nước lâu dài sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu của công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch các vùng kinh tế mới,vùng chuyên canh, xây dựng các nông trường, Bộ Nông trường ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ) đã có Quyết định số 115 QĐ/TC ngày 05 th áng 9 năm 1968 về việc mở Lớp công nhân đo dạc - tiền thân của Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung ngày nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button